Phần mở đầu 2
Lý do chọn đề tài 2
Tấm bia đá tại Văn Miếu, Quốc Tử Giám khắc câu "Hiền tài là nguyên khí quốc gia", nhấn mạnh rằng hiền tài là yếu tố cốt lõi của một chính thể Khi phát huy yếu tố này, đất nước sẽ phồn thịnh, và những người tài giỏi đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển Lời nhắc nhở từ ông cha ta vẫn còn giá trị, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay khi chúng ta tập trung nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa "Chất xám" ở đây đại diện cho năng lực và trí tuệ con người, là nguồn lực cơ bản cho sự tăng trưởng kinh tế và xã hội, trong đó đội ngũ trí thức có trình độ cao đóng vai trò nòng cốt.
Trong bối cảnh khó khăn hiện nay, việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là cần thiết để tránh nguy cơ tụt hậu so với các nước phát triển Để rút ngắn khoảng cách này, trí tuệ được coi là "nhiên liệu" quan trọng cho sự phát triển kinh tế và xã hội Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI với nhiều biến đổi sâu sắc, chuyển mình từ nền kinh tế phụ thuộc vào thiên nhiên sang nền kinh tế hiện đại và đa dạng hơn.
Vai trò và trách nhiệm của đội ngũ trí thức ngày càng trở nên quan trọng trong bối cảnh biến đổi xã hội Tại Đại hội VII (1991) của Đảng, đã nhấn mạnh rằng trí thức có vai trò thiết yếu trong Cách mạng dân tộc dân chủ và càng quan trọng hơn trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội Giai cấp công nhân cần có đội ngũ trí thức hỗ trợ, và bản thân công - nông cũng phải được nâng cao tri thức để có thể thực hiện mục tiêu này Đến Đại hội IX, Đảng tiếp tục khẳng định rằng động lực chủ yếu để phát triển đất nước là sự đoàn kết toàn dân, dựa trên liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Việc nghiên cứu vai trò của trí thức, đặc biệt là tại Thành phố Vinh, là rất cần thiết trong bối cảnh đổi mới hiện nay Thành phố Vinh đã đạt nhiều thành tựu lớn về kinh tế - xã hội, hạ tầng và quản lý đô thị Với diện tích 66,9 km² và dân số 285.000 người (năm 2005), Vinh có lợi thế về giao thông với các tuyến đường sắt, bộ, không và thủy Được biết đến với truyền thống lịch sử phong phú, thành phố Vinh không chỉ là tỉnh lỵ của Nghệ An mà còn là đô thị loại II và trung tâm kinh tế, chính trị của khu vực Bắc Trung Bộ.
Mặc dù thành phố Vinh có tiềm năng và lợi thế, nhưng hiện tại vẫn chưa phát triển đúng mức, đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức Để thúc đẩy sự phát triển, thành phố cần nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố thúc đẩy, đặc biệt là những yếu tố đã được xác định là động lực Việc nghiên cứu đề tài "Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức Thành phố Vinh trong sự nghiệp Công nghiệp hóa, hiện đại hóa" là rất cấp bách, mang lại ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng.
Tình hình nghiên cứu 3
Trí thức đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước, đặc biệt trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa Nhiều nhà khoa học đã có những công trình nghiên cứu về động lực của trí thức, cung cấp cơ sở lý luận cho việc tìm hiểu sâu hơn về đề tài này Đặc biệt, các nghiên cứu như "Trí thức Nghệ An trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa" của T.S Đoàn Minh Duệ và khóa luận của Vũ Thị Thanh Huyền đã giúp ích nhiều trong việc phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp cho đội ngũ trí thức Nghệ An Những công trình này không chỉ khẳng định vai trò của trí thức mà còn là phương pháp luận hữu ích cho nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này.
Đội ngũ trí thức Nghệ An, đặc biệt là thành phố Vinh, đóng vai trò quan trọng trong việc giúp quê hương thoát nghèo và phát triển kinh tế Tuy nhiên, hiện nay chưa có nghiên cứu độc lập nào về đội ngũ trí thức tại thành phố này Chính vì vậy, chúng tôi quyết định tiến hành khảo sát sâu về đội ngũ trí thức tại thành phố Vinh từ năm
Từ năm 2002 đến 2005, chúng tôi đã đưa ra các giải pháp nhằm hỗ trợ lãnh đạo địa phương có cơ sở khoa học trong việc hoạch định chính sách Mục tiêu là khơi dậy tiềm năng của đông đảo trí thức tại Thành phố.
Mục đích nghiên cứu 4
Điều tra và khảo sát thực trạng đội ngũ trí thức tại thành phố Vinh là cần thiết để xác định những giải pháp phù hợp, nhằm phát huy vai trò của họ trong việc phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội của thành phố Vinh trong tương lai.
Nhiệm vụ của đề tài 4
1 Giới thuyết khái niệm trí thức
2 Điều tra, khảo sát thực trạng của trí thức Thành phố Vinh hiện nay, từ đó rút ra những kết luận b-ớc đầu về vai trò, vị trí của đội ngũ này
3 B-ớc đầu đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức Thành phố Vinh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ph-ơng pháp nghiên cứu 4
Để tiến hành thực hiện đề tài, chúng tôi đồng thời sử dụng các ph-ơng pháp sau:
- Ph-ơng pháp điều tra
- Ph-ơng pháp phân tích và tổng hợp
- Ph-ơng pháp đối chiếu, so sánh vi - kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của đề tài gồm 3 ch-ơng:
Ch-ơng I Trí thức và vai trò của trí thức
Ch-ơng II Thực trạng trí thức Thành phố Vinh hiện nay
Ch-ơng III Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức Thành phố Vinh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
Kết cấu của đề tài 4
ch-ơng i: trí thức và vai trò của trí thức
1 Giới thuyết về khái niệm trí thức
Đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào cho câu hỏi "Trí thức là gì?", với hơn 60 định nghĩa khác nhau được nêu ra theo Ja.Tehepanxky.
Theo Từ điển Bách khoa Liên Xô (1985) do A.M Prokhorov biên soạn, trí thức được định nghĩa là tầng lớp những người tham gia vào các hoạt động lao động trí óc phức tạp, có tính sáng tạo, đóng góp vào việc phát triển và truyền bá văn hóa.
T-ơng tự nh- vậy, trong Từ điển Bách khoa Triết học (Tiếng Nga, NXB Tiến bộ Moscow.1983) định nghĩa trí thức là: "Tầng lớp những ng-ời lao động trí óc và th-ờng có học vấn cao t-ơng ứng, có chức năng sáng tạo, phát tríển và phổ biến văn hóa "
Theo từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học (1986), trí thức được định nghĩa là một nhóm xã hội bao gồm những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sở hữu kiến thức chuyên môn cần thiết cho lĩnh vực lao động của họ.
Tầng lớp trí thức, đại diện cho lao động trí óc với trình độ cao, tuy không đông nhưng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước, vai trò này ngày càng gia tăng Là chủ thể của cách mạng khoa học và công nghiệp hiện đại, số lượng và chất lượng của trí thức đang biến đổi nhanh chóng, đồng thời cơ cấu của tầng lớp này cũng ngày càng phong phú.
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tầng lớp trí thức là một bộ phận quan trọng trong lực lượng lao động trí óc, đại diện cho sự sáng tạo và phức tạp trong các lĩnh vực lý thuyết, khoa học và giá trị tinh thần Những giá trị này không chỉ có ý nghĩa lý thuyết mà còn được ứng dụng vào sản xuất vật chất và tinh thần của xã hội, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng, hiệu quả và tốc độ phát triển Sự hiện đại hóa xã hội càng làm nổi bật vai trò của tầng lớp trí thức trong việc xây dựng Chủ nghĩa.
PhÇn néi dung 6
Giới thuyết về khái niệm trí thức 6
Cho đến nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất nào về "Trí thức" Theo Ja.Tehepanxky, có hơn 60 định nghĩa khác nhau về khái niệm này.
Theo Từ điển Bách khoa Liên Xô (1985) do A.M Prokhorov biên soạn, trí thức được định nghĩa là tầng lớp những người tham gia vào các hoạt động lao động trí óc phức tạp, có tính sáng tạo, đồng thời phát triển và truyền bá văn hóa.
T-ơng tự nh- vậy, trong Từ điển Bách khoa Triết học (Tiếng Nga, NXB Tiến bộ Moscow.1983) định nghĩa trí thức là: "Tầng lớp những ng-ời lao động trí óc và th-ờng có học vấn cao t-ơng ứng, có chức năng sáng tạo, phát tríển và phổ biến văn hóa "
Trí thức được định nghĩa trong Từ điển Chủ nghĩa xã hội khoa học (1986) là nhóm xã hội bao gồm những người làm nghề lao động trí óc phức tạp, sở hữu kiến thức chuyên môn cần thiết cho lĩnh vực lao động của họ.
Tầng lớp trí thức, đại diện cho lao động trí óc với trình độ cao, mặc dù không đông đảo trong xã hội, nhưng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của đất nước, vai trò này ngày càng gia tăng Là một chủ thể của cách mạng khoa học và công nghiệp hiện đại, số lượng và chất lượng của trí thức đang có sự biến đổi nhanh chóng, với cơ cấu ngày càng phong phú.
Theo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tầng lớp trí thức là bộ phận quan trọng trong lực lượng lao động trí óc, đóng vai trò chủ yếu trong việc phát triển lý thuyết, khoa học và giá trị tinh thần Những giá trị này không chỉ tồn tại trong lý thuyết mà còn được ứng dụng vào sản xuất vật chất và tinh thần, ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng và hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội Trong bối cảnh xã hội hiện đại, đặc biệt là trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội và Chủ nghĩa cộng sản, vai trò của trí thức càng trở nên quan trọng và gắn bó chặt chẽ với nền sản xuất hiện đại và giai cấp công nhân.
Trí thức là những người có hiểu biết sâu rộng và khả năng tư duy phản biện Trong các định nghĩa về trí thức, hai đặc điểm cơ bản thường được nhấn mạnh là kiến thức chuyên môn và khả năng áp dụng kiến thức vào thực tiễn.
Thứ nhất : Trí thức bao gồm những ng-ời có trình độ học vấn cao
Trí thức bao gồm những người lao động trí óc có chuyên môn cao, thường được xác định từ những người có trình độ từ Cao đẳng trở lên Họ cần có học vấn và bằng cấp tương ứng với ngành lao động của mình Đặc biệt, trí thức không chỉ là những người có chuyên môn cao mà còn phải thực hiện lao động trí óc phức tạp và sáng tạo Tuy nhiên, chỉ có chuyên môn và học vấn cao vẫn chưa đủ để được coi là trí thức.
Các nghiên cứu về trí thức khẳng định rằng không thể đồng nhất lao động trí óc với trí thức Trí thức không chỉ là người lao động trí óc, mà còn phải có sự kết hợp giữa "Trí" (hiểu biết) và "Thức" (lương tri và đức độ).
Theo J Kurmosov, trí thức là những người có văn hóa và đạo đức cao, tích cực tham gia vào đời sống xã hội Để được coi là trí thức, không chỉ cần có kiến thức mà còn phải có khả năng sáng tạo và tiêu chuẩn đạo đức Một người thiếu đức độ, dù có bằng cấp cao, cũng chỉ là "người có học" chứ không phải trí thức Tiêu chuẩn về học vấn của trí thức cũng tương đối, phản ánh yêu cầu của từng thời kỳ và dân tộc Trong quá khứ, những người như cụ đồ nho hay người đỗ tú tài được xem là có trình độ hiểu biết, trong khi ngày nay, bằng Cao đẳng, Đại học thường là điều kiện cần để được công nhận là trí thức Tuy nhiên, vẫn có những người có học vấn không cao nhưng đóng góp tích cực vào việc phát triển và truyền bá văn hóa trong cộng đồng.
Trí thức không chỉ là một giai cấp mà còn là một tầng lớp xã hội đặc biệt, không có mối quan hệ trực tiếp với tư liệu sản xuất Họ gắn bó chặt chẽ với các giai cấp khác trong xã hội và phục vụ nhu cầu của những giai cấp này Vai trò của trí thức trong chính trị và xã hội là vô cùng quan trọng.
Trí thức có một cơ cấu đa dạng và phức tạp, hiện diện trong mọi giai cấp và tầng lớp xã hội, bao gồm công nhân, nông dân Họ làm việc trong nhiều ngành nghề khác nhau như quản lý, giáo dục, khoa học, công nghệ, văn hóa, y tế, thể dục thể thao, dịch vụ, đối ngoại và quân sự.
Do đó, tôi hoàn toàn nhất trí với một số ý kiến chia tầng lớp trí thức thành
Nhóm 1 Gồm những ng-ời th-ờng gọi là nhân viên (viên chức), đó là những ng-ời lao động trí óc có ít chuyên môn, không đòi hỏi phải có trình độ đại học Họ là những nhân viên đánh máy, thủ quỹ, kế toán…lao động trí óc của họ chủ yếu là lao động thực hành, ít mang tính sáng tạo
Nhóm 2 Gồm những ng-ời là cán bộ chuyên môn, có trình độ Cao đẳng, Đại học nh- cán bộ nghiên cứu khoa học, kỹ s-, cán bộ kỹ thuật, giáo viên, bác sĩ, nhà báo Đây là một tập đoàn xã hội lớn gồm những ng-ời lao động trí óc có học vấn cao
Nhóm 3 Gồm những ng-ời vừa có trình độ chuyên môn vừa có trình độ quản lý
Trong xã hội Việt Nam hiện nay, quan niệm về trí thức vẫn còn hạn chế khi chỉ xem họ là những cán bộ khoa học kỹ thuật công nghệ Thực tế, trí thức bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có khoa học công nghệ, và cán bộ khoa học công nghệ chỉ là một phần của tầng lớp trí thức Để hiểu rõ hơn về trí thức và vai trò của họ, cuốn sách "Trí thức Việt Nam - thực tiễn và triển vọng" của Giáo sư Phạm Tất Dong đã chỉ ra bốn chức năng cơ bản của trí thức.
Vai trò của trí thức 9
Trí thức luôn là mối quan tâm hàng đầu của mọi thời đại, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của xã hội Giai cấp thống trị cần đội ngũ trí thức để thúc đẩy sự tiến bộ của dân tộc và lịch sử nhân loại Tầng lớp trí thức có những quan niệm khác nhau về trình độ và cơ cấu nghề nghiệp qua các giai đoạn lịch sử, nhưng họ luôn đại diện cho trí tuệ và đỉnh cao học vấn của xã hội Họ không chỉ có nhiệm vụ duy trì và phát triển văn hóa dân tộc mà còn góp phần vào sự phát triển chung của nhân loại.
Song, ở mỗi chế độ xã hội, tùy thuộc vào bản chất của nó mà vai trò trí thức đ-ợc thể hiện ở mức độ khác nhau
D-ới Chủ nghĩa t- bản, trí thức chủ yếu bao gồm nhà văn, các nhà hoạt động xã hội, luật gia, bác sĩ, nghệ sĩ, nhà kinh tế…do đó vai trò chủ yếu của họ là định h-ớng các hoạt động xã hội và khoa học cơ bản
Trong những năm 60 - 70 của thế kỷ XX, trí thức phát triển mạnh ở bộ phận bác học, kỹ s-, cán bộ kỹ thuật
D-ới Chủ nghĩa t- bản, trí thức phục vụ đắc lực cho giai cấp t- sản, họ th-ờng cũng có cổ phiếu và tham gia vào quá trình bóc lột lao động làm thuê, nh-ng họ lại lệ thuộc vào giai cấp t- sản bóc lột
Dưới Chủ nghĩa xã hội, trí thức là tầng lớp xã hội liên minh với công nhân và nông dân, tạo nền tảng vững chắc cho xã hội Họ theo hệ tư tưởng của giai cấp công nhân và nhiều đại diện trí thức gia nhập hàng ngũ những người cộng sản, trở thành những người làm chủ xã hội Vai trò của trí thức được nâng cao trong mọi lĩnh vực, từ việc phát minh khoa học, hướng dẫn và mở rộng ứng dụng, đến việc tham mưu và cố vấn cho các chính sách phát triển kinh tế, xã hội Họ cũng tham gia trực tiếp vào quản lý xã hội, đào tạo nhân tài và bồi dưỡng cán bộ.
Vai trò của trí thức ngày càng được khẳng định trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cho thấy rằng sự phát triển của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào tài nguyên mà còn vào khả năng sử dụng đội ngũ trí thức Nhật Bản là một ví dụ điển hình khi chất xám chiếm 80% giá trị sản phẩm công nghệ Tại Mỹ, trong thập kỷ 80, tăng trưởng kinh tế hàng năm đạt 3,3%, trong đó 1,8% đến từ tiến bộ khoa học công nghệ, cho thấy sự đóng góp lớn của trí thức vào nền kinh tế Trung bình, trong một thế kỷ qua, tiến bộ khoa học công nghệ đã đóng góp từ 40-70% vào tăng trưởng kinh tế của Mỹ Ông cha ta cũng đã nhận thức rõ vai trò của trí thức, với câu nói nổi tiếng của Lê Quý Đôn: "Phi công bất phú, phi thương bất hoạt, phi nông bất ổn, phi trí bất hưng", nhấn mạnh rằng sự hưng thịnh của mỗi quốc gia phụ thuộc vào vai trò và thái độ của tầng lớp trí thức đối với xã hội.
Nhìn lại quá trình trước Cách mạng Tháng Tám, nhiều trí thức đã sớm giác ngộ cách mạng và gia nhập Đảng Cộng sản Họ đã nêu gương sáng về lòng trung thành với Đảng, Tổ Quốc và nhân dân Nhiều người chấp nhận gian khổ, hy sinh để tham gia kháng chiến và kiến quốc, thể hiện tinh thần kiên cường và quyết tâm vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Quốc lâm nguy, sỹ phu hữu trách"
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng người lao động trí óc ở Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến Ông khẳng định rằng những trí thức tham gia cách mạng là tài sản quý báu cho Đảng, và nếu thiếu họ, công việc cách mạng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Trong kháng chiến chống Mỹ và quá trình xây dựng đất nước, bên cạnh đội ngũ trí thức lớp trước, đã xuất hiện một đội ngũ trí thức mới đông đảo, được đào tạo trong nhà trường xã hội chủ nghĩa Đại bộ phận trí thức này xuất thân từ công nông, được giáo dục và rèn luyện qua thực tiễn chiến đấu và xây dựng đất nước, thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, lòng trung thành và đức tính tận tụy vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc Nhiều người trong số họ đã có những sáng tạo lớn và đóng góp quan trọng trên nhiều lĩnh vực, hiện đang giữ những vị trí đầu ngành tiêu biểu hoặc các cương vị quan trọng.
Sau ngày 30/4/1975, hàng vạn trí thức yêu nước ở miền Nam đã nhanh chóng hòa nhập vào khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực tham gia xây dựng đất nước và nâng cao đội ngũ trí thức Trí thức Việt Nam sở hữu tiềm năng trí tuệ lớn, thông minh và nhạy bén với xu thế mới, có khả năng tiếp cận nhanh chóng với các tiến bộ trong khoa học, công nghệ và văn hóa thế giới Trong những năm gần đây, nhiều người đã chủ động nâng cao kiến thức và kỹ năng, nhanh chóng nắm bắt công nghệ tiên tiến và kiến thức mới trong nhiều lĩnh vực khoa học, góp phần tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước.
Đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay bao gồm 1 triệu người có trình độ Đại học và Cao đẳng, hơn 12.000 Thạc sĩ, gần 10.000 Tiến sĩ, cùng với hơn 125.000 người hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế và khoa học công nghệ Ngoài ra, có gần 800.000 giáo viên, gần 200.000 bác sĩ, 20.000 người làm việc trong lĩnh vực văn hóa, và hơn 100.000 công chức trong các cơ quan Nhà nước Đây chính là nguồn lực quan trọng giúp đất nước phát triển và không bị tụt hậu so với các quốc gia khác trên thế giới.
Sự thành công của đất nước chúng ta là nhờ vào nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân, trong đó trí thức đóng vai trò quan trọng Đảng và nhân dân đã ghi nhận vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng, như đã nêu trong các văn kiện Đại hội Đảng, đặc biệt là Đại hội IX, khẳng định rằng cần tạo điều kiện cho trí thức tiếp cận thông tin và thành tựu mới trong khoa học, công nghệ và văn hóa Điều này bao gồm việc nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn, khuyến khích sáng tạo và phát minh, đồng thời phát hiện và đãi ngộ xứng đáng các tài năng, nhằm phát huy năng lực trí thức trong các chương trình nghiên cứu và xây dựng chính sách.
Vai trò của trí thức trong lịch sử Việt Nam luôn rất quan trọng, đặc biệt trong thời kỳ cách mạng xã hội chủ nghĩa, khi mà trí thức và nhân tài là yếu tố then chốt cho sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Lao động trí thức không chỉ là lao động sáng tạo mà còn tạo ra giá trị vô cùng lớn, trở thành nguồn tài nguyên vô tận Trong khi các nguồn lực khác, bao gồm tài nguyên thiên nhiên, có thể bị khai thác cạn kiệt, trí tuệ con người vẫn luôn phong phú và không bao giờ cạn kiệt Hiện nay, thực trạng trí thức tại Thành phố Vinh đang cần được đánh giá và cải thiện để phát huy tối đa tiềm năng này.
Một số nét cơ bản về Thành phố Vinh 14
Thành phố Vinh, tỉnh lỵ của Nghệ An, nằm ở trung tâm Bắc Trung bộ, có diện tích tự nhiên 66,9 km² Trong đó, đất ở chiếm 9,6%, đất nông nghiệp 46,5%, đất lâm nghiệp 1,8%, đất chuyên dùng 31% và đất chưa sử dụng 11,1% Mật độ dân số đạt 4.260 người/km² vào năm 2005, với tổng dân số 285.000 người và tỷ lệ phát triển dân số 16%, trong đó tốc độ tăng dân số tự nhiên là 7,5% Vùng nội thị của thành phố Vinh rộng 30 km², bao gồm 13 phường nội thành và 5 xã ngoại thành, với tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch là 63%.
Với hơn 200 năm lịch sử, Thành phố Vinh được xây dựng từ năm 1788 dưới triều vua Quang Trung và chính thức được công nhận là thành phố vào năm 1962 Tuy nhiên, sau chiến tranh chống Mỹ, thành phố đã bị tàn phá nặng nề, chỉ còn lại những đống gạch vụn Đến năm 1974, Vinh được tái thiết với sự hỗ trợ của CHDC Đức Năm 1993, thành phố được công nhận là đô thị loại II và có quy hoạch phát triển tổng thể Đến năm 2000, quy hoạch chung đã được điều chỉnh và phê duyệt lại Theo thông báo số 20-KL/TW ngày 2/6/2003 của Bộ Chính trị, Vinh được xác định là trung tâm kinh tế - văn hóa của tỉnh Nghệ An.
An mà còn là trung tâm của khu vực Bắc Trung bộ
Vinh là thành phố có hệ thống giao thông phát triển với đường sắt Bắc-Nam, Quốc lộ 1A và các tuyến đường sang Lào, Đông Bắc Thái Lan Sông Lam có độ sâu từ 2-4m, cùng với cảng Bến Thủy, cho phép tàu dưới 2.000 tấn ra vào dễ dàng Cảng Cửa Lò cách Vinh 17 km, trong khi sân bay Vinh đang được nâng cấp để đón các chuyến bay quốc tế Ga Vinh là đầu mối chính của tuyến đường sắt Bắc-Nam Mạng lưới giao thông nội thị Vinh dài trên 380 km, trong đó hơn 300 km là đường nhựa và bê tông, với tỷ lệ đường rộng trên 12m chiếm 15,7% và mật độ giao thông đạt 12 km/km² Thành phố có hai bến xe, trong đó Bến xe khách số 79 tại đường Lê Lợi có diện tích 2.500m² và sức chứa 80 xe, cùng với bến xe Chợ Vinh phục vụ hàng hóa với sức chứa trên 50 xe Hệ thống hạ tầng kỹ thuật như điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc, tài chính và ngân hàng cũng đã được nâng cấp để đáp ứng nhu cầu sản xuất.
Cơ cấu kinh tế Thành phố hiện nay bao gồm Công nghiệp và Xây dựng chiếm 36,52%, Dịch vụ và Thương mại chiếm 61,07%, và Nông - Lâm - Nguyên nghiệp chỉ 2,42% Từ năm 2001 đến 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân hàng năm đạt 12,45%, trong đó Công nghiệp và Xây dựng tăng 16 - 17%, Dịch vụ và Thương mại tăng 14 - 15%, và Nông - Lâm - Nguyên nghiệp tăng 6 - 6,5% Năm 2005, thu nhập bình quân đầu người đạt 15,09 triệu đồng, và tổng thu nhập ngân sách trên địa bàn gần 700 tỷ đồng, trong khi huy động vốn đầu tư đạt 2.590 tỷ đồng.
Việc phát triển các Khu Công nghiệp Bắc Vinh (143ha), Nam Cấm (327ha) cùng với 4 Khu Công nghiệp nhỏ như Đông Vĩnh, Hưng Lộc, Nghi Phú, và Hưng Đông đã tạo ra môi trường sản xuất ổn định cho doanh nghiệp Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Nghệ An đã triển khai các cơ chế khuyến khích và hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp trong việc lập dự án, đào tạo nghề, và áp dụng công nghệ mới, mở ra cơ hội đầu tư hấp dẫn cho các doanh nghiệp tại Nghệ An và Thành phố Vinh.
Vinh là thành phố với tiềm năng du lịch phong phú, kết nối dễ dàng đến Lào qua ba cửa khẩu: Cầu Treo, Thanh Thủy và Nậm Cắn, cũng như các tỉnh Đông Bắc Thái Lan Du khách đến Vinh không chỉ được khám phá thành phố mà còn có thể ghé thăm biển Cửa Lò và Kim Liên - quê hương của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tiên Điền, Nghi Xuân, cách 12 km, là quê hương của Đại thi hào Nguyễn Du, cùng với Đền thờ vua Mai Hắc Đế và nhiều địa danh nổi tiếng khác trong khu vực Hiện tại, Thành phố Vinh đang khẩn trương triển khai nhiều công trình phục vụ du lịch, bao gồm đường du lịch Cửa Lò - Nam Đàn, Đền Quang Trung tại Núi Quyết, và Bảo tàng Tổng hợp Nghệ An.
Con người Thành phố Vinh nổi bật với tinh thần lao động cần cù, chịu khó và truyền thống cách mạng sâu sắc, đặc biệt là trong việc hiếu học và học giỏi Dù ở thời điểm nào, người dân Thành Vinh luôn giữ vị trí và vai trò quan trọng, xứng đáng trong mọi lĩnh vực chính trị - xã hội của đất nước.
Thành phố Vinh tự hào sở hữu trường Đại học Vinh, một trung tâm đào tạo cán bộ có trình độ Đại học và sau Đại học, đồng thời là một trong những trung tâm nghiên cứu khoa học lớn nhất khu vực Bắc Trung bộ Điều này tạo ra tiềm năng lớn cho sự phát triển kinh tế và xã hội của Thành phố, góp phần quan trọng vào mạng lưới các trường Đại học, Cao đẳng trên toàn quốc Ngoài ra, Thành phố Vinh còn có 4 trường Cao đẳng chuyên ngành và 10 trường dạy nghề, với tổng số học sinh, sinh viên trung bình hàng năm lên đến 25.000 người.
Thành phố Vinh, mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, vẫn đối mặt với một số khó khăn nhất định Khí hậu khắc nghiệt ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống của người dân Mặc dù có nguồn lực lao động dồi dào, nhưng trình độ lao động vẫn chưa cao Công nghệ và kỹ thuật còn lạc hậu, khiến cho sản xuất chưa phát triển tương xứng với tiềm năng sẵn có của vùng đất này.
Sản xuất công nghiệp tại Thành phố Vinh đang phát triển nhưng vẫn còn yếu kém, với công nghệ lạc hậu và sản phẩm hàng hóa ít, không đủ sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế Kinh tế đối ngoại, đặc biệt là xuất nhập khẩu, còn hạn chế Bên cạnh đó, người dân Thành phố Vinh chưa linh hoạt trong cơ chế thị trường, thiếu nhạy bén với cái mới và cần cù hơn trong cải tiến Lao động trí tuệ chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" vẫn diễn ra.
Tình trạng thiếu hụt ngân sách đang là vấn đề nghiêm trọng trong phát triển đầu tư tại Thành phố Vinh, dẫn đến tình trạng lao động thiếu việc làm và thất nghiệp cao Các hoạt động văn hóa, nghệ thuật và thể dục thể thao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Nh- vậy, đối với Thành phố Vinh, hạn chế còn nhiều, khó khăn còn lớn
Nh-ng để từng b-ớc khắc phục những hạn chế, khó khăn, đ-a Thành phố
Để Vinh trở thành một đô thị phát triển hiện đại, cần huy động mọi nguồn lực và khai thác tiềm năng từ vốn nhân dân, tài nguyên thiên nhiên, cũng như tinh thần và ý chí của cán bộ, Đảng viên Việc phát huy hiệu quả các yếu tố nội lực và sự hỗ trợ từ bên ngoài là một thách thức lớn, đòi hỏi sự cân nhắc kỹ lưỡng trong hành động và phương pháp thực hiện.
Vinh phải thấy đ-ợc động lực nào là chính trong muôn vàn động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố
Trong những năm qua, Thành phố Vinh đã nhận thức rõ rằng lực lượng quyết định quan trọng nhất chính là trí thức Đội ngũ trí thức không chỉ đại diện cho lao động trí óc và sự sáng tạo mà còn hiện diện ở mọi giai cấp và tầng lớp xã hội, trở thành nguồn lực vô tận cho sự phát triển.
2 Thực trạng trí thức Thành phố Vinh: Đến năm 2002, dân số Thành phố Vinh có 226.000 ng-ời Trong đó, số ng-ời trong độ tuổi lao động là 123.000 ng-ời chiếm 54% dân số; số ng-ời trong độ tuổi lao động làm việc trong các ngành kinh tế là 84.000 ng-ời trong đó: Số ng-ời có trình độ Cao đẳng, Đại học và sau Đại học là
26.498 ng-êi chiÕm 12,4% dân số; cao đẳng là 5.617 ng-ời; đại học là 20.274 ng-ời; sau đại học là 607 ng-êi
Bảng 1 Biểu đồ đội ngũ trí thức Thành phố Vinh
Vai trò của trí thức Thành phố Vinh trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa 29
Sự nghiệp đổi mới đất n-ớc nói chung, của Thành phố Vinh nói riêng bắt đầu khởi x-ớng từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
Qua 20 năm đổi mới, Thành phố Vinh đã đạt đ-ợc những thành tựu đáng kể: Trong giai đoạn 2001- 2005, với ph-ơng châm "Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm", bám sát các Nghị quyết của Trung -ơng và Tỉnh, Thành phố Vinh đã cụ thể hoá Nghị quyết XX, tập trung chỉ đạo 3 ch-ơng trình kinh tế lớn là Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp, Dịch vụ th-ơng mại và phát triển kinh tế Nông nghiệp hàng hoá ngoại thành Nhìn chung, kinh tế Thành phố Vinh phát triển khá toàn diện, nhịp độ tăng tr-ởng kinh tế bình quân -ớc đạt 12,45%, tăng 2,15% so với thời kỳ 1996-2000; trên địa bàn là: 12,9% trong đó Công nghiệp - Xây dựng tăng 15,4% (công nghiệp: 15,6%); Dịch vụ th-ơng mại tăng 12% và Nông - Lâm - Ng- nghiệp tăng 6,1%; Thành phố quản lý có nhịp độ phát triển kinh tế bình quân là 10,2%, trong đó Công nghiệp - Xây dựng tăng 12,8%, Dịch vụ th-ơng mại tăng 10% và Nông - Lâm
Cơ cấu kinh tế của địa phương đã có sự chuyển dịch tích cực, với tỷ trọng ngành Công nghiệp - Xây dựng tăng từ 31,2% lên 36,52% Ngành Dịch vụ thương mại giảm từ 65,9% xuống 61,07%, trong khi Nông - Lâm - Ngư nghiệp giảm từ 3,38% năm 2000 xuống 2,42% năm 2005 Thu nhập bình quân đầu người đạt 15,09 triệu đồng vào năm 2005, và tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt gần 700 tỷ đồng Tỷ lệ huy động vốn chiếm 19,7% GDP, đồng thời mỗi năm giải quyết việc làm cho khoảng 2.250 người Số hộ nghèo giảm mạnh từ 7,1% năm 2000 xuống còn 1,7% vào năm 2005.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội đang có những chuyển biến rõ rệt với sự triển khai tích cực các chương trình về giáo dục, y tế, văn hóa, thể dục, thể thao, dân số, kế hoạch hóa gia đình và chính sách xã hội Đặc biệt, công tác bảo vệ và chăm sóc trẻ em được chú trọng Giáo dục phổ thông, cao đẳng và đại học không ngừng tăng cường số lượng và nâng cao chất lượng đào tạo.
Tr-ớc hết chúng ta khảo sát vai trò của đội ngũ trí thức trong quá trình đào tạo những trí thức t-ơng lai
Bảng 8 : Các cơ sở đào tạo có t- cách pháp nhân cấp bằng tốt nghiệp cao đẳng, đại học và sau đại họcở trên địa bàn Thành phố Vinh
Tên đơn vị đào tạo Tổng số sinh viên
Số l-ợng sinh viên tốt nghiệp hàng năm
Học viên Sau Đại học tốt nghiệp hàng n¨m Đại học Vinh 22.380 5.500 280 thạc sỹ và
CĐ Văn hoá Nghệ An 658 200
(Nguồn: Đại học Vinh và phòng GDCN, Sở GD- ĐT Nghệ An, tháng 8 năm 2004)
Từ bảng trên, chúng ta có nhận xét:
Hàng năm, Thành phố Vinh có khoảng 10.000 người tốt nghiệp từ các trường đại học và cao đẳng, trong đó một phần đáng kể là cán bộ từ Trung tâm giáo dục thường xuyên, phục vụ cho các cơ quan hành chính sự nghiệp.
Mỗi năm, có tới 8000 người tốt nghiệp ra trường và phải đối mặt với áp lực tìm kiếm việc làm Mặc dù việc đào tạo đóng vai trò quan trọng trong xã hội, nhưng vẫn tồn tại mâu thuẫn giữa quá trình đào tạo và nhu cầu sử dụng lao động Do đó, bên cạnh việc ghi nhận sự đóng góp của các trung tâm đào tạo, chúng ta cũng cần chú ý đến thách thức trong việc giải quyết vấn đề việc làm cho sinh viên mới ra trường.
Thành phố Vinh, với vị trí địa lý thuận lợi, có tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong các ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp Tuy nhiên, hiện tại, thành phố này thiếu trung tâm đào tạo chuyên sâu cho các lĩnh vực này, chỉ có một số khoa mới được thành lập tại Đại học Vinh Sự không đồng bộ giữa đào tạo và khai thác lợi thế này cho thấy kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực của Thành phố Vinh chưa thực sự đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Trong lĩnh vực khoa học công nghệ, các thành tựu ứng dụng vào sản xuất và đời sống đã đóng góp quan trọng cho sự phát triển của Thành phố Vinh Khoa học công nghệ không chỉ nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật mà còn trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương.
Trong lĩnh vực chính trị, các nhà lý luận đã sáng tạo vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin vào bối cảnh cụ thể của Thành phố Vinh, góp phần truyền đạt và phát triển các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước Điều này giúp nâng cao nhận thức của nhân dân, thay đổi cách nghĩ và cách làm, từ đó tạo ra cơ chế dân chủ trong quản lý xã hội Sự phát triển này không chỉ thực hiện dân chủ xã hội một cách đầy đủ và thực chất hơn mà còn thúc đẩy công cuộc đổi mới, mang lại nhiều kết quả tích cực cho địa phương.
Từ năm 2000 đến 2004, đội ngũ trí thức tại Thành phố Vinh đã tích cực phát triển khả năng đăng ký và nghiên cứu triển khai các đề tài ở nhiều cấp độ khác nhau, điều này được chứng minh qua các số liệu thống kê.
Bảng 9 Thống kê đề tài cấp Nhà n-ớc mà trí thức Thành phố Vinh thực hiện trong 5 năm 2000- 2004
Cơ sở tiến hành 2000 2001 2002 2004 Đại học Vinh 2 4 4 6
Cao đẳng Y tế Nghệ An
Cao đẳng SPKT Nghệ An
(Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An và Đại học Vinh, tháng 01/2005)
Đề tài cấp Nhà nước là các nghiên cứu nhằm giải quyết vấn đề trong khoa học cơ bản và ứng dụng, được Bộ Khoa học và Công nghệ ký hợp đồng Trong nhiều năm qua, cán bộ Đại học Vinh đã chủ trì nhiều đề tài cấp Nhà nước, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực khoa học cơ bản như toán, vật lý và sinh học Đáng chú ý, không có đề tài nào thuộc lĩnh vực khoa học ứng dụng hay các ngành kinh tế.
Bảng 10 Thống kê đề tài cấp Bộ mà trí thức Thành phố Vinh thực hiện trong 5 năm 2000 - 2004
Cơ sở tiến hành 2000 2001 2002 2004 Đại học Vinh 33 37 32 40
Cao đẳng Y tế Nghệ An
Cao đẳng SPKT Nghệ An
(Nguồn: Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An và Đại học Vinh, tháng 01/2005)
Trong những năm qua, Thành phố Vinh chủ yếu tập trung vào các đề tài cấp Bộ tại Đại học Vinh, với sự đa dạng trong các lĩnh vực nghiên cứu Các đề tài được đăng ký và xét duyệt hàng năm không chỉ bao gồm khoa học cơ bản và khoa học sư phạm, mà còn chú trọng đến khoa học ứng dụng và công nghệ cao Đặc biệt, nhiều nghiên cứu đã đi sâu vào việc giải quyết các vấn đề như nuôi trồng và chế biến thủy hải sản, sản xuất giống tôm, ô nhiễm môi trường, nuôi hàu ở khu vực cửa sông, và bảo tồn cũng như khai thác lợi thế của khu rừng đặc dụng Phù Mát.
Bảng 11 Thống kê đề tài cấp tỉnh mà trí thức Nghệ An thực hiện trong 5 năm 2000 - 2004
Cơ sở tiến hành 2000 2001 2002 2004 Đại học Vinh 4 1 3
Cao đẳng Y tế Nghệ An
Cao đẳng SPKT Nghệ An
Các cở sở khác của Thành phố 6 7 8 5
(Nguồn Sở Khoa học và Công nghệ Nghệ An và Đại học Vinh, tháng 01/2005)
Từ bảng trên, chúng ta có nhận xét:
Thành phố Vinh chú trọng nghiên cứu khoa học với kế hoạch ký hợp đồng và triển khai các đề tài ngày càng tăng qua các năm Đặc biệt, thành phố đã tập trung nhiều trí thức vào các lĩnh vực như phòng chống ma túy, xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, đổi mới phương pháp truyền đạt nghị quyết, bảo tồn giống ren quý hiếm và gìn giữ bản sắc văn hóa.
Trí thức tại Thành phố Vinh hiện diện trong mọi lĩnh vực và ngành nghề, đóng góp tích cực cho các hoạt động kinh tế - xã hội Những đóng góp này đã thúc đẩy sự phát triển của Thành phố, từng bước hiện thực hóa các chỉ tiêu mà Đại hội Đảng bộ Thành phố Vinh lần thứ XX đề ra.
Từ năm 2000 đến nay, Thành phố Vinh đã có những bước chuyển quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, tạo đà phát triển cho giai đoạn tiếp theo Thành tựu này cho thấy thành phố đã biết khai thác mọi nguồn lực, đặc biệt là đội ngũ trí thức với chuyên môn cao, những người không chỉ duy trì các giá trị xã hội cơ bản mà còn có khả năng lao động sáng tạo và phê phán những trở ngại, vật cản, hướng tới một xã hội phát triển, tốt đẹp, nhân đạo và hợp lý hơn.
Những kết quả đã đạt đ-ợc:
Lĩnh vực Nông - Lâm - Ng- nghiệp:
Theo Nghị quyết XX của Thành uỷ, việc phát triển kinh tế nông nghiệp hàng hóa ngoại thành đã được triển khai tích cực với nhiều đề án và dự án nhằm chuyển dịch cơ cấu cây, con theo hướng thâm canh Đặc biệt, quy hoạch vùng nuôi tôm sú 100ha ở Hồng Hoà đã hoàn thành với tổng vốn đầu tư 2.800 triệu đồng Các hộ dân đã đầu tư trên 2.000 triệu đồng cho 50ha nuôi tôm, đạt năng suất từ 1,2 - 2,5 tấn/ha, mang lại doanh thu 150 - 170 triệu/ha Bên cạnh đó, dự án nuôi cá Rô Phi đơn tính ở Đông Vĩnh (40ha) cũng đạt giá trị kinh tế từ 35 - 50 triệu/ha, cùng với các mô hình nuôi cá lúa, cá giống và cá thịt chất lượng cao phát triển nhanh và hiệu quả.
Một số giải pháp nhằm phát huy vai trò của trí thức Thành phố Vinh
2.1 Nâng cao vai trò trách nhiệm của tổ chức Đảng, chính quyền các cấp trong việc sử dụng và phát triển đội ngũ trí thức của Thành phố Vinh Thể hiện ở việc tiếp tục quán triệt và thực hiện chính sách thu hút, quy tụ trí thức đặc biệt là các chuyên gia đầu ngành, nhân tài, bộ phận tinh hoa của giới trí thức về mình, đóng góp trí tuệ cho mình; không những thu hút nguồn lực đó từ trong tỉnh, trong n-ớc mà còn từ n-ớc ngoài bằng nhiều hình thức khác nhau: vừa trực tiếp vừa gián tiếp, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố
2.2 Tạo điều kiện môi tr-ờng tốt hơn cho trí thức làm việc có hiệu quả, đặc biệt là xây dựng môi tr-ờng khoa học tạo điều kiện nghiên cứu thuận lợi cho các nhà khoa học, các nghệ nhân phát triển
Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Nghệ An đã triển khai chính sách thu hút lao động tay nghề cao và các nhà khoa học, quản lý giỏi để phát triển kinh tế thành phố Thành phố khuyến khích sự đóng góp trí tuệ từ đội ngũ trí thức tại các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học và Dạy nghề, đồng thời thúc đẩy nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và bảo vệ môi trường Việc phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và tự động hóa được coi trọng trong tất cả các đơn vị Đặc biệt, thành phố cần tăng cường đầu tư cho các hoạt động trí thức, đặc biệt trong lĩnh vực Giáo dục - Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, vì đây là quốc sách hàng đầu.
Để thu hút đầu tư vào Thành phố Vinh, cần tạo môi trường thuận lợi với chính sách hợp lý như giảm thuế và bảo hộ xã hội, nhằm tạo ra việc làm và thu hút lực lượng lao động kỹ thuật, bao gồm cả những người tài năng Bên cạnh đó, xây dựng bầu không khí xã hội lành mạnh, tự do và công bằng sẽ khuyến khích sự phát triển trí thức mới Việc phát triển môi trường tự nhiên xanh, sạch và đẹp, cùng với các điểm du lịch hấp dẫn và giao thông thuận lợi, sẽ hỗ trợ cho các nhà khoa học và trí thức chuyên sâu vào lĩnh vực của họ Tăng cường các cơ sở nghiên cứu, mở rộng hợp tác khoa học với các viện nghiên cứu và trường đại học là cần thiết để phát huy tài năng của trí thức tại Thành phố Vinh, từ đó thu hút thêm nhiều trí thức từ các địa phương khác đến hợp tác và đầu tư.
"chất xám" ở Thành phố Vinh
2.3 Phải có chính sách đãi ngộ xứng đáng về vật chất và tinh thần đối với lao động của trí thức Đây đ-ợc xem là động lực chính để trí thức phát huy năng lực của mình Nhà n-ớc nói chung, Thành phố Vinh nói riêng cần có chính sách cải cách tiền l-ơng, nâng phụ cấp chuyên môn trong hoạt động của trí thức Quan tâm đến điều kiện vật chất nh- ăn, ở, điều kiện môi tr-ờng hoạt động; đãi ngộ đặc biệt đối với những tài năng và những trí thức cống hiến xuất sắc đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố nh-:
Thành phố sẽ xây dựng quỹ khen thưởng nhằm hỗ trợ trí thức, đặc biệt là sinh viên xuất sắc, thông qua ngân sách Quỹ này sẽ cấp phát cho những cá nhân tham gia các cuộc thi sáng tác, sáng tạo khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật và chia sẻ sáng kiến kinh nghiệm.
Xây dựng quỹ tín dụng nhằm hỗ trợ cho vay với lãi suất thấp hoặc miễn lãi suất cho học sinh giỏi và các trí thức có đề tài, dự án giá trị trong lĩnh vực khoa học và công nghệ phục vụ cho sự phát triển của Thành phố.
Tài trợ và cấp học bổng cho việc đào tạo nhân tài từ khi mới phát hiện là cách hiệu quả để xây dựng đội ngũ trí thức trẻ kế cận Đồng thời, việc cấp đất hoặc ưu tiên bán đất sẽ tạo điều kiện ổn định cuộc sống cho trí thức, giúp họ yên tâm công tác lâu dài tại Thành phố Vinh.
Ngoài việc chú trọng đến các yếu tố vật chất, cần đặc biệt quan tâm đến các hình thức động viên về chính trị và tinh thần Tri thức mong muốn được xã hội công nhận đúng mức giá trị cống hiến của mình Do đó, cần thiết lập các danh hiệu và phần thưởng đặc trưng trong toàn Thành phố và từng ngành nghề, định kỳ xét duyệt và phong tặng cho những cá nhân có đóng góp xuất sắc Đồng thời, đề nghị cấp Tỉnh và cấp trung ương xem xét phong tặng danh hiệu cao quý cho những công trình và cá nhân tiêu biểu.
2.4 Sử dụng trí thức đúng lĩnh vực chuyên môn
Ban tổ chức Thành ủy và Ban tổ chức Chính quyền Thành phố cần theo dõi và phân loại công chức, cán bộ thường xuyên Cần tạo ra nhiều việc làm cho lao động và trí thức, đồng thời có chính sách tuyển chọn trí thức trẻ vào các cơ quan nghiên cứu khoa học và trung tâm ứng dụng khoa học kỹ thuật Hỗ trợ và bồi dưỡng trí thức trẻ để họ trở thành cán bộ, chuyên gia đầu ngành trong tương lai.
2.5 Khơi dậy tình cảm quê h-ơng, nhớ về cội nguồn để trí thức quê thành phố Vinh đóng góp tài năng cho quê h-ơng
Tiến hành điều tra trí thức tại Thành phố Vinh trong nhiều lĩnh vực và địa phương khác nhau, bao gồm cả nước ngoài, nhằm mời gọi họ về hỗ trợ quê hương khi cần thiết.
Gửi thư liên lạc tới các trí thức quê Thành phố Vinh ở các địa phương khác và nước ngoài, yêu cầu họ hỗ trợ quê hương với những công việc cụ thể Mời họ về thăm quê hương trong một vài năm tới, tổ chức hội thảo kinh tế - xã hội của Thành phố, đồng thời giới thiệu các đề án phát triển khoa học, công nghệ để họ tham gia đầu tư chất xám vào các dự án này.
2.6 Đảm bảo lợi ích tinh thần và vật chất đối với những trí thức trình độ cao từ ngoại thành, ngoại tỉnh, chuyên gia n-ớc ngoài đến phục vụ tại Thành phố với ph-ơng châm "chiêu hiền đãi sĩ", "đất lành chim đậu" ở các ngành Khoa học, Công nghệ mũi nhọn có thể sử dụng hình thức thuê chuyên gia giỏi, mua sáng chế, phát minh, ký kết hợp đồng khoa học với các nhà khoa học lớn nghiên cứu giải quyết các vấn đề kinh tế, khoa học và công nghệ của địa ph-ơng
Chúng tôi cam kết chi trả lương cao cho các chuyên gia xuất sắc, đồng thời cung cấp chế độ đãi ngộ đặc biệt về nhà ở, đất ở, cơ hội nghề nghiệp cho con cái họ, cũng như hỗ trợ tham quan và nâng cao trình độ chuyên môn.
2.7 Khuyến khích và ủng hộ các hình thức học tập và tu nghiệp ở n-ớc ngoài của con em thành phố bằng con đ-ờng tự túc hoặc bằng sự tài trợ của các tổ chức trong và ngoài n-ớc, các công ty liên doanh với n-ớc ngoài