1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam

103 8 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Pháp Nâng Cao Năng Lực Tài Chính Tại Các Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
Tác giả Nguyễn Văn Thanh
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Loan
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kinh Tế Tài Chính Ngân Hàng
Thể loại luận văn thạc sĩ kinh tế
Năm xuất bản 2011
Thành phố TP. HỒ CHÍ MINH
Định dạng
Số trang 103
Dung lượng 1,86 MB

Cấu trúc

  • BÌA

  • LỜI CAM ĐOAN

  • LỜI CẢM ƠN

  • MỤC LỤC

  • TỪ NGỮ VIẾT TẮT ĐƯỢC SỬ DỤNG

  • DANH MỤC CÁC BẢNG

  • DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC TÀICHÍNH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

    • 1.1. Khái quát về năng lực tài chính và các tiêu chí đánh giá của NHTM:

    • 1.2. Sự cần thiết nâng cao năng lực tài chính NHTM và các nhân tố ảnhhưởng:

    • 1.3. Kinh nghiệm về nâng cao năng lực tài chính của các NHTM quốc tế và bàihọc đối với NHTM Việt Nam:

  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀICHÍNH TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM

    • 2.1. Khái quát về hệ thống NHTM tại Việt Nam:

    • 2.2. Thực trạng nâng cao năng lực tài chính tại các NHTM Việt Nam:

    • 2.3. Các hạn chế trong nâng cao năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam

  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀICHÍNH TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM

    • 3.1. Mục tiêu nâng cao năng lực tài chính của NHTM Việt Nam:

    • 3.2. Giải pháp nâng cao năng lực tài chính của NHTM Việt Nam:

    • 3.3. Một số kiến nghị đối với các ban ngành liên quan

  • KẾT LUẬN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • Phụ lục 1: CÁC KÝ HIỆU XẾP HẠNG CỦA MOODY’S

  • Phụ lục 2: CHI TIẾT CÁC THANG XẾP HẠNG CỦA MOODY’S

  • Phụ lục 3: KẾT QUẢ XẾP HẠNG MỘT SỐ NH VIỆT NAM CỦA MOODY’ :

  • Phụ lục 4: Quy mô vốn điều lệ của một số NH TMCP tháng 6/2011: (tỷ giá quyđổi USD/VND = 21.011)

  • Phụ lục 5: Quy mô vốn của một số Ngân hàng trong khu vực năm 2009 (Đơn vịtính: triệu USD)

  • Phụ lục 6: Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các cổ đông chiến lược nước ngoài tại cácNH Việt Nam năm 2010.

  • Phụ lục 7: Vốn điều lệ của các NHTM Việt Nam qua các năm: (Đvt: tỷ đồng)

  • NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA LUẬN VĂN

Nội dung

Khái quát về năng lực tài chính và các tiêu chí đánh giá năng lực tài chính của NHTM

Khái niệm về năng lực tài chính tại NHTM

1.1.1.1 Ngân hàng thương mại: Đạo luật Ngân hàng của Cộng Hòa Pháp có nêu rõ: Ngân hàng thương mại là những cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới hình thức khác, và sử dụng nguồn lực đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính

Theo Luật các Tổ chức tín dụng được Quốc hội khóa X thông qua vào ngày 12/12/1997, ngân hàng thương mại được định nghĩa là một loại hình tổ chức tín dụng thực hiện toàn bộ các hoạt động ngân hàng cùng với các hoạt động liên quan khác.

Tổ chức tín dụng là doanh nghiệp hoạt động theo quy định của pháp luật, chuyên cung cấp dịch vụ ngân hàng, nhận tiền gửi và sử dụng số tiền đó để cấp tín dụng cũng như cung ứng các dịch vụ thanh toán.

Còn theo Luật các TCTD năm 2010 có hiệu lực ngày 01/01/2011 quy định

Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng thực hiện đầy đủ các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật, với mục tiêu chính là tạo ra lợi nhuận.

Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, giúp tập trung nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội Hệ thống này không chỉ huy động vốn mà còn cung cấp tín dụng cho các tổ chức kinh tế và cá nhân, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

1.1.1.2 Hoạt động của Ngân hàng thương mại:

Theo Điều 98 đến Điều 107 của Luật các TCTD năm 2010 có quy định về hoạt động ngân hàng của NHTM , bao gồm:

Huy động vốn là hoạt động cốt lõi trong quá trình kinh doanh, đóng vai trò quan trọng trong việc khởi đầu và thiết lập nền tảng cho các hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM).

Theo Điều 45 của Luật Các Tổ Chức Tín Dụng, ngân hàng có quyền nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức như tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác.

Khi nhu cầu tín dụng gia tăng và nguồn tiền gửi tăng chậm, việc vay mượn trên thị trường tiền tệ trở nên quan trọng đối với các ngân hàng thương mại (NHTM) Các NHTM có thể vay từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm Ngân hàng Nhà nước, các tổ chức tài chính khác và từ công chúng.

Hoạt động tín dụng và đầu tư:

Hoạt động tín dụng là việc cấp tín dụng cho tổ chức và cá nhân thông qua các hình thức như cho vay, chiết khấu thương phiếu, bảo lãnh và cho thuê tài chính, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Trong đó, cho vay là hoạt động tạo ra khả năng sinh lời lớn nhất và đóng góp nguồn thu chủ yếu cho các tổ chức tín dụng.

Ngân hàng cung cấp nhiều dịch vụ bảo lãnh, bao gồm bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh khác, dựa trên uy tín và khả năng tài chính của mình Ngoài ra, ngân hàng cũng thực hiện chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn cho tổ chức và cá nhân, đồng thời có khả năng tái chiết khấu các tài sản này cho các tổ chức tín dụng khác Đối với hoạt động cho thuê tài chính, ngân hàng cần thành lập công ty cho thuê tài chính riêng để thực hiện dịch vụ này.

Hoạt động đầu tư là việc góp vốn và mua cổ phần của các doanh nghiệp cũng như các tổ chức tín dụng trong nước theo quy định pháp luật Bên cạnh đó, ngân hàng thương mại còn có thể góp vốn, mua cổ phần và liên doanh với ngân hàng nước ngoài để thành lập ngân hàng liên doanh.

Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ bao gồm việc cung cấp phương tiện thanh toán và thực hiện các dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng Các dịch vụ này bao gồm thu hộ, chi hộ, và thanh toán quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép Ngoài ra, các ngân hàng còn thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt, tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ, tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước và hệ thống thanh toán quốc tế khi được phép.

Các hoạt động cung cấp dịch vụ khác của ngân hàng bao gồm tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, vàng, bất động sản, dịch vụ bảo hiểm, ủy thác và đại lý, cùng với các dịch vụ tư vấn Mặc dù ngân hàng có nhiều hoạt động đa dạng, nhưng chúng chỉ được phép thực hiện những hoạt động được ghi trong giấy phép Quyết định về các hoạt động này sẽ do Ngân hàng Nhà nước đưa ra theo từng trường hợp cụ thể.

Trên cơ sở đó, NHTM có 02 chức năng chính sau: chức năng trung gian tài chính và chức năng tạo tiền:

Ngân hàng thương mại (NHTM) đóng vai trò trung gian tài chính thông qua việc thực hiện các nghiệp vụ như cấp tín dụng, thanh toán, kinh doanh tiền tệ, kinh doanh chứng khoán và nhiều hoạt động môi giới khác Chức năng "trung gian" này thể hiện mối liên kết giữa các khách hàng và giữa Ngân hàng Nhà nước với công chúng.

Chức năng tạo tiền là khả năng sáng tạo ra bút tệ, góp phần tăng cường khối tiền tệ để phục vụ nhu cầu chu chuyển và phát triển kinh tế Theo định nghĩa của IMF, khối tiền tệ của một quốc gia bao gồm tiền giấy, tiền kim loại và tiền gửi không kỳ hạn tại ngân hàng.

Vì vậy, để thực hiện tốt các chức năng trên, đòi hỏi NHTM phải có một nguồn tài chính vững mạnh – năng lực tài chính

1.1.1.3 Tài chính và Năng lực tài chính của NHTM:

Các tiêu chí đánh giá năng lực tài chính tại NHTM

Năng lực tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) được xác định qua khả năng tạo ra lợi nhuận ổn định vượt trội so với đối thủ và mức trung bình ngành, đồng thời đảm bảo hoạt động an toàn và vị thế cạnh tranh tốt Để đánh giá năng lực tài chính, cần xem xét các tiêu chí như mức độ an toàn, khả năng phát triển, tính thanh khoản và lợi nhuận mục tiêu của ngân hàng.

1.1.2.1 Vốn tự có của NHTM:

Vốn tự có của ngân hàng là nguồn vốn riêng do chủ sở hữu đóng góp ban đầu và được bổ sung qua lợi nhuận giữ lại trong quá trình kinh doanh Theo các cơ quan quản lý ngân hàng, vốn tự có được phân chia thành hai loại.

Vốn cấp I, hay còn gọi là vốn cơ bản, là phần quan trọng nhất trong vốn chủ sở hữu, mang tính ổn định lâu dài và là nền tảng để hình thành các nguồn vốn khác Bao gồm vốn điều lệ, quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ, quỹ đầu tư phát triển nghiệp vụ, quỹ dự phòng tài chính và lợi nhuận không chia, vốn cấp I đóng vai trò thiết yếu trong hoạt động của các ngân hàng thương mại nhà nước và ngân hàng thương mại cổ phần.

Vốn cấp II, hay còn gọi là vốn bổ sung, là một phần tài sản nợ có tính ổn định và khả năng chuyển đổi thành vốn Các thành phần của vốn bổ sung bao gồm giá trị tăng thêm từ việc đánh giá lại tài sản cố định, giá trị tăng thêm từ chứng khoán đầu tư như vốn góp và cổ phiếu, trái phiếu chuyển đổi do ngân hàng thương mại phát hành đáp ứng các điều kiện nhất định, các công cụ nợ có điều kiện, và dự phòng chung tối đa lên đến 1,25% tổng tài sản có rủi ro.

Theo Luật các TCTD năm 2010 tại Việt Nam, vốn tự có của tổ chức tín dụng bao gồm giá trị thực của vốn điều lệ, vốn cấp của chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các quỹ dự trữ cùng một số tài sản nợ khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Khi cho vay, tổng dư nợ cho vay của ngân hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của ngân hàng đó.

1.1.2.2 Tỷ lệ an toàn vốn của NHTM:

Tỷ lệ an toàn vốn cao của ngân hàng cho phép đầu tư vào các lĩnh vực có mức rủi ro tương đối, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh lời và đảm bảo an toàn tài chính.

Khả năng mở rộng vốn tự có của ngân hàng phụ thuộc vào triển vọng tăng vốn để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh Quy mô vốn tự có thường được xác định theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Bảo đảm an toàn và phát triển vốn là nguyên tắc cốt lõi trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng Để bảo vệ tài sản có chứa rủi ro, ngân hàng cần duy trì mức vốn tự có tối thiểu, được đo bằng tỷ lệ an toàn vốn Theo quy định của hiệp ước BASEL, hệ số an toàn vốn (CAR) là chỉ số quan trọng trong việc đánh giá khả năng tài chính của ngân hàng.

Tổng tài sản “có” rủi ro

Tổng tài sản “Có” rủi ro được xác định bởi hai khoản chính, trong đó tài sản “Có” rủi ro nội bảng được tính theo công thức: Tài sản có nội bảng nhân với hệ số rủi ro.

+ Tài sản “Có” rủi ro ngoại bảng = Tài sản ngoại bảng x Hệ số chuyển đổi x Hệ số rủi ro

Nếu các ngân hàng có quy mô vốn nhỏ mở rộng hoạt động đến mức tỷ lệ an toàn vốn giảm xuống dưới 8%, thì sẽ gia tăng rủi ro cho hoạt động của ngân hàng.

NH sẽ là rất lớn Các cơ quan quản lý NH và thị trường tài chính thường đòi hỏi vốn

NH phải phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác

Một ngân hàng có mức vốn tự có lớn không chỉ đảm bảo hoạt động an toàn mà còn thể hiện sức mạnh tài chính của ngân hàng đó.

1.1.2.3 Quy mô và tăng trưởng tài sản của NHTM:

Tài sản là yếu tố chủ yếu phản ánh hoạt động của ngân hàng thương mại (NHTM), với quy mô, cơ cấu và chất lượng tài sản quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng Tài sản được chia thành tài sản sinh lời và tài sản không sinh lời, trong đó chất lượng tài sản là chỉ tiêu tổng hợp thể hiện khả năng bền vững tài chính và năng lực quản lý của NHTM Đánh giá quy mô và chất lượng tài sản được thực hiện thông qua các chỉ tiêu cụ thể.

Tốc độ tăng trưởng tổng tài sản và tính đa dạng hóa trong tài sản là những yếu tố quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe tài chính của doanh nghiệp Bên cạnh đó, tổng dư nợ và tốc độ tăng trưởng của dư nợ cũng cần được xem xét kỹ lưỡng, đặc biệt là tỷ trọng dư nợ trên tổng tài sản có Các chỉ số như tỷ lệ quá hạn và tỷ lệ nợ xấu phản ánh khả năng quản lý rủi ro tín dụng, trong khi tình hình đảm bảo tiền vay giúp đánh giá khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

Quy mô và chất lượng nguồn vốn của ngân hàng được xác định qua tổng nguồn vốn huy động với chi phí thấp, tính ổn định cao và cơ cấu hợp lý, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư và thanh khoản Ngân hàng cần cân nhắc rủi ro và sự ổn định của nguồn vốn để đầu tư vào các dự án dài hạn, cũng như đánh giá sự chênh lệch giữa chi phí vay và lợi nhuận từ đầu tư Các chỉ tiêu đánh giá quy mô và chất lượng nguồn vốn bao gồm tổng nguồn vốn, tốc độ tăng trưởng, cơ cấu nguồn vốn, thị phần huy động, tỷ lệ nguồn vốn ngắn hạn trên tài sản ngắn hạn và lãi suất huy động bình quân.

Để đạt được sự tăng trưởng tổng tài sản bền vững, cần nghiên cứu mối quan hệ giữa cơ cấu tài sản và nguồn vốn Mối tương quan này giúp đánh giá tính tối ưu trong cơ cấu tài sản - nguồn vốn, khả năng ứng phó của ngân hàng trước những biến động bất thường trong môi trường kinh doanh, cũng như khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền của công chúng Sự phối hợp hiệu quả giữa hai yếu tố này sẽ giúp ngân hàng tối đa hóa thu nhập và kiểm soát rủi ro một cách chặt chẽ.

1.1.2.4 Khả năng sinh lời của NHTM:

Sự cần thiết nâng cao năng lực tài chính của NHTM và các nhân tố ảnh hưởng

Sự cần thiết nâng cao năng lực tài chính của NHTM

Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình kết nối nền kinh tế thị trường của mỗi quốc gia với kinh tế khu vực và toàn cầu, thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa ở các cấp độ đơn phương, song phương và đa phương.

Các quốc gia đều tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của WTO như Tối huệ quốc, Đối xử quốc gia, Mở cửa thị trường và các hành động khẩn cấp Trong lĩnh vực tài chính-ngân hàng, các nguyên tắc và chuẩn mực của Basel được áp dụng để đánh giá hiệu quả và an toàn của ngân hàng, bao gồm việc tuân thủ các chỉ tiêu, cung cấp hệ thống thông tin giám sát, cũng như đảm bảo an toàn vốn, trích lập dự phòng rủi ro, và thực hiện các chuẩn mực về kế toán, thống kê và báo cáo.

Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế hội nhập, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần nhận thức rõ sự cần thiết phải nâng cao năng lực tài chính Hội nhập tài chính quốc tế mang lại cả cơ hội và rủi ro; cơ hội bao gồm nguồn lực tài chính, công nghệ và kinh nghiệm quản lý, trong khi rủi ro có thể là sự rối loạn tài chính nếu thị trường kém phát triển Hội nhập tài chính là quá trình mở cửa cho sự tham gia vào lĩnh vực tài chính, yêu cầu các ngân hàng phải tự cải tổ để nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh hiệu quả trong bối cảnh mới Áp lực cạnh tranh sẽ là động lực thúc đẩy sự phát triển này.

Các ngân hàng thương mại (NHTM) cần nâng cao năng lực tài chính để tối đa hóa lợi nhuận và đạt được mục tiêu tăng trưởng Việc cải thiện hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh là yếu tố then chốt giúp NHTM đạt được những mục tiêu này.

Để đảm bảo hoạt động kinh doanh hiệu quả, ngân hàng cần xác định quy mô vốn phù hợp, ảnh hưởng đến khả năng cho vay và đầu tư Quy mô vốn quyết định nguồn tiền gửi, mức cho vay tối đa, và các hoạt động như mở chi nhánh hay mua sắm tài sản cố định Phương thức kinh doanh “đi vay để cho vay” yêu cầu ngân hàng phải đánh giá đúng nhu cầu vốn và lựa chọn hình thức huy động vốn đa dạng, giúp tập trung vốn kịp thời, đáp ứng nhu cầu kinh doanh.

Sử dụng vốn kinh doanh hợp lý và hiệu quả là yếu tố then chốt để ngân hàng tạo ra lợi nhuận cao Trong bối cảnh cạnh tranh lãi suất, các ngân hàng thương mại cần tối ưu hóa chi phí để giảm lãi suất cho vay Việc quản lý lãi suất tiền gửi và tiền vay một cách khéo léo không chỉ giúp thay đổi quy mô và loại hình nguồn vốn mà ngân hàng có thể thu hút, mà còn nâng cao năng lực tài chính Điều này là cần thiết để đối phó với biến động lãi suất thị trường, từ đó kiểm soát nguồn thu từ lãi, chi phí lãi phải trả, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên, và giá trị tài sản của ngân hàng.

Đảm bảo an toàn trong sử dụng vốn là yếu tố quan trọng giúp ngân hàng (NH) chống đỡ rủi ro và duy trì hoạt động kinh doanh ổn định Theo quy định quốc tế Basel II, tỷ lệ an toàn vốn (CAR) của NH cần đạt tối thiểu 8% để có khả năng mở rộng hoạt động và tránh nguy cơ phá sản Nâng cao năng lực tài chính không chỉ giúp NH phòng ngừa rủi ro mà còn đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về chất lượng dịch vụ từ khách hàng trong nền kinh tế thị trường hiện đại Khách hàng hiện nay có nhiều thông tin và yêu cầu cao hơn về dịch vụ, sản phẩm đa dạng và giá cả cạnh tranh, do đó NH cần đầu tư và điều chỉnh để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng hiện tại và tương lai.

Trong bối cảnh hiện đại hóa công nghệ và cạnh tranh ngày càng gay gắt, đổi mới công nghệ ngân hàng đã trở thành một chủ đề được chú trọng hơn bao giờ hết Sự phát triển của xã hội hiện đại khẳng định rằng hoạt động ngân hàng không thể tách rời khỏi sự tiến bộ mạnh mẽ của công nghệ thông tin Những thay đổi trong công nghệ thông tin đã có ảnh hưởng sâu rộng tới công nghệ ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực tài chính của các ngân hàng.

Năng lực công nghệ của ngân hàng được đánh giá qua việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và kinh doanh, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cung cấp sản phẩm, dịch vụ hiện đại Việc này không chỉ cải thiện chất lượng sản phẩm ngân hàng mà còn giúp tiết kiệm chi phí lao động và quản lý, tăng năng suất lao động, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và lợi nhuận cho ngân hàng.

Đầu tư vào công nghệ và trang thiết bị hiện đại để cung cấp dịch vụ chính xác và tiện ích là rất tốn kém và thời gian thu hồi vốn lâu Điều này đòi hỏi ngân hàng phải có nguồn vốn lớn từ chính mình Ngân hàng có mức vốn nhỏ sẽ gặp khó khăn trong việc hiện đại hóa công nghệ, dẫn đến giảm năng lực tài chính.

Các nhân tố ảnh hưởng đến nâng cao năng lực tài chính của NHTM

Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của ngân hàng thương mại (NHTM) là cần thiết để đánh giá và tìm ra giải pháp nâng cao năng lực này Luận văn này tập trung vào hai nhóm nhân tố chính: nhân tố khách quan, bao gồm chính sách vĩ mô của nhà nước và biến động kinh tế toàn cầu; và nhân tố chủ quan từ NHTM, như chiến lược kinh doanh, khả năng quản trị, nguồn nhân lực và công nghệ.

Chính sách vĩ mô của Chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và giám sát ngành ngân hàng thông qua NHTW, đồng thời là chủ sở hữu và con nợ lớn nhất của các NHTM Chính phủ định hướng phát triển chung cho toàn ngành và phối hợp nỗ lực của hệ thống ngân hàng Các chính sách của Chính phủ ảnh hưởng đến cung - cầu, ổn định kinh tế vĩ mô, phát triển thị trường chứng khoán và các yếu tố sản xuất, từ đó tác động đến sự phát triển của ngành ngân hàng Hiện nay, nỗ lực cổ phần hóa các NHTM của Chính phủ có thể thay đổi hoặc kìm hãm kế hoạch nâng cao năng lực tài chính và chiến lược kinh doanh của các ngân hàng thương mại.

Khi xây dựng chiến lược kinh doanh, các ngân hàng thương mại (NHTM) cần chú trọng đến tác động của quy định pháp luật, đường lối chiến lược và ảnh hưởng của các chính sách kinh tế vĩ mô đối với xu hướng hoạt động của hệ thống NHTM trong nền kinh tế.

Sự phát triển của thị trường tài chính và các công cụ tài chính giúp các chủ thể trong nền kinh tế dễ dàng huy động vốn qua việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu Điều này không chỉ tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại (NHTM) tăng vốn tự có mà còn mang lại cơ hội đầu tư đa dạng cho những người có tiền, ngoài việc gửi tiết kiệm tại NHTM Tuy nhiên, sự cạnh tranh này có thể làm thu hẹp thị phần huy động và cho vay của NHTM, ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận và khả năng tài chính của các ngân hàng tại Việt Nam.

Quá trình hội nhập đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam, khi các ngân hàng nước ngoài gia nhập thị trường và tương tác với các ngân hàng nội địa, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh Hơn nữa, hội nhập còn tạo điều kiện cho thị trường tài chính Việt Nam kết nối với hệ thống tài chính toàn cầu, mở ra nhiều cơ hội phát triển mới.

Cơ chế hoạt động của các NHTM: Với cơ chế hoạt động thông thoáng cho các

NHTM có quyền đa dạng hóa dịch vụ và nâng cao quyền tự chủ trong kinh doanh, không còn bị hạn chế về phạm vi hoạt động Điều này cho phép ngân hàng chủ động tuyển dụng nhân sự, tìm kiếm các dự án hiệu quả, tự chịu trách nhiệm với các khoản vay và xác định giá trị tài sản đảm bảo theo giá thị trường Những yếu tố này sẽ thúc đẩy các ngân hàng cạnh tranh và cải thiện năng lực tài chính.

Sự biến động của nền kinh tế: Trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế, các

Các ngân hàng thương mại (NHTM) có nhiều cơ hội để cải thiện năng lực tài chính thông qua việc kêu gọi cổ đông mua thêm cổ phần và bổ sung nguồn vốn từ lợi nhuận chưa chia Tuy nhiên, trong thời kỳ suy thoái kinh tế, khi doanh nghiệp gặp khó khăn, thị trường chứng khoán ảm đạm và thị trường bất động sản đóng băng, việc nâng cao năng lực tài chính của NHTM sẽ gặp nhiều trở ngại Do đó, khả năng cải thiện tài chính của các NHTM phụ thuộc lớn vào sự biến động của nền kinh tế.

1.2.2.2 Nhân tố chủ quan từ phía NHTM:

Chiến lược kinh doanh của ngân hàng (NH) là một chương trình hoạt động dài hạn nhằm thúc đẩy sự phát triển của NH, thể hiện cam kết về các mục tiêu cơ bản và toàn diện cần đạt được Việc phân bổ nguồn lực quan trọng là cần thiết để đạt được những mục tiêu này trong môi trường hoạt động tương lai Một chiến lược kinh doanh đúng hướng và phù hợp với thực tiễn sẽ mang lại kết quả cao, trong khi chiến lược không phù hợp có thể dẫn đến thất bại.

Chiến lược kinh doanh của ngân hàng cần phải dựa trên chính sách tài chính của Chính phủ, sự phát triển của hệ thống tài chính và thực tế hoạt động của ngân hàng Điều này đảm bảo tính kế thừa và khả năng thích ứng với những thay đổi của thị trường qua từng giai đoạn Nội dung chiến lược cần rõ ràng, thuyết phục và có tính khả thi cao.

Khi một mục tiêu được đưa vào chiến lược kinh doanh của ngân hàng, điều này thể hiện sự định hướng dài hạn từ Ban lãnh đạo Ngân hàng cần chuẩn bị các nguồn lực phù hợp với điều kiện và môi trường kinh doanh để đảm bảo thực hiện mục tiêu Chiến lược kinh doanh không chỉ là những hướng đi mơ hồ mà luôn nhắm đến các mục tiêu cụ thể, phản ánh kết quả chung mà ngân hàng cần đạt được trong tương lai Do đó, việc nâng cao năng lực tài chính trong chiến lược kinh doanh của ngân hàng là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự thành công.

Chất lượng nguồn nhân lực đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao năng lực tài chính, giúp triển khai hoạt động kinh doanh một cách nhanh chóng và hiệu quả, đồng thời giảm thiểu rủi ro về quy trình, nghiệp vụ và pháp lý Không chỉ trong lĩnh vực tài chính, mà hầu hết các lĩnh vực kinh tế đều coi chất lượng nhân sự là yếu tố quyết định Đặc biệt, bộ máy quản lý cấp cao cần có chất lượng tốt, vì họ là những người dẫn dắt trong việc xây dựng, hoạch định và giám sát thực thi các chiến lược kinh doanh của toàn hệ thống.

Quá trình tuyển dụng và đào tạo nhân sự là yếu tố quan trọng mà các ngân hàng thương mại (NHTM) cần chú trọng Để đảm bảo có được nguồn nhân lực chất lượng cao, các NHTM nên xây dựng quy trình tuyển dụng và đào tạo bài bản, khoa học và theo tiêu chuẩn nhất định.

Công nghệ thông tin đóng vai trò then chốt trong sự thành công của ngân hàng, với các hệ thống như thanh toán, quản lý khách hàng, ngân hàng lõi và ngân hàng trực tuyến Những hệ thống này không chỉ hỗ trợ quản lý kinh doanh hiệu quả mà còn nâng cao tính cạnh tranh so với đối thủ Đầu tư vào công nghệ thông tin tiên tiến và hiện đại giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và năng lực tài chính của ngân hàng thương mại.

Kinh nghiệm về nâng cao năng lực tài chính của các NHTM quốc tế và bài học đối với NHTM Việt Nam

Kinh nghiệm của các NHTM quốc tế

Từ những năm 90, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng tài chính 1997 ở Đông Nam Á, các ngân hàng thương mại (NHTM) ở khu vực này, Trung Quốc và Nhật Bản đã bộc lộ nhiều yếu kém về năng lực tài chính như nợ quá hạn cao và tỷ lệ an toàn thấp Xu hướng hội nhập sâu rộng đã tạo áp lực buộc các nước đang phát triển phải nhanh chóng nâng cao năng lực của NHTM trong nước Do đó, việc cải thiện năng lực tài chính đã trở thành một trào lưu không chỉ ở các NHTM của nước đang phát triển mà còn ở các nước phát triển Đây là vấn đề quan trọng cần được đánh giá để rút ra bài học kinh nghiệm cho hoạt động của NHTM Việt Nam.

Cơ cấu lại ngân hàng là một yếu tố quan trọng ở các nước đang phát triển, đặc biệt là tại Đông Nam Á, Nhật Bản và Trung Quốc, sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 Việc này không chỉ giúp ổn định hệ thống tài chính mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế Các biện pháp tái cấu trúc ngân hàng bao gồm cải thiện quản lý rủi ro, tăng cường vốn và nâng cao hiệu quả hoạt động, nhằm tạo ra một môi trường tài chính vững mạnh hơn.

1997 nhằm tăng năng lực cạnh tranh của các NHTM trong nước với nhiều giải pháp như:

Các ngân hàng thương mại (NHTM) quyết tâm xử lý triệt để các khoản nợ xấu bằng cách thành lập các công ty con chuyên mua bán nợ và khai thác tài sản, tương tự như mô hình của Trung Quốc, Thái Lan, Hàn Quốc và Nhật Bản Những công ty này có nhiệm vụ mua lại nợ nhằm thúc đẩy quá trình lành mạnh hóa tài chính và cải cách quản lý nợ, phân loại nợ thành 5 cấp độ dựa trên mức độ rủi ro Kết quả, các ngân hàng Trung Quốc đã xử lý thành công 108,4 tỷ NDT nợ khó đòi và bán được 149,8 tỷ NDT, giúp giảm tỷ lệ nợ xấu từ 16,29% xuống còn 5,46% vào năm 2004.

Bán đấu giá nợ xấu cho ngân hàng nước ngoài giúp các ngân hàng thương mại thu hồi một phần vốn từ tài sản không sinh lời, từ đó nâng cao tiềm lực tài chính Các ngân hàng thương mại Trung Quốc cũng tham gia vào quá trình này để cải thiện tình hình tài chính của mình.

Tập đoàn tài chính Morgan Stanley của Mỹ và Deutsche Bank của Đức đã xử lý nợ xấu với giá 171 triệu USD, chỉ bằng 1/3 khoản nợ ban đầu Đồng thời, Korea First Bank của Hàn Quốc đã chuyển nhượng 51% cổ phần cho New Bridge Bank của Mỹ.

Các ngân hàng thương mại (NHTM) thường áp dụng hệ thống phân loại tín dụng dựa trên yếu tố rủi ro, chia khoản cho vay thành hai loại: khoản cho vay hiệu quả và khoản cho vay cần theo dõi Khoản cho vay hiệu quả được trích lập dự phòng ở tỷ lệ chung, trong khi khoản cho vay cần theo dõi bao gồm các khoản có dấu hiệu rủi ro, khoản vay bị nghi ngờ khó thu hồi và khoản vay có khả năng phải xoá nợ Tỷ lệ dự phòng sẽ được điều chỉnh dựa trên mức độ rủi ro của từng khoản vay, với tỷ lệ trích lập cao hơn đối với các khoản vay có dấu hiệu khó thu hồi.

Việc sáp nhập ngân hàng nhằm tạo ra các tập đoàn tài chính lớn với sức cạnh tranh cao đã diễn ra trên toàn cầu, như trường hợp Deutsche Bank mua lại Banker Trust tại Mỹ và sự kết hợp giữa UFJ Holdings và Mitsubishi - Tokyo Financial Group (MTFG) tại Nhật Bản MTFG, được đánh giá là ngân hàng quản lý tài sản tốt nhất, đã thôn tính UFJ Holdings, ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu (NPL) cao Sự hình thành của các tập đoàn tài chính này đã mang lại động lực mới cho ngành ngân hàng và nền kinh tế Nhật Bản Đồng thời, các ngân hàng thương mại Trung Quốc cũng đang đặt mục tiêu nâng cao năng lực tài chính để củng cố sức cạnh tranh trong khu vực.

Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM), cần xây dựng cơ chế để ngân hàng tự chịu trách nhiệm đầu tư và quản lý các khoản vay của mình Điều này không chỉ giúp tăng cường tính minh bạch và giảm nợ xấu, mà còn nâng cao khả năng quản lý giám sát nội bộ Đồng thời, việc thực hiện tinh giảm biên chế sẽ góp phần nâng cao hiệu quả làm việc trong các ngân hàng.

Để trở thành một ngân hàng toàn cầu có khả năng quản lý vốn tầm cỡ quốc tế, việc cải thiện cơ sở hạ tầng thông tin là rất quan trọng, đặc biệt đối với ngân hàng xây dựng Trung Quốc.

Nâng cao khả năng sử dụng ngân hàng điện tử tại các tổ chức tài chính là một yếu tố quan trọng, đồng thời phát triển phần mềm hỗ trợ cho việc thẩm định và đánh giá rủi ro tín dụng là nhiệm vụ cần thiết của Ngân hàng Công thương Trung Quốc.

Xoá bỏ chi nhánh làm ăn thua lỗ, mở chi nhánh đến khu vực đang phát triển

Việc loại bỏ các chi nhánh kinh doanh không hiệu quả sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu chi phí và tập trung nguồn lực vào những hoạt động có khả năng sinh lợi.

Mở chi nhánh tại các khu vực phát triển đang trở thành xu hướng, trái ngược với việc đóng cửa các chi nhánh thua lỗ Các ngân hàng có thể áp dụng cả hai chiến lược này, từ đó hình thành nên những tập đoàn tài chính toàn cầu như Citibank, Morgan, FujiBank, và Deutsche Bank Việc phát triển chi nhánh không chỉ tạo ra thị trường tiềm năng rộng lớn mà còn giúp giảm thiểu rủi ro tập trung vào nền kinh tế.

1.3.2 Bài học kinh nghiệm đối với NHTM Việt Nam:

Các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam có thể học hỏi từ kinh nghiệm nâng cao năng lực tài chính của các NHTM quốc tế, từ đó áp dụng những bài học quý giá để cải thiện hiệu quả hoạt động và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.

Các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện đang đối mặt với tình hình tài chính yếu, với tỷ lệ nợ xấu cao và an toàn vốn thấp Để nâng cao năng lực tài chính và cạnh tranh hiệu quả hơn trong khu vực, các ngân hàng cần tập trung vào việc xử lý nợ tồn đọng và nợ xấu Điều này sẽ giúp lành mạnh hóa bảng tổng kết tài sản, tăng cường vị thế cạnh tranh, nâng cao khả năng chịu đựng rủi ro và cải thiện khả năng thanh khoản.

Hai là , Các NHTM Việt Nam cần nghiên cứu kỹ quá trình mua bán, sáp nhập

Ngành ngân hàng đang trải qua một quá trình tất yếu và trở thành xu hướng toàn cầu, và các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng này Để nâng cao năng lực tài chính, các NHTM Việt Nam cần xây dựng kế hoạch cụ thể và đưa ra nhiều giải pháp thực tiễn nhằm thực hiện các mục tiêu đã đề ra.

Bài học kinh nghiệm đối với các NHTM Việt Nam

2.1 Khái quát về hệ thống NHTM tại Việt Nam:

2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam:

Vào ngày 6 tháng 5 năm 1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 15/SL, chính thức thành lập Ngân hàng Quốc Gia Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt lịch sử quan trọng cho sự hình thành và phát triển của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam sau này.

Giai đoạn 1951-1985, trước Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã bộc lộ sự kém hiệu quả, dẫn đến tình trạng sản xuất xã hội bị kìm hãm, lưu thông hàng hóa gặp ách tắc, kinh tế rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng, lạm phát gia tăng phi mã, và đời sống nhân dân trở nên khó khăn.

Hệ thống Ngân hàng trong giai đoạn này được tổ chức theo mô hình một cấp, mang tính bao cấp và kế hoạch hóa tập trung, với NHNN vừa là cơ quan quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, ngân hàng Môi trường pháp lý điều chỉnh hoạt động ngân hàng còn sơ khai, trong khi Hiến pháp ban hành năm 1980 chưa đủ cụ thể để điều chỉnh toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt là hoạt động ngân hàng.

Từ năm 1986 đến nay, sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới sâu sắc trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội Nền kinh tế chuyển sang mô hình hàng hóa nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường nhưng vẫn có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Nhiều đạo luật quan trọng đã được ban hành nhằm hỗ trợ quá trình này.

Vào tháng 3 năm 1988, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 53/HĐBT, với mục tiêu chuyển đổi ngân hàng sang hoạt động kinh doanh theo định hướng xã hội chủ nghĩa Nghị định này đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành mô hình ngân hàng mới, đánh dấu sự khởi đầu của hệ thống ngân hàng hai cấp tại Việt Nam, trong đó Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giữ vị trí trung tâm.

THỰC TRẠNG NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM

GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH TẠI CÁC NHTM VIỆT NAM

Ngày đăng: 03/08/2021, 14:14

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w