NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
1.1 Khái quát về xây dựng nông thôn mới
1.1.1 Khái niệm nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới
Nông thôn là khu vực địa lý nơi cộng đồng sinh sống gắn bó chặt chẽ với việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường cùng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm chuẩn xác về nông thôn và còn có nhiều quan điểm khác nhau
Khi thảo luận về khái niệm nông thôn mới, người ta thường so sánh với đô thị, cho rằng nông thôn có mật độ dân số và số lượng dân cư thấp hơn thành phố Ngoài ra, một quan điểm khác cho rằng sự phát triển của kết cấu hạ tầng ở nông thôn không đạt bằng đô thị, điều này phản ánh sự chênh lệch trong mức độ phát triển giữa hai khu vực.
Một quan điểm khác cho rằng việc xác định vùng nông thôn nên dựa vào tiêu chí trình độ tiếp cận thị trường và phát triển hàng hóa Theo quan điểm này, vùng nông thôn có trình độ sản xuất hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn so với các khu vực đô thị.
Vùng nông thôn thường được định nghĩa là khu vực có dân cư chủ yếu làm nông nghiệp, với nguồn sinh kế chính từ hoạt động sản xuất nông nghiệp Tuy nhiên, quan điểm này chỉ đúng trong một số khía cạnh cụ thể và tùy thuộc vào từng quốc gia, dựa vào trình độ phát triển, cơ cấu kinh tế và các cơ chế áp dụng Do đó, khái niệm nông thôn mang tính tương đối và có thể thay đổi theo thời gian cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam cũng có thể hiểu rõ hơn về khái niệm này.
CƠ SỞ LƯ LUẬN VỀ CÔNG TÁC LĂNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
Khái quát về xây dựng nông thôn mới
1.1.1 Khái niệm nông thôn mới, xây dựng nông thôn mới
Nông thôn là khu vực địa lý nơi cộng đồng sinh sống gắn bó chặt chẽ với việc khai thác, sử dụng và bảo vệ môi trường cùng tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm chuẩn xác về nông thôn và còn có nhiều quan điểm khác nhau
Khi thảo luận về khái niệm nông thôn mới, người ta thường so sánh nông thôn với đô thị Một số ý kiến cho rằng nông thôn có mật độ dân số và số lượng cư dân thấp hơn thành phố Ngược lại, cũng có quan điểm cho rằng nông thôn kém phát triển hơn thành phố về kết cấu hạ tầng.
Một quan điểm khác cho rằng việc xác định vùng nông thôn nên dựa vào tiêu chí trình độ tiếp cận thị trường và phát triển hàng hóa Theo đó, vùng nông thôn thường có trình độ sản xuất hàng hóa và khả năng tiếp cận thị trường thấp hơn so với khu vực đô thị.
Một quan điểm cho rằng vùng nông thôn chủ yếu là nơi cư dân sống nhờ vào nông nghiệp, tuy nhiên, điều này chỉ đúng trong một số khía cạnh và quốc gia cụ thể, tùy thuộc vào trình độ phát triển và cơ cấu kinh tế Khái niệm nông thôn vì vậy mang tính tương đối và có thể thay đổi theo thời gian cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia Trong bối cảnh hiện tại, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về vùng nông thôn ở Việt Nam.
Nông thôn là khu vực nằm ngoài các thành phố, thị xã và thị trấn, được quản lý bởi Ủy ban nhân dân xã, là cấp hành chính cơ sở.
Nông thôn là một hệ thống xã hội đặc trưng, hoạt động như một cộng đồng nhỏ với đầy đủ các yếu tố và vấn đề xã hội Nó được xem như một cơ cấu xã hội phức tạp, trong đó các lĩnh vực và yếu tố có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Nông thôn mới được định nghĩa theo Thông tư số 54/TT-NNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, là vùng lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố, thị xã, thị trấn, và được quản lý bởi Ủy ban nhân dân xã Điều này nhấn mạnh rằng nông thôn mới phải là nông thôn, không phải là thị tứ, và có sự khác biệt so với nông thôn truyền thống Nông thôn mới không chỉ kế thừa chức năng lịch sử của nông thôn, nơi nông dân quần tụ và chủ yếu làm nông nghiệp, mà còn bao hàm các cơ cấu và chức năng mới, phản ánh sự phát triển và chuyển mình của khu vực nông thôn trong bối cảnh hiện đại.
Theo Nghị quyết 26-NQ/TW ngày 05/8/2008, mục tiêu xây dựng nông thôn mới bao gồm phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, kết nối nông nghiệp với công nghiệp và dịch vụ Nông thôn cần có sự ổn định xã hội, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí và bảo vệ môi trường sinh thái Hệ thống chính trị ở nông thôn cũng cần được củng cố dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Nông thôn mới bao gồm năm nội dung cơ bản: Thứ nhất, xây dựng làng xã văn minh, sạch đẹp với hạ tầng hiện đại; thứ hai, phát triển sản xuất bền vững theo hướng hàng hóa; thứ ba, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; thứ tư, gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc; và thứ năm, quản lý xã hội nông thôn một cách tốt và dân chủ.
Nông thôn mới đóng vai trò quan trọng trong chức năng sinh thái, giúp duy trì mối quan hệ tự nhiên giữa con người và thiên nhiên Trong khi sản xuất công nghiệp có thể phá vỡ sự cân bằng này, sản xuất nông nghiệp lại hỗ trợ hệ thống sinh thái, giữ cho con người gần gũi với môi trường tự nhiên Do đó, việc xây dựng nông thôn mới cần hạn chế tình trạng gạch hóa, bê tông hóa và phố hóa các làng quê truyền thống.
Xây dựng nông thôn mới tại Việt Nam đã có lịch sử lâu dài, với sự chuyển mình từ các mô hình nông thôn ở cấp huyện và thôn sang cấp xã Sự khác biệt giữa xây dựng nông thôn trước đây và nông thôn mới hiện nay nằm ở nhiều khía cạnh quan trọng, bao gồm phương pháp tiếp cận, quy mô và mục tiêu phát triển bền vững.
Thứ nhất, xây dựng nông thôn mới là xây dựng nông thôn theo tiêu chí chung cả nước được định trước
Thứ hai, xây dựng nông thôn địa bàn cấp xã trong phạm vi cả nước
Thứ ba, cộng đồng dân cư là chủ thể của xây dựng nông thôn mới, người nông dân tự xây dựng
Thứ tư, đây là một chương trình khung, gồm 19 tiêu chí[30, tr.42]
1.1.2.Quan điểm của Đảng về xây dựng nông thôn mới Đại hội X của Đảng khẳng định phát triển nông nghiệp, nông thôn là sự lựa chọn bước đi đúng đắn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời Đảng ta chủ trương đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Phải phát triển toàn diện nông nghiệp, chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường; thực hiện cơ khí hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng địa phương Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn và thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới; xây dựng các làng, xã, thôn, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh; hình thành các khu dân cư đô thị hoá với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ Phát huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hoá, nâng cao trình độ dân trí; chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm trong và ngoài khu vực nông thôn, kể cả ở nước ngoài” [44, tr.29-30]
Nghị quyết số 26-NQ/TW, được ban hành vào ngày 05 tháng 8 năm 2008, khẳng định vai trò quan trọng của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Để phát triển nông nghiệp và nâng cao đời sống nông dân, cần áp dụng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với từng vùng miền Giải quyết các vấn đề liên quan đến nông nghiệp không chỉ là nhiệm vụ của nông dân mà còn là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội Xây dựng nông thôn mới bao gồm việc hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển cơ cấu kinh tế hợp lý, củng cố liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức, đồng thời nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho cư dân nông thôn Mục tiêu là đào tạo nông dân có trình độ sản xuất cao, đủ khả năng làm chủ trong quá trình phát triển nông thôn mới.
Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ và phương thức xây dựng nông thôn mới trong bối cảnh hiện nay, phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước Quan điểm của Đảng nhấn mạnh việc kế thừa và phát huy những bài học lịch sử, nhằm phát huy sức mạnh toàn dân và huy động mọi nguồn lực để tạo ra sức mạnh tổng hợp cho quá trình xây dựng nông thôn mới.
Ngày 28 tháng 10 năm 2008, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP nhằm thực hiện đường lối của Đảng về nông nghiệp, nông dân và nông thôn Thủ tướng Chính phủ cũng đã phê duyệt Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới qua Quyết định số 491/QĐ-TTg vào ngày 16 tháng 4 năm 2009, và Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04 tháng 6 năm 2010.
Sự cần thiết phải nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong xây dựng nông thôn mới hiện nay
LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1 Khái quát về Đảng bộ huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre
2.1.1 Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của huyện Bình Đại
Huyện Bình Đại, một trong ba huyện ven biển của tỉnh Bến Tre, có diện tích tự nhiên 42.118,32ha, chiếm gần 18% tổng diện tích tỉnh Huyện nằm ở phía Đông giáp biển Đông, phía Tây giáp huyện Châu Thành, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang qua sông Cửa Đại, và phía Nam giáp huyện Giồng Trôm và Ba Tri qua sông Ba Lai Với bờ biển dài 27km, Bình Đại đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế ven biển của tỉnh.
Huyện Bình Đại đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ kinh tế - xã hội với thành phố Bến Tre, các huyện trong tỉnh và các huyện Tân Phú Đông, Gò Công Đông, Gò Công Tây, thị xã Gò Công (tỉnh Tiền Giang), cũng như thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long Mạng lưới giao thông bộ tại huyện có trục đường tỉnh 883 dài 49km, kết nối Bình Đại với huyện Châu Thành và thành phố Bến Tre, với các cầu trên đường được kiên cố hóa để thuận lợi cho việc lưu thông hàng hóa Khoảng cách từ huyện Bình Đại đến thành phố Hồ Chí Minh là 120km.
Huyện có hệ thống giao thông thủy thuận lợi với sông Cửa Đại, sông Ba Lai và mạng lưới kênh rạch phong phú Đường bờ biển dài 47km cùng với hệ thống đê biển đảm bảo an toàn Hệ thống thông tin liên lạc phát triển, với đường dây điện 110kV và trạm biến áp 110kV, đạt tỷ lệ hộ dân sử dụng điện lên tới 99,4%.
Huyện Bình Đại hiện có 7 nhà máy nước, trong đó nhà máy Long Định có công suất 60m³/giờ, phục vụ hơn 2.500 hộ dân tại các xã Long Định, Long Hòa, Châu Hưng và Phú Thuận Nhà máy Thới Lai có công suất 80m³/giờ, cung cấp nước cho trên 3.000 hộ dân tại Thới Lai, Vang Quới Tây và Vang Quới Đông.