CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT TRONG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CƠ SỞ
Cán bộ chủ chốt và chất lượng của cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở
thống chính trị cơ sở
1.1.1 Cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở
1.1.1.1 Khái niệm cán bộ Ở nước ta, thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng thường xuyên và trong phạm vi rộng, bao gồm những người làm việc thuộc khu vực nhà nước, tổ chức đảng và các tổ chức chính trị - xã hội Trong đời sống xã hội, thuật ngữ “cán bộ” được sử dụng trong phạm vi rộng hơn như: cán bộ trung ương, cán bộ tỉnh, cán bộ huyện, cán bộ xã, cán bộ thôn, cán bộ y tế, cán bộ lớp học, cán bộ coi thi
Cán bộ, theo Từ điển tiếng Việt của Nguyễn Như Ý, là người làm việc trong cơ quan nhà nước, bao gồm cán bộ nhà nước và những người giữ chức vụ, khác biệt với những người không đảm nhiệm chức vụ trong các cơ quan, tổ chức nhà nước.
Trong cuốn Từ điển tiếng Việt của nhà xuất bản Đà Nẵng, năm 2002, viết, Cán bộ:
“1 Người làm công tác có nghiệp vụ, chuyên môn trong cơ quan nhà nước Cán bộ nhà nước Cán bộ khoa học Cán bộ chính trị
2 Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức phân biệt với người thường không có chức vụ ” [48, tr.207]
Luật cán bộ, công chức năm 2008 ở nước ta, tại Khoản 1 Điều 4 quy định:
Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm vào các chức vụ, chức danh trong các cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước theo nhiệm kỳ Theo Luật cán bộ, công chức, cán bộ gắn liền với cơ chế bầu cử và bổ nhiệm Những người làm việc trong các cơ quan này thông qua con đường bầu cử và phê chuẩn sẽ được xác định là cán bộ, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cán bộ và chức vụ theo nhiệm kỳ.
Cán bộ là những người lãnh đạo, quản lý, điều hành hoặc chuyên môn, bao gồm nhà khoa học và công chức, viên chức, làm việc và nhận lương từ ngân sách nhà nước hoặc các nguồn khác Họ được bổ nhiệm hoặc bầu cử theo nhiệm kỳ, gắn liền với chức vụ và chức danh Theo Khoản 3, Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức, cán bộ cấp xã là công dân Việt Nam được bầu giữ chức vụ trong các cơ quan như Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, và các tổ chức chính trị - xã hội.
1.1.1.2 Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở
Hệ thống chính trị là bộ phận của kiến trúc thượng tầng xã hội, bao gồm các tổ chức và thiết chế có mối quan hệ về mục đích và chức năng trong việc thực hiện quyền lực chính trị và đưa ra quyết định chính trị Theo Đảng, hệ thống chính trị Việt Nam được định nghĩa là một chính thể các tổ chức chính trị, bao gồm đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp, liên kết với nhau để tác động vào các quá trình xã hội, nhằm củng cố và phát triển chế độ hiện hành phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền.
Hệ thống chính trị là tập hợp các tổ chức và thiết chế có vai trò quyết định trong việc thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân Nó được tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn mà nhân dân giao phó, qua đó tạo điều kiện cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình dưới nhiều hình thức và cấp độ khác nhau.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam được hình thành từ một tổ chức thống nhất, bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Nhân dân tạo ra và phục vụ cho Nhân dân, cùng với Mặt trận Tổ quốc.
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có trách nhiệm thực hiện quyền lực chính trị theo ủy quyền của Nhân dân, nhằm phát huy dân chủ và đạt được mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh.
Theo Hiến pháp năm 2013, hệ thống chính trị của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội; Nhà nước pháp quyền XHCN, phục vụ Nhân dân; cùng với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam được tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, bao gồm các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Cựu chiến binh Việt Nam Hệ thống chính trị cơ sở được hiểu là các tổ chức chính trị tại cấp xã, phường, thị trấn Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị hiện nay là tính đồng bộ và sự kết nối chặt chẽ giữa các cấp, đảm bảo sự lãnh đạo và quản lý hiệu quả.
Một là, hệ thống chính trị Việt Nam nhất nguyên về chính trị, một đảng lãnh đạo - Đảng cộng sản Việt Nam
Hệ thống chính trị ở Việt Nam là thể chế nhất nguyên, không có đảng đối lập, với Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vai trò lãnh đạo chủ yếu Đảng lãnh đạo xã hội thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần chúng, với các đường lối và quan điểm được thể chế hoá thành pháp luật và chính sách cụ thể Đảng cũng quản lý công tác cán bộ bằng cách xác định chính sách, lựa chọn và bố trí những cán bộ đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội.
Hai là, hệ thống chính trị Việt Nam là một chỉnh thể thống nhất
Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm nhiều tổ chức với tính chất, vị trí và chức năng khác nhau, nhưng chúng liên kết chặt chẽ, tạo thành một thể thống nhất Sự thống nhất này giúp phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn bộ hệ thống, thể hiện rõ ràng qua cấu trúc tổ chức từ Trung ương đến địa phương cùng các bộ phận hợp thành.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam mang tính nhân dân và bản chất dân chủ, thể hiện nguyên tắc cốt lõi của nó Điều này cho thấy hệ thống chính trị không chỉ là một cấu trúc tổ chức mà còn là một phần gắn bó chặt chẽ với xã hội Mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là, sự kết hợp giữa tính giai cấp và tính dân tộc của thống chính trị
Hệ thống chính trị Việt Nam đại diện cho nhiều giai cấp và tầng lớp nhân dân thông qua các tổ chức thành viên, mang bản chất giai cấp công nhân và tính dân tộc sâu sắc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường sự kết hợp giữa giai cấp và dân tộc Các tổ chức trong hệ thống thực hiện quyền lực nhà nước, tham gia vào các quyết định chính trị và thực hiện các chính sách quốc gia.
1.1.1.3 Khái niệm cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở
Cán bộ chủ chốt là những lãnh đạo có trách nhiệm nặng nề và quyền đại diện cho tập thể trong việc giải quyết các vấn đề quan trọng Theo PGS.TS Trần Xuân Sầm trong nghiên cứu “Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi mới”, cán bộ lãnh đạo chủ chốt không chỉ đảm nhận vai trò lãnh đạo mà còn phải chịu trách nhiệm trước tập thể.
Các yếu tố chủ yếu để nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ chủ chốt
1.2.1 Đào tạo, bồi dưỡng Đào tạo cán bộ là làm cho đội ngũ này có được những năng lực theo những tiêu chuẩn nhất định như: năng lực về hiểu biết, nhận thức sự việc, năng lực điều hành, tổ chức thực hiện, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và đề xuất giải pháp để thực hiện đạt mục tiêu Điều 25 Luật cán bộ, công chức của Quốc hội, năm 2008 về đào tạo, bồi dưỡng đối với cán bộ đã quy định: “Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải căn cứ vào tiêu chuẩn, chức vụ, chức danh cán bộ, yêu cầu nhiệm vụ và phù hợp với quy hoạch cán bộ Chế độ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ do cơ quan có thẩm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ quy định" Điều 47 quy định: “Nội dung, chương trình, hình thức, thời gian đào tạo, bồi dưỡng công chức phải căn cứ vào tiêu chuẩn chức danh, chức vụ lãnh đạo, quản lý, tiêu chuẩn của ngạch công chức và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ”
Nghị quyết 03 - NQ/TW ngày 18 tháng 6 năm 1997 nhấn mạnh việc mở rộng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ trong hệ thống chính trị và các tổ chức xã hội, cũng như các thành phần kinh tế Đặc biệt, nghị quyết chú trọng vào việc phát hiện và đào tạo nhân tài, nhằm tạo nguồn cán bộ lãnh đạo và quản lý từ Trung ương đến cơ sở, bao gồm cả cán bộ khoa học đầu ngành và cán bộ quản lý doanh nghiệp lớn Mục tiêu đặt ra là đến năm 2005, tất cả cán bộ chủ chốt dưới 45 tuổi từ cấp huyện trở lên phải có trình độ đại học chuyên môn và lý luận chính trị cao cấp Đồng thời, nghị quyết yêu cầu đào tạo và bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm, để khắc phục tình trạng bổ nhiệm rồi mới đào tạo.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một quy trình quan trọng, được pháp luật hóa và thể hiện trong đường lối của Đảng, nhằm nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ chốt tại cơ sở Việc đổi mới công tác này không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển và sáng tạo trong việc áp dụng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn giúp cán bộ hiểu rõ đường lối, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước để phục vụ nhân dân hiệu quả Đội ngũ cán bộ chủ chốt cần gương mẫu trong thực hiện các chủ trương như xóa đói giảm nghèo và phòng chống tham nhũng Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn nhiều bất cập trong nhận thức và thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng, ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ này Do đó, cần nâng cao nhận thức của cấp ủy đảng và người đứng đầu để đảm bảo công tác đào tạo, bồi dưỡng đạt hiệu quả cao.
Quy hoạch cán bộ là một yếu tố quan trọng trong công tác cán bộ, giúp đảm bảo tính nề nếp và chủ động, đồng thời có tầm nhìn chiến lược để đáp ứng nhiệm vụ trước mắt và lâu dài Quy hoạch cần dựa vào nhiệm vụ chính trị, tình hình thực tế của đội ngũ cán bộ, công chức hiện tại, cùng với nhu cầu và khả năng phát triển của họ Điều này sẽ giúp xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, tạo ra nguồn cán bộ đủ về số lượng, phù hợp về cơ cấu, và đạt tiêu chuẩn cần thiết để phục vụ yêu cầu của hệ thống chính trị.
Quy hoạch và bổ nhiệm cán bộ là các bước quan trọng trong quản lý nhân sự, nhằm đạt được mục tiêu chung và đáp ứng yêu cầu của khoa học quản lý Việc thực hiện tốt công tác này giúp lựa chọn những người có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực phù hợp, từ đó nâng cao tinh thần làm việc và khuyến khích học tập, rèn luyện chuyên môn Do đó, quy hoạch và bổ nhiệm có ảnh hưởng lớn đến chất lượng cán bộ cấp cơ sở Theo Điều 63 của Luật cán bộ, công chức năm 2008, việc bầu cử cán bộ cấp xã phải tuân thủ quy định của các luật liên quan và quy định của cơ quan có thẩm quyền.
Việc tuyển dụng công chức cấp xã phải thực hiện qua thi tuyển, tuy nhiên, đối với các xã miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số và các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, có thể áp dụng hình thức xét tuyển Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện có trách nhiệm tổ chức tuyển dụng công chức cấp xã theo quy định của Chính phủ.
Việc bổ nhiệm công chức vào các vị trí lãnh đạo, quản lý cần dựa trên nhu cầu và nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị, đồng thời phải tuân thủ các tiêu chuẩn và điều kiện của chức vụ lãnh đạo, quản lý.
Thẩm quyền và quy trình bổ nhiệm công chức lãnh đạo, quản lý phải tuân thủ theo quy định của pháp luật và các hướng dẫn từ cơ quan có thẩm quyền.
2 Thời hạn bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý là 05 năm; khi hết thời hạn, cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền phải xem xét bổ nhiệm lại hoặc không bổ nhiệm lại
3 Công chức được điều động đến cơ quan, tổ chức, đơn vị khác hoặc được bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo, quản lý mới thì đương nhiên thôi giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý đang đảm nhiệm, trừ trường hợp kiêm nhiệm” [37]
Trong hệ thống chính trị cấp cơ sở, công tác cán bộ là nhiệm vụ quan trọng của tổ chức Đảng, thông qua bầu cử và tuyển chọn dựa trên trình độ chuyên môn Tuy nhiên, một số cấp ủy đảng chưa thực hiện đầy đủ quan điểm về xây dựng cán bộ, dẫn đến việc tuyển chọn và bổ nhiệm chưa được chú trọng đúng mức Nhiều cán bộ sau khi học tập chưa được bố trí sử dụng đúng năng lực, trong khi số lượng sinh viên mới ra trường được tuyển chọn về cấp cơ sở còn hạn chế Việc tuyển chọn và bổ nhiệm thường mang tính hình thức, không đáp ứng yêu cầu về phẩm chất và năng lực của từng chức danh Hơn nữa, quy hoạch và tuyển chọn chưa gắn kết với công tác đào tạo, dẫn đến tình trạng tuyển dụng những người không đủ năng lực, ảnh hưởng đến chất lượng cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở.
Kiểm tra và giám sát cán bộ là hoạt động thiết yếu trong hệ thống chính trị nhằm đánh giá và điều chỉnh kịp thời hoạt động của cán bộ, từ đó phát huy nhân tố tích cực và ngăn chặn tiêu cực Qua đó, việc này giúp đánh giá năng lực, tinh thần và trách nhiệm của cán bộ trong thực thi nhiệm vụ, làm cơ sở cho quy hoạch và bổ nhiệm Để thực hiện hiệu quả, các cơ quan thanh tra cần kiên quyết chống lại các hành vi trái với Cương lĩnh chính trị và pháp luật, đồng thời gắn với việc thực hiện Nghị quyết trung ương 4 và Chỉ thị 05 của Bộ chính trị Quá trình kiểm tra cần đảm bảo tính công minh, chính xác và kịp thời, xử lý nghiêm minh các vi phạm để bảo vệ cái đúng và ngăn chặn sai sót.
Chế độ và chính sách là công cụ quan trọng trong quản lý xã hội, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của con người Chúng thúc đẩy tính tích cực, tài năng, sáng tạo, nhiệt tình và trách nhiệm của cán bộ Do đó, việc xây dựng và thực hiện hiệu quả chế độ, chính sách đối với cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở có tác động lớn đến chất lượng, cơ chế tuyển dụng và sử dụng nhân sự trong công tác cán bộ.
Để đảm bảo quản lý hiệu quả đội ngũ cán bộ, các cấp uỷ và thủ trưởng các cơ quan cần nắm vững thông tin về từng cán bộ, bao gồm phẩm chất, năng lực và tình trạng sức khỏe Dựa trên những thông tin này, cần xây dựng kế hoạch sử dụng, đề bạt, khen thưởng hợp lý cho những cán bộ có thành tích xuất sắc, đồng thời xử lý kỷ luật nghiêm minh và kịp thời đối với những cán bộ vi phạm Điều lệ Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã đưa ra nhiều quyết sách nhằm cải thiện tình hình cán bộ cấp cơ sở, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập trong hệ thống chính sách hiện tại Chế độ tiền lương và phụ cấp cho cán bộ tại cơ sở còn thấp, không đủ sức hấp dẫn để khuyến khích người lao động Hơn nữa, cơ chế quản lý và thực hiện chính sách còn chồng chéo, thiếu nhất quán, cùng với cơ chế kiểm tra và giám sát kém hiệu quả Điều này dẫn đến tình trạng nhiều cán bộ có năng lực thực sự không muốn công tác tại cấp xã, gây ra sự thiếu đồng bộ về cơ cấu, độ tuổi, giới tính và năng lực của cán bộ ở nhiều địa phương.
Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chu ̉ chố t trong hệ thống chính trị cơ sở
1.3.1 Vai trò của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị ở cơ sở
Trong tiến trình cách mạng của giai cấp vô sản, C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng để giành quyền lãnh đạo và duy trì chính quyền, giai cấp vô sản cần xây dựng một đội ngũ cán bộ mạnh mẽ C.Mác khẳng định rằng "Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn" V.I.Lênin, kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác, đặc biệt chú trọng vào việc xây dựng đội ngũ cán bộ nòng cốt cho Đảng Cộng sản Bônsêvich Nga, nhấn mạnh rằng không có giai cấp nào giành được quyền thống trị mà không đào tạo những lãnh tụ chính trị có khả năng lãnh đạo Khi có chính quyền, việc lựa chọn và đào tạo cán bộ trở nên cấp bách hơn bao giờ hết, đặc biệt trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội V.I.Lênin khẳng định rằng cán bộ giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong cả cách mạng dân chủ và cách mạng xã hội chủ nghĩa, là trung tâm của mọi vấn đề và là nguyên nhân của mọi thành công Thiếu đội ngũ cán bộ tiên tiến, cách mạng sẽ không thể thành công.
Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin về công tác cán bộ, nhấn mạnh rằng cán bộ là yếu tố quyết định cho mọi công việc Ông khẳng định rằng thành công hay thất bại đều phụ thuộc vào chất lượng cán bộ, những người truyền đạt chính sách của Đảng và Chính phủ đến với dân chúng, đồng thời phản ánh tình hình của dân để xây dựng chính sách phù hợp Cán bộ đóng vai trò “cầu nối” giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng, và chính sách đúng đắn sẽ không mang lại kết quả nếu cán bộ thực hiện kém Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng sự thành công của chính sách phụ thuộc vào tổ chức công việc, lựa chọn cán bộ và việc kiểm tra; nếu ba yếu tố này yếu kém, chính sách dù đúng mấy cũng sẽ trở nên vô ích.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ, bao gồm các yếu tố như hiểu biết, khéo dùng, cân nhắc, thương yêu, và phê bình cán bộ Để có đội ngũ cán bộ chất lượng, cần thực hiện tốt các khâu từ phát hiện, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng, đến bố trí công việc và kiểm tra, theo dõi Chất lượng cán bộ phản ánh chất lượng công tác cán bộ, và chỉ cần một khâu bị xem nhẹ sẽ ảnh hưởng lớn đến toàn bộ đội ngũ Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một đội ngũ cán bộ có phẩm chất cách mạng và năng lực tổ chức, giúp Đảng thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, đưa cách mạng Việt Nam đến nhiều thắng lợi.
Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ, xem đây là vấn đề chiến lược quan trọng quyết định sự thành bại của cách mạng và vận mệnh đất nước Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác cán bộ là khâu then chốt trong xây dựng Đảng Đảng đã từng bước hoàn thiện nhận thức về công tác cán bộ, điều này thể hiện qua các kỳ Đại hội và nghị quyết của Trung ương, nhằm tổng kết thực tiễn và phát triển quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ.
Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, coi đây là chiến lược cán bộ của Đảng Hội nghị Trung ương lần thứ chín (khoá X) đã tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (khoá VIII) và khẳng định rằng cán bộ là yếu tố quyết định sự thành bại của cách mạng, đồng thời nhấn mạnh sự cần thiết phải thường xuyên chăm lo và đổi mới công tác cán bộ gắn liền với phương thức lãnh đạo của Đảng Đại hội XII đã đề ra nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng với 10 giải pháp cơ bản, trong đó yêu cầu kiên quyết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI, tập trung vào việc ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các hiện tượng "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ.
Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII nhấn mạnh việc khắc phục yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức và trách nhiệm, phục vụ lợi ích tập thể, quốc gia Để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, cần phải "nhìn thẳng vào sự thật", kết hợp giữa "xây" và "chống", với "xây" là nhiệm vụ chiến lược lâu dài và "chống" là nhiệm vụ cấp bách Cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là cán bộ cấp cao, cần thực hiện quyết liệt các giải pháp để ngăn chặn sự suy thoái và củng cố niềm tin của nhân dân.
Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, đất nước và chế độ, đóng vai trò then chốt trong công tác xây dựng Đảng Trong bối cảnh đất nước đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng cần xây dựng đội ngũ cán bộ chất lượng, góp phần thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.
1.3.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt đáp ứng yêu cầu của việc đổi mới hệ thống chính trị cơ sở
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu quan trọng về kinh tế và xã hội, hiện đang đối mặt với yêu cầu phát triển mới Để đáp ứng giai đoạn này, hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở cần đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đồng thời nâng cao hiệu lực lãnh đạo và quản lý Các cơ sở xã, phường, thị trấn đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, qua đó tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, và huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội.
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở cơ sở đã tích cực thực hiện nhiệm vụ và quy chế dân chủ, góp phần tạo ra những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội, làm thay đổi bộ mặt nông thôn và thành thị Tuy nhiên, hiện tại, hệ thống này còn nhiều yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và tổ chức thực hiện, dẫn đến tình trạng tham nhũng, quan liêu và mất đoàn kết nội bộ, vi phạm quyền làm chủ của dân Chức năng và nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa rõ ràng, trách nhiệm không được xác định cụ thể, và phương thức hoạt động còn chậm đổi mới, thể hiện nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo và chính sách đối với họ còn thiếu đồng bộ.
Hệ thống chính trị ở cơ sở gặp phải nhiều yếu kém do các cấp, ngành chưa nhận thức đúng vai trò và vị trí của cơ sở Sự quan liêu và thiếu sự gần gũi với nhân dân đã dẫn đến việc chính sách củng cố, tăng cường các tổ chức và đội ngũ cán bộ cơ sở chưa được quan tâm đúng mức.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên, bao gồm cả những người lãnh đạo và quản lý, đang gặp phải tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống Họ thể hiện sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, và tham nhũng, làm giảm uy tín của Đảng và xói mòn lòng tin của nhân dân vào chế độ Chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của hệ thống chính trị trong thời kỳ mới, với cơ cấu đội ngũ còn mất cân đối và thiếu đồng bộ.
Những hạn chế trong công tác giáo dục và bồi dưỡng cán bộ, đảng viên xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm quản lý, kiểm tra và sử dụng cán bộ còn yếu kém, kỷ luật chưa nghiêm Cán bộ thiếu tự giác trong việc học tập và rèn luyện, đồng thời thiếu chính sách thu hút và phát hiện nguồn cán bộ chất lượng Hệ thống chưa có cơ chế hiệu quả để tuyển chọn và đào tạo người có đức, có tài, trong khi nhiều chính sách vẫn chậm đổi mới, thiếu động lực cho sự phát triển Để nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, cần tập trung giải quyết những vấn đề này.
Xác định rõ chức năng và nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị là cần thiết, đồng thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết và phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của đảng bộ, chi bộ cơ sở Cần thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức chính trị ở cơ sở theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy quyền làm chủ của dân thông qua quyền dân chủ trực tiếp và đại diện Việc quy định cụ thể quyền giám sát của dân đối với tổ chức và cán bộ ở cơ sở, cũng như thay thế những người không đủ tín nhiệm là rất quan trọng Đồng thời, việc phát huy dân chủ cần gắn liền với việc củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước là rất quan trọng Cán bộ cần công tâm, thạo việc, tận tụy với dân, phát huy sức dân, đồng thời không tham nhũng và không ức hiếp dân Việc trẻ hóa đội ngũ và chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng cũng cần được chú trọng, cùng với việc giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở Nâng cao nhận thức cho mọi cán bộ, đảng viên về ý nghĩa và tầm quan trọng của chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới là cần thiết, nhằm quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn của Đảng để đáp ứng những yêu cầu mới hiện nay.
Đảng tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và công tác cán bộ, cụ thể hóa nguyên tắc thống nhất lãnh đạo và phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu Cần hoàn thiện quy định về sự lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức thành viên, tạo chuyển biến trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo theo quy hoạch và chức danh Công tác giáo dục và quản lý cán bộ phải gắn liền với kiểm tra, giám sát về chất lượng, hiệu quả công việc và tư tưởng của cán bộ Cần hoàn thiện quy định về quyền hạn và trách nhiệm của các cấp trong giáo dục, quản lý cán bộ, đồng thời gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với việc thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương.
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC NÂNG
Khái quát điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
2.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
Huyện Hồng Ngự, nằm ở phía Bắc tỉnh Đồng Tháp, cách trung tâm tỉnh (Thành phố Cao Lãnh) 60 km về phía Tây Bắc, có vị trí địa lý tiếp giáp với tỉnh Preyveng (Campuchia) ở phía Bắc, thị xã Hồng Ngự và huyện Tam Nông ở phía Đông, huyện Phú Tân và thị xã Tân Châu (tỉnh An Giang) ở phía Tây - Tây Nam, và huyện Thanh Bình (tỉnh Đồng Tháp) cùng huyện Phú Tân (tỉnh An Giang) ở phía Nam Đặc biệt, dòng sông Tiền chảy qua huyện Hồng Ngự, tạo thành một cửa khẩu quan trọng kết nối Việt Nam với Campuchia.
Huyện Hồng Ngự, nằm ở phía Bắc tỉnh Đồng Tháp, có đường biên giới dài hơn 18 km tiếp giáp với tỉnh Preyveng của Campuchia và diện tích tự nhiên là 209,74 km² Vị trí địa lý của huyện đóng vai trò quan trọng trong kinh tế biên giới của tỉnh, là đầu mối giao lưu kinh tế với Campuchia và là đối trọng với cụm phát triển kinh tế biên giới Tân Châu – Vĩnh Xương (An Giang) Ngoài ra, huyện Hồng Ngự còn có vai trò quan trọng trong công tác quốc phòng và an ninh do vị trí giáp biên giới.
Huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp được chia tách thành 2 phần: Phần đất liền thuộc vùng Đồng Tháp Mười và phần các xã cù lao nằm trên sông
Khu vực năm xã cù lao bao gồm Phú Thuận A, Phú Thuận B, Long Thuận, Long Khánh A và Long Khánh B, nằm dọc theo sông và thuộc vùng trũng Đồng Tháp Mười Khu vực này cũng tiếp giáp với biên giới Campuchia, bao gồm các xã Thường Phước 1, Thường Phước 2, Thường Thới Tiền, Thường Lạc, Thường Thới Hậu A và Thường Thới Hậu B.
Bảng 2.1 Đơn vị hành chính huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
STT Đơn vị hành chính Diện tích
Nguồn: Số liệu lưu trữ tại Văn phòng UBND huyện Hồng Ngự, năm 2017
Huyện Hồng Ngự, thuộc tỉnh Đồng Tháp, nằm trong vùng Đồng Tháp Mười với hệ thống kênh, rạch dày đặc kết nối với sông Tiền, bao gồm kinh Tứ Thường, kinh Trung Tâm và nhiều mương khác Hệ thống này không chỉ cung cấp nước ngọt và rửa phèn mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông vận tải Địa hình huyện Hồng Ngự bằng phẳng, cao ráo và ít ngập nước, với đất đai chủ yếu là phù sa bồi đắp từ sông Tiền, tạo nên một môi trường thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và sinh hoạt.
Sở Thượng và sông Sở Hạ thuận lợi cho phát triển nông nghiệp và chăn nuôi
Huyện Hồng Ngự, thuộc tỉnh Đồng Tháp, nằm trong khu vực có khí hậu đặc trưng của tiểu vùng Đồng Tháp Mười Mùa mưa lũ tại đây thường bắt đầu từ tháng 4 và kéo dài đến tháng.
Mùa khô ở Hồng Ngự kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 âm lịch, với thời tiết nắng nhiều và khí hậu khô hanh, nóng bức Khu vực này chịu ảnh hưởng trực tiếp từ chế độ thủy văn sông Tiền, dẫn đến lũ thường đến sớm hơn các địa phương khác Dù nước lũ gây ra nhiều khó khăn, nhưng cũng mang lại nguồn lợi thủy sản phong phú cho người dân Mùa nước lên, tôm cá theo dòng sông Tiền tràn về đồng ruộng, khiến Hồng Ngự nổi tiếng với câu nói “trên cơm dưới cá” Ngoài tôm cá, lúa gạo cũng là nguồn lợi lớn; sau mùa lũ, phù sa từ sông Tiền làm đất đai thêm màu mỡ Đất Hồng Ngự còn thích hợp cho nhiều loại cây công nghiệp ngắn ngày như mè, đậu, bắp, và các loại rau màu.
Vùng đất có hệ thống kênh rạch chằng chịt thường xuyên bị ngập lụt vào mùa lũ, khiến người dân thường chọn cư trú gần nguồn nước như sông, rạch và các con đường lớn Địa hình nơi đây thuận lợi với sông, rạch phía trước và đồng ruộng phía sau, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đi lại, sản xuất và giao thương.
Với nguồn thực phẩm phong phú từ thiên nhiên, người dân nơi đây có thói quen ăn uống đa dạng nhưng giản dị, thể hiện sự hòa hợp giữa con người và môi trường Trang phục của họ cũng đơn giản, phù hợp với công việc nông nghiệp.
Sự tác động của các yếu tố tự nhiên đã hình thành nên những đặc điểm và bản sắc riêng của con người Hồng Ngự Những giá trị này ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến năng lực và chất lượng của đội ngũ cán bộ công chức, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt tại cấp cơ sở ở huyện Hồng Ngự.
2.1.2 Tình hình kinh tế, xã hội, văn hoá huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
Qua 5 năm (2010-2015) triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ X Đảng bộ huyện, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 10,3%/năm, giá trị GDP năm 2015 đạt 3.222 tỷ đồng, gấp 1,8 lần so năm 2010, GDP bình quân đầu người đạt 890 USD Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tích cực Tỷ trọng khu vực nông - lâm - thủy sản từ 70,29% năm 2010 giảm còn 60,76% năm 2015; công nghiệp - xây dựng từ 8,87% năm 2010 tăng lên 10,76% năm 2015 và thương mại - dịch vụ từ 20,84% năm 2010 tăng lên 28,48% năm 2015 Tổng nguồn vốn đầu tư phát triển từ năm 2010 đến 2015 khoảng 1.129 tỷ đồng, chiếm 18,38% giá trị GDP [18] Năm 2016, tổng giá trị sản xuất 3.590,7 tỷ đồng; GDP bình quân đầu người trên 1.400 USD/người, thương mại - dịch vụ tiếp tục phát triển, tổng mức bán lẻ hàng hóa đạt 3.915,7 tỷ đồng, tăng 425,7 tỷ đồng so năm 2015; khu vực công nghiệp - xây dựng đạt 755,3 tỷ đồng, tăng 9,5%; khu vực nông - lâm - thủy sản ước đạt 2.835,4 tỷ đồng, tăng 2,5% Phấn đấu, tổng giá trị sản xuất trên địa bàn đến 2020 đạt 4.133 tỷ đồng (giá so sánh 2010), tăng bình quân 3,57%/năm Trong đó, nông - lâm - thủy sản tăng bình quân hàng năm 2,63%; công nghiệp – xây dựng tăng bình quân hàng năm 6,95%; tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (giá thực tế) tăng bình quân hàng năm 10,1% Thu nhập bình quân đầu người đạt trên 40 triệu đồng
Trong giai đoạn 2011 – 2015, kinh tế nông nghiệp ghi nhận mức tăng trưởng bình quân 6,2% mỗi năm Sản xuất nông nghiệp đã mở rộng quy mô, hình thành các vùng sản xuất 3 vụ với hệ thống đê bao kiên cố Hạ tầng nông thôn được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt là các công trình giao thông và thủy lợi, kết hợp với phát triển giao thông nông thôn, cụm dân cư, hạ tầng đô thị và khu kinh tế biên giới, góp phần làm thay đổi diện mạo nông thôn.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, ngành công nghiệp và xây dựng đã đạt mức tăng trưởng bình quân 14,9% mỗi năm Đã thực hiện thi công 112 công trình giao thông với tổng vốn đầu tư lên đến 234 tỷ đồng Dự án cầu bê tông trên tuyến đường ĐT841 và 08 cụm, tuyến dân cư giai đoạn 2 đã hoàn thành, cung cấp 4.742 nền với kinh phí 329 tỷ đồng Đến nay, đã xét duyệt 4.742 hộ và có 4.268 hộ đã vào ở, đạt tỷ lệ 90%.
Thị trấn Thường Thới Tiền đã hoàn thành quy hoạch chung với diện tích 1.450 ha và được công nhận là đô thị loại V, đồng thời hạ tầng kỹ thuật khu hành chính Huyện cũng đã được cải thiện Hạ tầng kỹ thuật cửa khẩu Quốc tế Thường Phước đã được xây dựng hoàn chỉnh Hiện tại, dự án mở rộng tuyến đường ĐT841 qua khu trung tâm hành chính Huyện đang được triển khai thi công.
Trong giai đoạn 2011 - 2015, thương mại và dịch vụ tại huyện ghi nhận mức tăng trưởng bình quân 16,5%/năm, với tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng năm 2015 đạt 4.165 tỷ đồng, tăng 19,23%/năm Mạng lưới dịch vụ bưu chính viễn thông và internet phát triển nhanh chóng, với 100% xã được phủ sóng điện thoại di động Dịch vụ vận tải cũng từng bước cải thiện, đáp ứng nhu cầu vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân Hoạt động tín dụng ngân hàng trên địa bàn tiếp tục phát triển, phục vụ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh Huyện hiện có 112 công ty và doanh nghiệp, 12 hợp tác xã với vốn điều lệ khoảng 16 tỷ đồng và 1.597 xã viên tham gia, cùng với 1.249 hộ sản xuất kinh doanh, tổng vốn đạt 262 tỷ đồng.
Huyện Hồng Ngự có nền kinh tế tăng trưởng nhưng còn nhiều hạn chế, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp, nơi sản xuất chưa đạt hiệu quả bền vững và quy mô nhỏ Kết cấu hạ tầng yếu kém, chất lượng sản phẩm không đồng đều và sức cạnh tranh thấp Hoạt động kinh tế tập thể chưa đa dạng và chất lượng chưa cao, trong khi một số quy hoạch chưa được thực hiện Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng gặp khó khăn và quản lý đầu tư xây dựng còn yếu Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp chủ yếu quy mô nhỏ với công nghệ lạc hậu, không đáp ứng yêu cầu về chất lượng và năng lực cạnh tranh.
Thực trạng chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
Huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, có 11 xã và tổng cộng 995 cán bộ cấp cơ sở, bao gồm 458 cán bộ chuyên trách và 537 cán bộ không chuyên trách Trong số này, có 235 chức danh kiêm nhiệm, với 396 nữ chiếm 23,6% và 599 nam chiếm 76,4%.
Trong giai đoạn 2010 - 2015, đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện Hồng Ngự đã có nhiều cải cách về số lượng và chất lượng, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII) Nghị quyết này nhấn mạnh việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đồng thời xây dựng chiến lược cán bộ trung và dài hạn thông qua quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng Để phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của huyện, BCH Huyện ủy đã cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện với 40 đồng chí trong giai đoạn này Sau Đại hội Đảng bộ Huyện lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020, đội ngũ cán bộ công chức của huyện đã có sự thay đổi đáng kể về số lượng và các chức danh.
- Ủy viên Ban Chấp hành đảng bô ̣: 43 đồ ng chí;
- Ủy viên Ban Thườ ng vu ̣: 13 đồ ng chí;
- Bí thư và Phó Bí thư Huyện ủy: 3 đồng chí;
- Chủ ti ̣ch (kiêm nhiệm) và Phó Chủ ti ̣ch HĐND hoạt động chuyên trách;
- Chủ tịch và Phó Chủ tịch UBND: 3 đồng chí;
- Trưở ng các ban Đảng: 5 đồng chí;
- Trưở ng các phòng, ngành trực thuô ̣c UBND huyê ̣n: 13 đồng chí;
- Các Ban thuộc HĐND: 4 đồng chí;
- Trưở ng các đoàn thể và tương đương: 06 đồng chí và 1 kiêm nhiệm;
- Có 5 đồng chí ủy viên BCH Đảng bộ huyện tăng cường cơ sở
Các chức danh được bố trí kiêm nhiệm bao gồm: một số ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, Ủy viên Ban Thường vụ Huyện ủy, và các chức danh trưởng các Ban của Hội đồng nhân dân (HĐND) Cụ thể, Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Phó Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch Ủy ban nhân dân (UBND); Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy kiêm Trưởng Ban Pháp chế HĐND; và Chủ tịch Ủy ban MTTQ Việt Nam Huyện kiêm Trưởng Ban Kinh tế - xã hội HĐND huyện.
Kết quả phân tích đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện theo chức danh của Đảng bộ huyện Hồng Ngự cho thấy, trong nhiệm kỳ 2015 - 2020, Ban Chấp hành Đảng bộ huyện có 43 đồng chí, trong đó có 02 đồng chí nữ, chiếm 4,6% Đặc biệt, có 02 đồng chí dưới 35 tuổi, cũng chiếm 4,6%.
Bảng 2.2 Cơ cấu đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, năm 2017
7 Chủ tịch Ủy ban MTTQ 11 11 01 04 06
8 Bí thư đoàn thanh niên 11 06 05 11
9 Chủ tịch Hội Phụ nữ 11 11 04 04 03
10 Chủ tịch Hội Nông dân 11 11 02 03 06
Nguồn: Ban tổ chức Huyện ủy Hồng Ngự năm 2017
2.2.2 Về trình độ Đội ngũ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, 100% có trình độ văn hóa tốt nghiệp trung học phổ thông và BCH Đảng bô ̣ huyê ̣n, nhiệm kỳ 2015 - 2010 có trình đô ̣ Đa ̣i ho ̣c 43 đồng chí, chiếm 100%; trong đó Tha ̣c sĩ 06 đồng chí, chiếm 13,95% Đây là lợi thế để huyện Hồng Ngự có điều kiện nâng cao chất lượng, năng lực quản lý, lãnh đạo cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị cấp cơ sở của huyện
Bảng 2.3 Trình độ văn hóa, chuyên môn của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, năm 2017
TT Chức vụ THPT Trung cấp ĐH, CĐ Sau ĐH
7 Chủ tịch Ủy ban MTTQ 11 09 02
8 Bí thư đoàn thanh niên 11 11
9 Chủ tịch Hội Phụ nữ 11 02 09
10 Chủ tịch Hội Nông dân 11 07 04
11 Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 11 04 07
Nguồn: Ban tổ chức Huyện ủy Hồng Ngự năm 2017
Về trình độ lý luận chính trị và quản lý nhà nước
Huyện uỷ chú trọng đào tạo và nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt tại cơ sở Hàng năm, huyện gửi cán bộ đi học tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Trường Chính trị tỉnh, đồng thời nâng cao chất lượng đào tạo tại trung tâm chính trị huyện Nhờ đó, hiện nay, phần lớn cán bộ đạt trình độ trung cấp lý luận, trong đó có 38 đồng chí đạt trình độ cao cấp, chiếm 30% Tuy nhiên, vẫn còn 3% cán bộ chỉ đạt trình độ sơ cấp.
Bảng 2.4 Trình độ Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở huyện Hồng Ngự, năm 2017
TT Chức vụ Cao cấp Trung cấp Sơ cấp
2 Phó Bí thư thường trực 03 08
7 Chủ tịch Ủy ban MTTQ 11
8 Bí thư đoàn thanh niên 02 09
9 Chủ tịch Hội Phụ nữ 02 09
10 Chủ tịch Hội Nông dân 10 01
11 Chủ tịch Hội Cựu chiến binh 08 03
Nguồn: Ban tổ chức Huyện ủy Hồng Ngự năm 2017
2.2.3 Phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực
Đa số cán bộ chủ chốt cấp cơ sở có phẩm chất đạo đức tốt và luôn ý thức tu dưỡng, rèn luyện tác phong của người cán bộ Họ gương mẫu thực hiện “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, nêu cao tinh thần trách nhiệm và chống chủ nghĩa cá nhân Các cán bộ này thực hiện Cần - Kiệm - Liêm - Chính - Chí công vô tư, kiên quyết đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng và lãng phí, đồng thời giữ vững lối sống thực hành, nói đi đôi với làm Họ luôn thẳng thắn, trung thực và khách quan trong công việc.
- Về năng lực lãnh đạo:
Trong bối cảnh yêu cầu đổi mới, cán bộ chủ chốt tại huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp luôn nỗ lực nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn Họ đóng vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là trong chương trình xây dựng nông thôn mới Sự chủ động học tập và nâng cao năng lực quản lý của họ đã góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững của địa phương.
Thực trạng công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
2.3.1 Những kết quả đạt được trong công tác nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp
- Việc cụ thể hóa và ban hành văn bản, thực hiện Kết luận số 29-
Vào ngày 24-4-2009, Tỉnh ủy đã ban hành KL/TU nhằm đẩy mạnh thực hiện Chiến lược cán bộ đến năm 2020 theo Kết luận số 37-KL/TW của Hội nghị Trung ương 9 khóa X Ban Thường vụ Huyện ủy đã tham mưu cho Ban Chấp hành Đảng bộ Huyện xây dựng Kế hoạch số 97-KH/HU vào ngày 09-6-2009 Đồng thời, thực hiện Kế hoạch số 46-KH/TU ngày 04-12-2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc thực hiện Kết luận số 24-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI, nhằm đẩy mạnh công tác quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và các năm tiếp theo Ban Thường vụ Huyện ủy cũng đã ban hành Chương trình số 66-CTr/HU vào ngày 20-7.
2011 của Huyện uỷ về thực hiện Nghị quyết số 01-NQ/TU, ngày 23-5-2011 của
Tỉnh uỷ khóa IX về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực giai đoạn 2011 - 2015;
Kế hoạch số 72-KH/HU ngày 16-02-2014 của Ban Thường vụ Huyện uỷ đề ra việc luân chuyển, sắp xếp và bố trí cán bộ lãnh đạo giai đoạn 2014 và định hướng năm 2015 Công văn số 191-CV/HU ngày 17-10-2011 tiếp tục nhấn mạnh công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Công văn số 165-CV/HU ngày 14-4-2016 hướng dẫn thực hiện đào tạo, quy hoạch và luân chuyển cán bộ Ban Thường vụ Huyện uỷ chỉ đạo các ban, cơ quan và tổ chức đảng trực thuộc triển khai thông suốt ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cán bộ, đồng thời xây dựng các văn bản cụ thể hóa phù hợp với tình hình địa phương Quá trình lãnh đạo đã kịp thời cụ thể hóa các văn bản của Trung ương và Tỉnh về công tác cán bộ.
- Công tác tổ chức cán bộ, Huyện uỷ luôn bám sát vào Quy chế làm việc,
Quy định phân cấp quản lý cán bộ cần được thực hiện nghiêm túc và đúng thẩm quyền, phát huy dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ Các vấn đề liên quan đến cán bộ phải được bàn bạc và quyết định dựa trên sự đồng thuận của đa số Cần thực hiện đồng bộ các khâu, tuân thủ nghiêm quy trình và thủ tục, đồng thời đề cao trách nhiệm của người đứng đầu và các tổ chức trong hệ thống chính trị Mục tiêu là đưa công tác cán bộ vào nề nếp, hiệu quả, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong Đảng bộ và nâng cao nhận thức về vai trò lãnh đạo của Đảng trong công tác cán bộ.
Huyện ủy đã ban hành quy định phân cấp quản lý cán bộ, bao gồm các nội dung như tuyển chọn, bố trí, phân công, điều động, luân chuyển cán bộ, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, thực hiện chế độ, chính sách cán bộ, kiểm tra giám sát và giải quyết khiếu nại tố cáo Đặc biệt chú trọng vào việc quy hoạch và bố trí đội ngũ lãnh đạo, quản lý có đủ số lượng và cơ cấu đồng bộ, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, với 3 độ tuổi Đồng thời, cần mạnh dạn quy hoạch và sử dụng cán bộ nữ, cán bộ trẻ, cũng như luân chuyển xuống cơ sở để rèn luyện, thử thách và tạo nguồn cán bộ cho tương lai.
Công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ được Ban Thường vụ Huyện ủy chú trọng thực hiện đúng yêu cầu và kế hoạch đề ra, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong việc học tập Điều này góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ đạt chuẩn theo quy định, đồng thời đáp ứng kịp thời nhu cầu bố trí và sử dụng cán bộ.
Năm 2017, Huyện ủy đã cử 08 cán bộ, công chức tham gia lớp cao cấp lý luận chính trị, cùng với 20 cán bộ, công chức học lớp trung cấp lý luận chính trị - hành chính trong năm học 2016-2017 Ngoài ra, 04 cán bộ, công chức đã theo học lớp đại học văn bằng 2 và 03 người học lớp cử nhân chính trị Những cán bộ, công chức này đã có sự trưởng thành rõ rệt, phát huy tốt phẩm chất đạo đức và năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương Đội ngũ cán bộ, công chức xã không ngừng tăng cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là sự bổ sung đội ngũ cán bộ trẻ có năng lực, tạo nguồn nhân lực cho các chức danh chủ chốt của xã.
Việc bổ nhiệm và giới thiệu cán bộ ứng cử cần thực hiện nghiêm túc quy trình và thủ tục, đồng thời phát huy dân chủ và đề cao thẩm quyền của người đứng đầu Cần chú trọng lấy phiếu tín nhiệm trong cơ quan để đảm bảo tính dân chủ, với việc thẩm định và đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ trước khi lấy phiếu Thời gian qua, công tác này đã được Ban Thường vụ Huyện ủy lãnh đạo chặt chẽ, đảm bảo đúng quy định, và hầu hết các cán bộ được đề bạt đều hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Công tác quy hoạch cán bộ được thực hiện đúng nguyên tắc và quy trình, mở rộng dân chủ trong việc phát hiện và giới thiệu nguồn nhân lực Quy hoạch cần có cơ cấu hợp lý, đảm bảo số lượng, tiêu chuẩn và độ tuổi, đồng thời linh hoạt và mở để tạo điều kiện cho cán bộ trẻ và nữ tham gia Hàng năm, việc điều chỉnh và bổ sung quy hoạch cán bộ được thực hiện chủ động, nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực cho đại hội và đáp ứng nhu cầu phát sinh.
Việc luân chuyển cán bộ cần xác định rõ mục đích và yêu cầu nhiệm vụ, từ đó xây dựng kế hoạch phù hợp, chú trọng vào việc luân chuyển cán bộ trẻ có triển vọng Đồng thời, cần xác định địa bàn để bố trí cán bộ sao cho tương xứng với nhiệm vụ và phù hợp với trình độ, năng lực của họ Công tác này đang dần đi vào nề nếp, giúp xoá bỏ quan điểm cục bộ khép kín trong các đơn vị, địa phương, khuyến khích việc tiếp nhận cán bộ từ nơi khác.
Năm 2015, Ban Thường vụ Huyện ủy đã điều động, bổ nhiệm 21 cán bộ, trong đó có 06 đồng chí được đề nghị điều động và bổ nhiệm bởi Ủy ban nhân dân Huyện Cụ thể, có 05 đồng chí từ xã về Huyện, 04 đồng chí từ Huyện về xã, 07 đồng chí giữa các ngành trong Huyện, 01 đồng chí giữa các xã và 04 đồng chí được bổ nhiệm tại chỗ Một đồng chí đã thôi giữ chức Trưởng Ban Dân vận Huyện ủy để đảm nhiệm vị trí Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Huyện chuyên trách Hầu hết các cán bộ được điều động và bổ nhiệm đều phát huy tốt năng lực và hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được thực hiện nghiêm túc theo quy định của Điều lệ Đảng, tập trung vào các lĩnh vực nhạy cảm dễ phát sinh sai phạm Qua quá trình này, những ưu điểm được phát huy, đồng thời các thiếu sót và khuyết điểm được chỉ ra và xử lý nghiêm khắc Ngoài ra, các Uỷ viên Ban Thường vụ Huyện uỷ được phân công thực hiện giám sát thường xuyên đối với các cấp uỷ và tổ chức đảng trực thuộc.
Công tác đánh giá cán bộ được thực hiện nghiêm túc, tuân thủ các quy định và hướng dẫn từ cấp trên, với trọng tâm là tính xây dựng và vai trò của người đứng đầu Kết quả đánh giá là cơ sở cho các hoạt động khác trong công tác cán bộ, bao gồm nhận xét, quy hoạch, đào tạo, điều động, luân chuyển và bố trí cán bộ Đặc biệt, công tác đánh giá cán bộ phục vụ cho việc chuẩn bị nhân sự đại hội đảng các cấp trong Huyện, cũng như quy hoạch và sắp xếp cán bộ trước và sau đại hội từ cấp cơ sở đến cấp Huyện trong nhiệm kỳ 2015 – 2020 Việc phê duyệt nhân sự đại hội đảng cấp cơ sở và chuẩn bị nhân sự cho Đại hội Đảng bộ Huyện cũng được thực hiện chặt chẽ, bao gồm kết quả bầu cử cấp uỷ, ban thường vụ và các chức danh chủ chốt nhiệm kỳ 2015 - 2020.
Ban Thường vụ Huyện ủy thực hiện hiệu quả các chính sách và quy định liên quan đến cán bộ, tạo điều kiện thuận lợi để cán bộ phát huy năng lực và sở trường Đồng thời, huyện có kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, đảm bảo họ có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, từ đó thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị của huyện.
Triển khai quán triệt và lãnh đạo trong công tác cán bộ đã tạo ra sự chuyển biến tích cực về nhận thức và hành động của các cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ Các khâu yếu như tuyển chọn, đánh giá, quy hoạch và đào tạo dần được khắc phục, nâng cao chất lượng cấp uỷ và cán bộ lãnh đạo Lãnh đạo tích cực trong công tác quy hoạch cán bộ đã giúp đồng bộ hóa các khâu trong công tác cán bộ, gắn liền quy hoạch với đào tạo và thẩm định chính trị Công tác điều động, luân chuyển, bổ nhiệm và tuyển dụng được thực hiện chặt chẽ, đúng quy trình và phù hợp với điều kiện thực tế của từng đơn vị.
Quan điểm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
3.1.1 Quán triển quan điểm của Đảng, quy định của Nhà nước về công tác cán bộ trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
Chất lượng cán bộ được đánh giá qua các yêu cầu về phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn và năng lực lãnh đạo Việc xác định tiêu chuẩn cán bộ là cần thiết để lựa chọn, quy hoạch, đào tạo và bổ nhiệm cán bộ, đồng thời khuyến khích mỗi cán bộ nâng cao trình độ và năng lực công tác Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở cần tiếp tục quán triệt và thực hiện hiệu quả các quan điểm, mục tiêu của Đảng về công tác cán bộ Trong giai đoạn hiện nay, việc đào tạo, đánh giá và bổ nhiệm cán bộ phải gắn liền với thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI và XII) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI) nhấn mạnh vai trò quan trọng của cán bộ trong việc xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức Cuộc vận động chỉnh đốn Đảng cần tiếp tục được đẩy mạnh, khắc phục tư tưởng bảo thủ, phát huy nhân tố tích cực và khơi dậy tinh thần tiên phong trong đội ngũ cán bộ Đội ngũ cán bộ cần có đủ năng lực, phẩm chất và đạo đức, với lối sống lành mạnh và trách nhiệm cao trong công việc, phục vụ nhân dân tận tình Cần chống lại thái độ bàng quan, tham nhũng và lợi dụng chức vụ Việc sắp xếp và đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cũng rất quan trọng để đảm bảo cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nhận thức rõ về nguy cơ và nhận diện chính xác các biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống, cũng như hiện tượng "tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" trong nội bộ là rất quan trọng Cần kiên quyết khắc phục những yếu kém trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quản lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức, trách nhiệm và năng lực cao Họ phải có động cơ đúng đắn, thực sự tiên phong, gương mẫu, luôn đặt lợi ích tập thể, quốc gia và dân tộc lên trên lợi ích cá nhân, để thực sự trở thành cán bộ phục vụ nhân dân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ tại hệ thống chính trị cấp cơ sở cần gắn liền với việc học tập và thực hiện tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh Đây là nhiệm vụ thường xuyên của các tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội, nhằm chống lại sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống Cần kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, chủ nghĩa cá nhân, và các biểu hiện tiêu cực như lối sống cơ hội và bè phái.
Lợi ích nhóm và việc nói không đi đôi với làm là vấn đề cần được chú trọng Để xây dựng một đội ngũ cán bộ hiệu quả, cần kết hợp chặt chẽ với việc nâng cao đạo đức cách mạng, đồng thời khắc phục hiệu quả các biểu hiện tiêu cực trong đạo đức và lối sống.
Kiên quyết thực hiện với quyết tâm chính trị cao, phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và nhân dân Cán bộ lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là cán bộ chủ chốt và người đứng đầu các cấp, cần đóng vai trò nòng cốt trong việc thực hiện đồng bộ các giải pháp để ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong công tác cán bộ một cách hiệu quả.
3.1.2 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ gắn liền với đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay
Hệ thống chính trị ở Việt Nam được hình thành từ các tổ chức và thiết chế, đóng vai trò chủ yếu trong việc đưa ra các quyết định chính trị gắn liền với quyền lực của nhân dân Hệ thống này được tổ chức nhằm thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn do nhân dân ủy quyền, là phương thức quan trọng để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức và lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản Việt Nam, đóng vai trò then chốt trong việc xác định đường lối và chính sách cán bộ Đảng đảm bảo lựa chọn và bố trí cán bộ đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội Cán bộ chủ chốt, được bầu ra hoặc bổ nhiệm, đảm nhận vai trò lãnh đạo toàn diện, có trách nhiệm giải quyết các vấn đề và chịu trách nhiệm trước tổ chức Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Công tác cán bộ, đặc biệt là việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới hệ thống chính trị, và đây là vấn đề nguyên tắc cần được chú trọng ở tất cả các cấp.
Cấp cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị, nơi diễn ra mọi hoạt động của đời sống xã hội Đội ngũ cán bộ chủ chốt tại đây đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước, đồng thời tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân và phát huy quyền làm chủ của nhân dân Trong bối cảnh hiện nay, khi cả nước đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát triển nông nghiệp, nông thôn, việc xác định chức danh cán bộ chủ chốt cần dựa vào vai trò, cơ chế hoạt động, chức năng và nhiệm vụ của tổ chức trong hệ thống chính trị Bên cạnh đó, cần xem xét tính chất công việc và các chức danh cán bộ chủ chốt trong từng lĩnh vực cụ thể, vì một cán bộ có thể là chủ chốt ở cấp này nhưng không phải ở cấp khác.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở là cần thiết để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, phù hợp với thực tiễn chính trị của từng địa phương HTCT cơ sở đóng vai trò quan trọng trong việc triển khai và thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng, do đó, chất lượng và khả năng hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ này phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo, quản lý và điều hành của cán bộ chủ chốt Do đó, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt phải dựa trên yêu cầu thực hiện nhiệm vụ của HTCT ở cơ sở.
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt là điều kiện thiết yếu để đổi mới và cải thiện hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở Một hệ thống chính trị hoàn thiện sẽ thúc đẩy cán bộ làm việc hiệu quả hơn, từ đó phát huy tài năng, sáng tạo và nâng cao năng lực lãnh đạo Hệ thống hoạt động hiệu quả sẽ ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, giúp cán bộ chuẩn mực hơn và loại bỏ dần những người không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ Ngược lại, nếu hệ thống chính trị cơ sở yếu kém, cán bộ sẽ không có cơ hội thể hiện năng lực Vì vậy, việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cần gắn liền với quá trình đổi mới hệ thống chính trị cơ sở.
3.1.3 Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị ở cơ sở phải đảm bảo tính đồng bộ
Sự đồng bộ trong công tác cán bộ là yếu tố quan trọng để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp cơ sở Điều này bao gồm sự đồng bộ giữa chính sách, phương pháp làm việc, đạo đức, tác phong, trình độ và năng lực của cán bộ Các chính sách về tuyển dụng, bố trí, sử dụng, luân chuyển và chế độ đãi ngộ cũng cần phải thống nhất Việc thực hiện các chính sách này phải tôn trọng tinh thần dân chủ, trách nhiệm và bình đẳng Do đó, các cấp ủy đảng cần lãnh đạo chặt chẽ công tác cán bộ, quản lý đội ngũ theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị để xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh.
Hiện nay, cán bộ cấp cơ sở gặp nhiều bất cập về cơ cấu, độ tuổi, giới tính và trình độ Công tác cán bộ thiếu sự đồng bộ, với tình trạng đào tạo, tuyển dụng và bố trí còn mang tính chắp vá và giải pháp tức thời, thiếu chiến lược lâu dài Nhiều địa phương gặp khó khăn trong việc bố trí cán bộ đúng chuyên môn do nguồn nhân lực hạn chế, dẫn đến việc cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt
bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp trong giai đoạn hiện nay
3.2.1 Nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng huyện Hồng Ngự trong xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở
Sức mạnh của Đảng nằm ở mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, trong đó cán bộ đóng vai trò cầu nối quan trọng Các tổ chức chính trị - xã hội không chỉ kết nối Đảng với quần chúng mà còn hỗ trợ chính quyền Hệ thống chính trị cơ sở có vai trò thiết yếu trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, đồng thời tăng cường đại đoàn kết và phát huy quyền làm chủ của dân Đội ngũ cán bộ chủ chốt tại cơ sở là những người gần gũi nhất với nhân dân, có nhiệm vụ lãnh đạo và huy động nguồn lực để đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Do đó, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ này là yêu cầu cấp thiết, đòi hỏi sự nâng cao trách nhiệm từ các cấp ủy Đảng, chính quyền và các đoàn thể quần chúng Để xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt hiệu quả tại huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, cần thực hiện tốt các giải pháp nhằm nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp lãnh đạo.
Quán triệt nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ là rất quan trọng Cần phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc giám sát và quản lý cán bộ Đồng thời, giáo dục và rèn luyện đội ngũ cán bộ là cần thiết để xây dựng một đội ngũ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và công tác cán bộ là cần thiết Cần cụ thể hóa nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu Để tạo chuyển biến sâu sắc, cần nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo quy hoạch và chức danh, coi đây là giải pháp quan trọng trong chiến lược cán bộ Tăng cường công tác giáo dục và quản lý cán bộ gắn liền với kiểm tra, giám sát về chất lượng và hiệu quả công việc Cần hoàn thiện quy định về quyền hạn và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong giáo dục, quản lý cán bộ, đồng thời gắn xây dựng đội ngũ cán bộ với việc thực hiện tốt các nghị quyết của Trung ương và Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
Nâng cao nhận thức trong Đảng về vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở là rất quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới Điều này khẳng định quyết tâm của các cấp ủy trong công tác quy hoạch, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ Các cấp ủy, tổ chức Đảng cần nhận thức rõ hơn và đề cao trách nhiệm trong công tác này, coi đó là những khâu quan trọng để xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất đạo đức, năng lực và trí tuệ, phục vụ tốt hơn cho sự phát triển của cơ sở.
Các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận thức rõ vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ chủ chốt cơ sở trong việc phát triển kinh tế, xã hội, cũng như đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội Việc nâng cao chất lượng đội ngũ này là cần thiết để đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững của địa phương.
Các cấp ủy Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị cần đổi mới phương thức hoạt động để phát hiện và giới thiệu cán bộ tốt vào quy hoạch Cần quán triệt và thực hiện nghiêm Quyết định số 217-QĐ/TW và 218-QĐ/TW của Bộ Chính trị về giám sát và phản biện xã hội cũng như công tác cán bộ Huyện ủy Hồng Ngự cần tổ chức hướng dẫn các cấp ủy cơ sở và Mặt trận Tổ quốc thực hiện các quy định này, đặc biệt chú trọng đến vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội đối với hoạt động của cán bộ.
Thứ hai: phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần chúng trong quản lý, giám sát cán bộ
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội cần định kỳ nâng cao nhận thức cho đoàn viên, hội viên về Quy định số 76-QĐ/TW ngày 15/6/2000 của Bộ Chính trị Quy định này yêu cầu đảng viên đang công tác ở cơ quan, doanh nghiệp và đơn vị sự nghiệp phải duy trì mối liên hệ với chi ủy, đảng ủy cơ sở và gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân tại nơi cư trú Qua đó, đoàn viên và hội viên sẽ xác định trách nhiệm trong việc tham gia quản lý và giám sát cán bộ tại cộng đồng.
3.2.2 Nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị cơ sở huyện Hồng Ngự, ti ̉nh Đồng Tháp
Chất lượng công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ là yếu tố quyết định đến năng lực và hiệu quả công việc của đội ngũ cán bộ, công chức Đảng ta nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này trong việc hình thành đội ngũ cán bộ có tư duy mới, kiến thức vững vàng và phẩm chất đạo đức tốt Đào tạo và bồi dưỡng cán bộ không chỉ là nhiệm vụ quan trọng mà còn là điều kiện cần thiết để thực hiện quy hoạch, sử dụng và luân chuyển cán bộ trong hệ thống chính trị cơ sở Để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chủ chốt, cần phải dựa vào thực tiễn tại huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp và thực hiện các giải pháp hiệu quả.
Để nâng cao chất lượng nguồn cán bộ ở xã, cần tuyển chọn những cán bộ, công chức có trình độ đại học và năng lực công tác tốt, đồng thời có triển vọng phát triển Huyện ủy Hồng Ngự cần thực hiện công tác đào tạo và bồi dưỡng dựa trên vị trí công tác và độ tuổi của cán bộ, từ đó xác định nội dung và hình thức đào tạo hợp lý.
Đối với cán bộ cấp cơ sở dưới 45 tuổi, cần tiến hành đào tạo và bổ sung những kiến thức còn thiếu, mặc dù đã đủ tiêu chuẩn về văn hóa Đối với cán bộ cấp cơ sở trên 50 tuổi, việc bồi dưỡng và cập nhật kiến thức chuyên môn là rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu công việc.
Đào tạo và bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ cấp cơ sở là cần thiết để chuẩn bị cho việc bổ sung và thay thế khi cần Đồng thời, cần chú trọng rèn luyện kỹ năng thực hành và khả năng giải quyết tình huống quản lý nhà nước cho các chức danh.
Hình thức đào tạo và bồi dưỡng cho cán bộ trẻ chủ yếu là tập trung, trong khi đó, đối với cán bộ trên 50 tuổi, hình thức bồi dưỡng ngắn ngày được áp dụng.
Để đạt được mục tiêu đào tạo cán bộ, các cơ sở đào tạo cần xác định rõ việc đào tạo và bồi dưỡng phù hợp với chuyên môn, đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị cơ sở Quan trọng là đào tạo đội ngũ cán bộ toàn diện với bản lĩnh chính trị vững vàng, trình độ lý luận cao, khả năng áp dụng lý luận vào thực tiễn, và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng cùng chính sách pháp luật của Nhà nước Họ cũng cần có kỹ năng nghiệp vụ tinh thông, nhạy bén với những vấn đề mới, phong cách làm việc gần gũi với nhân dân, biết lắng nghe và phục vụ tốt nhất cho cộng đồng.
KẾT LUẬN
Hệ thống chính trị cấp cơ sở hiện nay bao gồm Đảng, chính quyền, MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội, với cán bộ chủ chốt giữ vai trò quan trọng trong việc vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước Họ trực tiếp giải quyết yêu cầu của người dân, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân và phát huy tính tự quản của cộng đồng Trong những năm qua, cấp cơ sở đã có đóng góp lớn vào ổn định chính trị, đảm bảo an ninh - quốc phòng và phát triển kinh tế - xã hội Sự nghiệp đổi mới yêu cầu cải cách bộ máy nhà nước, trong đó phẩm chất và năng lực của đội ngũ cán bộ cấp cơ sở là yếu tố quyết định.
Xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị cấp cơ sở trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế là một nhiệm vụ cấp bách Để đạt được điều này, cần có cái nhìn toàn diện và chiến lược rõ ràng trong việc phát triển đội ngũ lãnh đạo, quản lý Đội ngũ này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh, và củng cố Đảng cũng như hệ thống chính trị tại địa phương.
Trong những năm qua, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp đã nâng cao hiệu quả công tác cán bộ thông qua việc đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chủ chốt Công tác quy hoạch, đào tạo, rèn luyện, đánh giá và bố trí cán bộ ngày càng được chú trọng, dẫn đến sự chuyển biến tích cực về trình độ, năng lực và kiến thức lãnh đạo Đội ngũ cán bộ đã thể hiện tính năng động, sáng tạo, và khả năng thích ứng với cơ chế mới, góp phần quan trọng vào sự phát triển của hệ thống chính trị cơ sở.
Mặc dù huyện Hồng Ngự đang trong giai đoạn phát triển, năng lực và trình độ của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở vẫn còn hạn chế Điều này không đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới và phát triển sản xuất quy mô lớn Thách thức này đòi hỏi phải có những giải pháp hợp lý nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt tại địa phương.
Để xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cơ sở đáp ứng yêu cầu đổi mới hệ thống chính trị tại huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp như: nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể; cải thiện chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; nâng cao quy hoạch, tuyển dụng, bố trí và luân chuyển cán bộ; đổi mới công tác kiểm tra, giám sát và đánh giá; cùng với việc thực hiện tốt các chế độ chính sách nhằm nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ Các giải pháp này cần được thực hiện đồng bộ, dựa trên quan điểm của Đảng và quy định của Nhà nước về công tác cán bộ, đồng thời phải thường xuyên điều chỉnh để phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ tư khóa XI, tập trung vào những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay Hội nghị này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc củng cố tổ chức Đảng và nâng cao năng lực lãnh đạo để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước Các giải pháp cụ thể đã được đề xuất nhằm tăng cường sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng, đồng thời cải thiện hiệu quả công tác quản lý và điều hành.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã tổ chức Hội nghị lần thứ tư khóa XII nhằm tăng cường xây dựng và chỉnh đốn Đảng, đồng thời ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống Hội nghị cũng tập trung vào việc xử lý các biểu hiện "tự diễn biến" và "tự chuyển hoá" trong nội bộ Đảng.
Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị 05-CT/TW nhằm thúc đẩy việc học tập và thực hiện tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh Chỉ thị này được ban hành bởi Bộ Chính trị và có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao nhận thức và hành động của cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng và phát triển đất nước.
[4] Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (2001), Công văn số 151 ngày 8/5,“Về việc góp ý đề án kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở
[5] GS.TS Hoàng Chí Bảo (2004), Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
Hà Văn Bình (2015) trong luận văn Thạc sĩ Chính trị học đã nghiên cứu về việc nâng cao năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở ở huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện năng lực lãnh đạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn hiện nay.
[7] Bộ Nội vụ (2004), Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV,“Về việc ban hành Quy định tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ xã, phường, thị trấn”
[8] Chính phủ (1995), Quyết định 07/ QĐ-UB ngày 15/10 Về củng cố tổ chức bộ máy làm việc của cấp xã, phường, thị trấn
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 92-NĐ/CP vào ngày 22 tháng 10 năm 2009, quy định về chức danh, số lượng và một số chế độ, chính sách dành cho cán bộ ở xã, phường, thị trấn, cũng như những người hoạt động không chuyên trách tại cấp xã.
[10] Chính phủ (2015), Nghị định số 56/2015/NĐ-CP ngày 09/6/2015 về đánh giá và phân loại cán bộ, công chức, viên chức
[11] Phạm Văn Chuẩn (2017), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp Huyện ở huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, luận văn Thạc sĩ chính trị học
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (1979), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá VI, NXB Sự thật, Hà Nội
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
[14] Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
[15] Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá X, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
[16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương đảng, Hà Nội
[18] Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp, Huyện ủy Hồng Ngự (2015), Báo cáo chính trị Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XI, nhiệm kỳ 2015 – 2020
Đảng bộ tỉnh Đồng Tháp và Huyện ủy Hồng Ngự đã thực hiện báo cáo tổng kết về Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII, tập trung vào Chiến lược cán bộ trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Hội đồng lý luận trung ương (2015) đã trình bày những vấn đề lý luận và thực tiễn mới trong tình hình hiện nay qua tập III, xuất bản bởi NXB Chính trị quốc gia - Sự thật Tài liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội trong bối cảnh chính trị và xã hội hiện đại.
[21] Phạm Công Khâm (2000), “Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã vùng đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”, Luận án tiến sĩ
[22] Bùi Đức Lại (2007), Cán bộ và công tác cán bộ trong tình hình mới, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 2+3
Lê Thị Hương Lan (2006) trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu việc áp dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ nhằm đổi mới phương thức lãnh đạo và phong cách làm việc của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở tại tỉnh Hưng Yên Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc nâng cao hiệu quả lãnh đạo và cải cách công tác của cán bộ địa phương.
[24] V.I Lênin (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[25] V.I Lênin (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[26] V.I Lênin (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[27] C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, NXB CTQG, Hà Nội
[28] C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, NXB CTQG, Hà Nội
[29] C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 5, NXB CTQG, Hà Nội
[30] TS Lê Chi Mai (2002), “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ chính quyền cơ sở - vấn đề và giải pháp”, Tạp chí Cộng sản, Số 20/2002
[31] Hồ Chí Minh(1995), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nộ
[32] Hồ Chí Minh(1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[33] Hồ Chí Minh(1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[34] Hà Quang Ngọc (2000), Góp phần xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Trong tác phẩm "55 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Lê Hữu Nghĩa và Nguyễn Văn Mạnh, xuất bản năm 2001, các tác giả đã phân tích sâu sắc quá trình hình thành và phát triển của nhà nước Việt Nam, nhấn mạnh vai trò của nhân dân trong việc xây dựng và củng cố nền tảng chính trị Cuốn sách không chỉ cung cấp những lý luận cơ bản mà còn đưa ra những thực tiễn cụ thể, giúp độc giả hiểu rõ hơn về sự phát triển của nhà nước vì lợi ích của nhân dân.
[36] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2003), Luật Tổ chức HĐND và UBND, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
[37] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2008), Luật Cán bộ, công chức
[38] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2015), Luật Tổ chức chính quyền địa phương
[39] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
Đỗ Hoài Thanh (2006) đã nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của Đảng bộ các tỉnh Tây Nam Bộ trong công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở từ năm 1997 đến 2005 Luận văn này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các chính sách và biện pháp được áp dụng để nâng cao năng lực lãnh đạo tại địa phương.
[41] Hồ Bá Thâm (1994) Nâng cao năng lực tư duy của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã hiện nay, Luận án Tiến sĩ Triết học
[42] Lê Quang Trung (2006), Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở vùng dân tộc, miền núi phía Bắc, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 8
Nguyễn Phú Trọng và Trần Xuân Sầm (đồng chủ biên) đã biên soạn cuốn sách "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước," xuất bản năm 2003 bởi Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Cuốn sách này tập trung vào việc nâng cao chất lượng cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
[44] Võ Xuân Trường (2016), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức xã phường ở thị xã Hồng Lĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, Luận văn thạc sĩ chính trị học
PGS.TS.Trần Xuân Sầm (2008) đã chủ biên nghiên cứu về việc xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị trong thời kỳ đổi mới Nghiên cứu này được xuất bản bởi Nhà xuất bản, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò và yêu cầu đối với cán bộ lãnh đạo trong bối cảnh phát triển đất nước.
Chính trị quốc gia, Hà Nội
Trần Trung Trực (2008) đã nghiên cứu về việc xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp xã tại huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng cán bộ trong giai đoạn hiện nay Luận văn Thạc sĩ của ông cung cấp những phân tích sâu sắc về các thách thức và giải pháp cần thiết để phát triển đội ngũ này, góp phần vào sự ổn định và phát triển của địa phương.
[47] Trần Nho Thìn (2001), Đổi mới tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
[48] Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.