NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN 1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000) của Nguyễn Lân, "cán bộ" được định nghĩa là người đảm nhận công việc trong chính quyền hoặc các đoàn thể Cán bộ là người có trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ tại nơi làm việc công.
Theo Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998), "cán bộ" được định nghĩa là người làm công tác chuyên môn trong cơ quan nhà nước, bao gồm cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học và cán bộ chính trị Ngoài ra, "cán bộ" còn chỉ những người có chức vụ trong một tổ chức, phân biệt với những người không có chức vụ.
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008:
Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, từ cấp trung ương đến cấp tỉnh, huyện, quận, thị xã và thành phố thuộc tỉnh, và họ làm việc trong biên chế với mức lương được chi trả từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ cấp xã bao gồm những công dân Việt Nam được bầu giữ chức vụ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, và các vị trí lãnh đạo khác như Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy Đồng thời, công chức cấp xã là những công dân được tuyển dụng vào các chức danh chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP HUYỆN
Một số khái niệm liên quan đến đề tài
Theo Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2000) của Nguyễn Lân, "cán bộ" được định nghĩa là người đảm nhận công việc trong các cơ quan chính quyền hoặc tổ chức đoàn thể.
Theo Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998), "cán bộ" được định nghĩa là người làm công tác chuyên môn trong cơ quan nhà nước, bao gồm cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học và cán bộ chính trị Đồng thời, cán bộ cũng là người có chức vụ trong một cơ quan hoặc tổ chức, khác với những người không có chức vụ.
Theo Điều 4, Luật Cán bộ, công chức năm 2008:
Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan của Đảng Cộng sản, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội, hoạt động ở các cấp từ trung ương đến tỉnh, huyện Họ làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Cán bộ cấp xã bao gồm những công dân Việt Nam được bầu giữ chức vụ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, và các chức danh lãnh đạo khác như Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy Công chức cấp xã là những công dân được tuyển dụng vào các vị trí chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã, làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Theo Luật pháp Việt Nam, "cán bộ" là những người giữ chức vụ do bầu cử hoặc bổ nhiệm, làm việc trong các cơ quan đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân Họ thuộc biên chế nhà nước và nhận lương từ ngân sách nhà nước, hoạt động từ trung ương đến cơ sở.
1.1.2 Khái niệm cán bộ chủ chốt
Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng (1998), "chủ chốt" được hiểu là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt" Do đó, cán bộ chủ chốt là những người giữ vị trí quan trọng trong tổ chức bộ máy chính trị, có vai trò nòng cốt trong lãnh đạo, định hướng và quản lý các địa phương, cơ quan, đơn vị theo quy định pháp luật và điều lệ của tổ chức, đồng thời chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp mình về lĩnh vực công tác được giao.
Theo quan niệm hiện nay, cán bộ cấp cao và cán bộ cấp chiến lược ở cấp quốc gia bao gồm người đứng đầu và cấp phó của đảng, nhà nước, các ban, bộ, ngành trung ương Tại địa phương, người đứng đầu và cấp phó được gọi là cán bộ chủ chốt, có trách nhiệm lớn hơn cán bộ, công chức bình thường Cán bộ chủ chốt cần là lực lượng tinh hoa của xã hội, sở hữu phẩm chất và năng lực vượt trội, có khả năng khởi xướng, hoạch định chính sách, tổ chức và điều hành bộ máy, cũng như có uy tín và khả năng thuyết phục Họ phải trải qua quá trình học tập và rèn luyện nghiêm khắc Tại cấp huyện, cán bộ chủ chốt được phân thành các nhóm dựa trên vị trí, cơ chế bầu cử hoặc bổ nhiệm, nhiệm vụ được phân công và tính chất công việc.
Cán bộ được bầu giữ các chức vụ trong Đảng bao gồm: Ủy viên ban chấp hành, Ủy viên ban thường vụ, Bí thư, Phó Bí thư, Ủy viên Ủy ban kiểm tra, Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra và Phó Chủ nhiệm Ủy ban kiểm tra.
Cán bộ được bầu giữ các chức vụ trong chính quyền bao gồm: Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhân dân, Trưởng Ban Hội đồng Nhân dân, Phó Trưởng Ban Hội đồng Nhân dân, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân và Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân.
Cán bộ được bầu giữ các chức vụ trong Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội bao gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Chủ tịch, Phó Chủ tịch (hoặc Bí thư, Phó Bí thư trong tổ chức đoàn) của các đoàn thể chính trị - xã hội như thanh niên, phụ nữ, nông dân, cựu chiến binh và liên đoàn lao động.
Cán bộ được bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan đảng và chính quyền bao gồm trưởng và phó ban đảng như tuyên giáo, tổ chức, kiểm tra dân vận, và Văn phòng Huyện ủy, cùng với trưởng và phó phòng ủy ban nhân dân Ở cấp xã, không có các chức danh trưởng, phó ngành như ở cấp huyện, mà cán bộ được phân công phụ trách theo quy chế làm việc của cấp ủy và ủy ban nhân dân.
Trong các nhóm cán bộ, có thể phân chia thành hai loại chính: cán bộ lãnh đạo (thuộc đảng, đoàn thể) và cán bộ quản lý (thuộc khối chính quyền) Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ đảm nhận đồng thời cả hai chức trách này, như phó bí thư thường trực huyện ủy kiêm chủ tịch hội đồng nhân dân hay phó bí thư huyện ủy kiêm chủ tịch ủy ban nhân dân Những cán bộ này không chỉ lãnh đạo và chỉ đạo trong lĩnh vực cấp ủy mà còn thực hiện vai trò quản lý khi điều hành nhiệm vụ chuyên môn của ban đảng và các nhiệm vụ liên quan đến hội đồng nhân dân.
Theo phân cấp quản lý cán bộ, chỉ một số chức danh được coi là cán bộ chủ chốt Ở cấp huyện, Ban Thường vụ Tỉnh ủy quản lý hoặc ủy quyền cho cấp ủy cấp dưới quản lý các chức danh như bí thư, phó bí thư, ủy viên ban thường vụ huyện ủy, chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân Ban thường vụ huyện ủy cũng quản lý các chức danh khác như ủy viên ban chấp hành đảng bộ huyện, chủ nhiệm ủy ban kiểm tra huyện ủy, cùng với các trưởng, phó các ban đảng và các đoàn thể chính trị - xã hội Ở cấp xã, ban thường vụ huyện ủy quản lý trực tiếp các chức danh như ủy viên ban thường vụ đảng ủy, bí thư, phó bí thư thường trực, và các chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân cũng như ủy ban nhân dân.
Dựa trên Nghị định số 92/2009/NĐ-CP và các quy định liên quan, bài viết nghiên cứu về đội ngũ cán bộ chủ chốt do Ban Thường vụ huyện ủy quản lý, bao gồm bí thư, phó bí thư huyện ủy, chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, cùng các lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội Tại cấp xã, đối tượng nghiên cứu bao gồm bí thư đảng ủy, phó bí thư đảng ủy, chủ tịch và phó chủ tịch hội đồng nhân dân, chủ tịch và phó chủ tịch ủy ban nhân dân, cũng như chủ tịch Mặt trận Tổ quốc.
Tổ quốc, trưởng các đoàn thể
1.1.3 Khái niệm về chất lượng cán bộ
Theo Từ điển tiếng Việt (Nhà xuất bản Đà Nẵng, 1998), "chất lượng" được định nghĩa là yếu tố tạo nên phẩm chất và giá trị của con người, sự vật và sự việc.
Vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
1.2.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
1.2.1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
C.Mác và Ph.Ăngghen, trong tác phẩm "Gia đình thần thánh hay là phê phán sự phê phán có tính chất phê phán" năm 1844, đã khẳng định rằng tư tưởng căn bản không thể tự mình thực hiện được Để hiện thực hóa những tư tưởng này, cần phải có con người sử dụng lực lượng thực tiễn.
V.I Lênin là người đã phát triển, làm rõ hơn và hiện thực hóa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vai trò của đội ngũ cán bộ và cán bộ chủ chốt trong quá trình thành lập đảng cách mạng của giai cấp công nhân Nga, lãnh đạo giành chính quyền, và xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa Trong bài "Những nhiệm vụ bức thiết của phong trào chúng ta" đăng trên báo “Tia lửa” số I (năm
V.I Lênin nhấn mạnh rằng không có giai cấp nào có thể đạt được quyền thống trị nếu không đào tạo được những lãnh tụ chính trị có khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào Ông chỉ ra rằng các chính đảng thường được lãnh đạo bởi những nhóm ổn định, bao gồm những người có uy tín, ảnh hưởng và kinh nghiệm, được bầu giữ những trách nhiệm quan trọng Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc hình thành đội ngũ lãnh đạo vững mạnh trong phong trào chính trị.
Vào ngày 29 tháng 9 năm 1920, V.I Lênin đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bố trí cán bộ trong công tác, cho rằng cần đảm bảo rằng những người đảm nhiệm công việc phải là những cán bộ có chuyên môn vững vàng và hiểu rõ nhiệm vụ để đảm bảo thành công cho công tác.
V.I Lênin cũng đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi về kiến thức, kỹ năng của đội ngũ cán bộ trong quá trình hoạt động thực tiễn: "Trước mắt các đồng chí là nhiệm vụ xây dựng, và các đồng chí chỉ có thể làm tròn nhiệm vụ đó, khi đã nắm vững tất cả các kiến thức hiện đại, biết biến chủ nghĩa cộng sản từ những công thức, những lời dạy, những phương pháp, những chỉ thị, những cương lĩnh có sẵn và học thuộc lòng, thành cái thực tế sinh động, là cái kết hợp với công tác thực tế của các đồng chí" [37, tr.365, 366] Người cũng nhấn mạnh rằng người cộng sản "nhất thiết phải công tác ở bất cứ nơi nào có quần chúng" [37, tr.45]
Trong những năm đầu sau cách mạng tháng Mười, nhà nước cách mạng Nga đã phải đối mặt với nhiều khó khăn, nhưng hoạt động của bộ máy cán bộ cũng bộc lộ nhiều hạn chế Do đó, việc xây dựng đội ngũ cán bộ trở thành vấn đề cấp bách Trong thư ngày 20 tháng 2 năm 1922, tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu con người và tìm kiếm cán bộ có bản lĩnh, vì nếu không, mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là giấy tờ vô giá trị Tại bức thư khác ngày 27 tháng 2 năm 1922, tác giả khẳng định rằng nhiệm vụ quan trọng nhất không phải là ban hành sắc lệnh hay cải cách, mà là lựa chọn đúng người, thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân và kiểm tra công việc thực tế.
V.I Lênin nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ cán bộ trong sự nghiệp cách mạng và chỉ ra các yêu cầu cần thiết đối với họ Ông cũng làm rõ mối quan hệ giữa việc xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác quản lý cán bộ, cho thấy sự liên kết chặt chẽ giữa hai yếu tố này trong việc đảm bảo thành công của cách mạng.
1.2.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ và yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển một hệ thống luận điểm toàn diện về đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ của Đảng, từ giai đoạn chuẩn bị chính trị, tư tưởng và tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng.
Cán bộ đóng vai trò then chốt trong bộ máy chính trị, được ví như dây chuyền của một động cơ; nếu dây chuyền không hoạt động tốt, thì toàn bộ hệ thống sẽ bị tê liệt Họ là người truyền tải chính sách của Chính phủ và Đảng đến với nhân dân, đồng thời phản ánh nguyện vọng và tình hình của dân chúng trở lại với lãnh đạo Chính vì vậy, cán bộ được coi là "cái gốc của mọi công việc", ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách và sự phát triển của xã hội.
[40, tr.269] "Có cán bộ tốt, việc gì cũng xong: Muôn việc thành công hay thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém" [40, tr.240]
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của phẩm chất, bản lĩnh chính trị, đạo đức và năng lực công tác của đội ngũ cán bộ trong nhiều tác phẩm và bài nói của mình Ông đặc biệt chú trọng mối quan hệ giữa cán bộ và nhân dân, khẳng định rằng để được dân tin và phục, cán bộ cần hiểu tâm lý và học hỏi từ dân, đồng thời phải tôn trọng và làm gương cho họ Người cảnh báo rằng cán bộ không nên tỏ ra quan cách mạng, vì điều này sẽ dẫn đến sự lộn xộn trong công việc; ngược lại, cán bộ cần phải làm cho dân tin tưởng, yêu mến để mọi việc diễn ra suôn sẻ.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc lựa chọn và dìu dắt cán bộ trong công tác cán bộ Ông cho rằng, ở những nơi có cán bộ cấp trên biết cách chọn lựa và hỗ trợ, sẽ có nhiều cán bộ mới phát triển và công việc sẽ tiến triển mạnh mẽ Ngược lại, nếu cán bộ cấp trên không biết cách lựa chọn và dìu dắt, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu nhân lực và công việc trở nên lộn xộn.
Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý, yêu cầu lựa chọn những người trung thành, nhiệt huyết và gắn bó với dân chúng Những người lãnh đạo cần chú ý đến lợi ích của nhân dân và có khả năng giải quyết vấn đề trong hoàn cảnh khó khăn Ông cũng khẳng định rằng những ai sợ trách nhiệm và thiếu sáng kiến không phải là người lãnh đạo đúng nghĩa Một người lãnh đạo đúng đắn cần giữ vững tinh thần khi thất bại, không kiêu ngạo khi thành công, và thực hiện nghị quyết một cách kiên quyết, dũng cảm, không e ngại khó khăn.
Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, coi đây là "công việc gốc của Đảng" Nội dung đào tạo bao gồm huấn luyện nghề nghiệp, chính trị, văn hóa và lý luận, với yêu cầu gắn lý luận với thực tiễn Phương pháp rèn luyện cần mạnh dạn giao việc cho cán bộ để họ phát triển năng lực và sáng kiến, đồng thời hướng dẫn họ về phương hướng và cách thức công tác phù hợp với đường lối của Đảng Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh việc thường xuyên nâng cao trình độ lý luận và cách làm việc của cán bộ, kiểm tra định kỳ để giúp họ rút kinh nghiệm, sửa chữa khuyết điểm và phát triển ưu điểm, đồng thời chăm lo thực hiện tốt chính sách cán bộ.
Tiêu chí về chất lượng đội ngũ cán bộ và nội dung nâng cao chất lượng cán bộ và cán bộ ở huyện
THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CỦA
HUYỆN TƯƠNG DƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
2.1 Những yếu tố ảnh hưởng công tác cán bộ và chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt huyện Tương Dương, tỉnh Nghệ An
Tương Dương là huyện miền núi cao nằm ở phía Tây Nam tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh 190 km và cửa khẩu quốc tế Nậm Cắn 75 km Huyện này giáp với huyện Mường Quắn, tỉnh Hủa Phăn (Lào) ở phía Bắc và Đông Bắc, các huyện Quỳ Châu, Quế Phong, Quỳ Hợp, huyện Viêng Thong, tỉnh Bu li khăm xay (Lào) ở phía Nam và Tây Nam, huyện Con Cuông ở phía Đông, và huyện Kỳ Sơn ở phía Tây.
Diện tích tự nhiên của huyện đạt 281.192,73 ha, chiếm 17% tổng diện tích tự nhiên của tỉnh, là huyện có diện tích lớn nhất Việt Nam Trong đó, diện tích đất lâm nghiệp lên tới 250.000 ha, bao gồm 24.000 ha rừng đặc dụng thuộc Vườn quốc gia Pù Mát và 15.000 ha rừng đặc dụng thuộc Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống.
Rừng Tương Dương phong phú về chủng loại, với hàng trăm loài cây, có
Việt Nam hiện có 42 loài được ghi vào Sách đỏ, bao gồm nhiều loài quý hiếm như pơ mu, sa mu, lát hoa và đinh hương Mặc dù động vật hoang dã đã suy giảm, vẫn có sự hiện diện của các loài như voi, hổ, gấu, sóc bay, voọc và nhiều loài gặm nhấm khác Dưới tán rừng, các loại thảo dược quý như đặng sâm và sa nhân cũng rất phong phú.
Tương Dương sở hữu các mỏ khoáng sản như than và đá granit, tuy nhiên trữ lượng của chúng khá ít và chất lượng không cao Trong khi đó, đá vôi tại đây có trữ lượng lớn và chất lượng tốt, đáp ứng nhu cầu sản xuất vật liệu xây dựng cho cả địa phương và các khu vực lân cận.
Do địa hình đồi dốc và diện tích đất nông nghiệp hạn chế, huyện chỉ có 800 ha ruộng Tuy nhiên, huyện lại sở hữu diện tích đất lâm nghiệp lớn, góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế địa phương.