1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện đô lương, tỉnh nghệ an trong giai đoạn hiện nay

95 24 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xây Dựng Đội Ngũ Cán Bộ Chủ Chốt Cấp Cơ Sở Ở Huyện Đô Lương, Tỉnh Nghệ An Trong Giai Đoạn Hiện Nay
Tác giả Nguyễn Thị Anh Quang
Người hướng dẫn PGS.TS Đinh Thế Định
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Chính trị học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2018
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 611,17 KB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (6)
  • B. NỘI DUNG (15)
  • CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ (15)
    • 1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài (15)
    • 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ (18)
    • 1.3. Các tiêu chí đánh giá chất lƣợng và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở (26)
  • CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN (41)
    • 2.1. Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An (41)
    • 2.2. Thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt và công tác xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An (49)
  • CHƯƠNG 3 QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN (66)
    • 3.1. Quan điểm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay (66)
    • 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An trong giai đoạn hiện nay (69)
    • C. KẾT LUẬN (90)
    • D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO (92)

Nội dung

NỘI DUNG

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG ĐỘI NGŨ

CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

1.1 Một số khái niệm liên quan đến đề tài

Cán bộ, theo Từ điển Tiếng Việt, được định nghĩa là những người thực hiện công tác chuyên môn và nghiệp vụ trong các cơ quan, đơn vị, Đảng và đoàn thể, đồng thời là những người có chức vụ trong tổ chức Đảng và Nhà nước.

Vào năm 2000, Nhà xuất bản Đà Nẵng thuộc Viện Ngôn ngữ học đã định nghĩa "cán bộ" như sau: Cán bộ là người thực hiện công tác nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan Nhà nước, bao gồm cán bộ Nhà nước, cán bộ khoa học và cán bộ chính trị Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là người có chức vụ trong một cơ quan hoặc tổ chức, khác với những người không có chức vụ.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ đóng vai trò quan trọng trong việc giải thích chính sách của Đảng và Chính phủ cho nhân dân, giúp họ hiểu và thực hiện hiệu quả Đồng thời, cán bộ cũng có trách nhiệm báo cáo tình hình của dân chúng để Đảng và Chính phủ có thông tin chính xác, từ đó xây dựng chính sách phù hợp.

Theo Điều 4 của Luật cán bộ, công chức năm 2008, "cán bộ" được định nghĩa là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, và các tổ chức chính trị - xã hội từ trung ương đến địa phương, với chế độ biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

"Cán bộ" được hiểu là những người giữ chức vụ trong tổ chức, được xác định thông qua quá trình bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm để thực hiện nhiệm vụ công vụ.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ

Một số khái niệm liên quan đến đề tài

Cán bộ được định nghĩa là người thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ trong các cơ quan, đơn vị, Đảng và đoàn thể, hoặc là người làm công tác tổ chức Đảng, Nhà nước có chức vụ.

Vào năm 2000, nhà xuất bản Đà Nẵng thuộc Viện Ngôn ngữ học đã định nghĩa khái niệm "cán bộ" như sau: cán bộ là người thực hiện công tác nghiệp vụ chuyên môn trong các cơ quan Nhà nước, bao gồm cán bộ Nhà nước, cán bộ khoa học và cán bộ chính trị Đồng thời, cán bộ cũng được hiểu là những người giữ chức vụ trong một cơ quan hoặc tổ chức, khác biệt với những người không có chức vụ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò quan trọng của cán bộ trong việc truyền đạt chính sách của Đảng và Chính phủ đến nhân dân, giúp họ hiểu và thực hiện đúng Đồng thời, cán bộ cũng cần báo cáo tình hình của nhân dân để Đảng và Chính phủ có thông tin chính xác, từ đó xây dựng chính sách phù hợp.

Theo Điều 4 của Luật cán bộ, công chức năm 2008, "cán bộ" được định nghĩa là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp từ Trung ương đến địa phương, hưởng lương từ ngân sách nhà nước.

"Cán bộ" là thuật ngữ chỉ những người có chức vụ được bầu cử, phê chuẩn hoặc bổ nhiệm, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ trang nhân dân Họ thuộc biên chế Nhà nước và nhận lương từ ngân sách nhà nước, đóng vai trò nòng cốt trong cơ quan, tổ chức, có khả năng tác động đến hoạt động và sự phát triển của đơn vị Cán bộ có thể là lãnh đạo, quản lý hoặc chuyên gia, công chức, viên chức, được hình thành từ quá trình bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm và phân công công tác.

1.1.2 Khái niệm cán bộ chủ chốt

Hiện nay, thuật ngữ "cán bộ chủ chốt" được hiểu theo nhiều cách khác nhau Theo Từ điển tiếng Việt, "chủ chốt" có nghĩa là "quan trọng nhất, có tác dụng làm nòng cốt".

Từ khái niệm “cán bộ” và khái niệm “chủ chốt”, có thể hiểu:

"Cán bộ chủ chốt" là những người lãnh đạo có trách nhiệm quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ quản lý và tổ chức, đảm bảo sự phù hợp với đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Họ đóng vai trò chủ chốt trong việc cụ thể hóa các chủ trương, hoạch định chiến lược phát triển và kiểm tra, giám sát tiến độ thực hiện nhiệm vụ Cán bộ chủ chốt cũng cần kịp thời điều chỉnh các giải pháp khi cần thiết và tổng kết, rút kinh nghiệm để nâng cao hiệu quả công việc.

"Cán bộ chủ chốt" là những người giữ chức vụ quan trọng, ảnh hưởng lớn đến hoạt động của tổ chức Họ có vai trò nòng cốt trong hệ thống bộ máy, đảm nhận các nhiệm vụ lãnh đạo, quản lý và điều hành Những cá nhân này tham gia định hướng và điều khiển hoạt động của bộ máy để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao, đồng thời chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp dưới về lĩnh vực công tác của mình.

Cán bộ chủ chốt là những người giữ vị trí quan trọng trong tổ chức, có ảnh hưởng lớn đến hoạt động và định hướng của bộ máy Việc xác định ai là cán bộ chủ chốt cần dựa vào chức vụ và trách nhiệm cụ thể của từng cá nhân, đồng thời xem xét mối quan hệ trong toàn bộ hệ thống tổ chức.

"Cán bộ chủ chốt" là những người lãnh đạo hàng đầu trong tổ chức quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong việc định hình vận mệnh của đất nước và dân tộc Tại Việt Nam, nhóm này được gọi là cán bộ lãnh đạo cao cấp, có ảnh hưởng quyết định đến các chính sách và hướng đi của quốc gia.

1.1.3 Khái niệm cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

Hiện nay, khái niệm cán bộ chủ chốt cấp cơ sở vẫn còn nhiều quan niệm khác nhau, nhưng nhìn chung, các quan điểm đều thống nhất rằng cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần phải đảm bảo một số yếu tố cơ bản.

Người lãnh đạo có vai trò quan trọng trong việc quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ được giao Họ chịu trách nhiệm trước tập thể và cấp trên về hiệu quả công việc trong vị trí của mình.

Cán bộ chủ chốt đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định chiến lược, xác định mục tiêu và đề ra các quyết định, chính sách cho đơn vị mình phụ trách Họ có trách nhiệm tổ chức, động viên thực hiện nhiệm vụ, kiểm tra và giám sát để kịp thời điều chỉnh những sai lệch Bên cạnh đó, họ cũng cần rút kinh nghiệm từ thực tiễn để phát triển lý luận và xác định các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp hơn qua các giai đoạn phát triển Do đó, cán bộ chủ chốt tương đương với người lãnh đạo cấp trưởng, có ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động của tổ chức.

Cán bộ chủ chốt cấp xã là những người đứng đầu tổ chức Đảng, chính quyền và các đoàn thể tại xã, phường, thị trấn Mỗi cán bộ này gắn liền với một tổ chức và chức danh cụ thể, đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị địa phương Họ có ảnh hưởng lớn đến việc thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng cũng như chính sách, pháp luật của Nhà nước thông qua việc lãnh đạo và tổ chức các nhiệm vụ kinh tế.

- xã hội trên địa bàn mà họ phụ trách

Đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở bao gồm những lãnh đạo trực tiếp chịu trách nhiệm tại địa phương, với 11 chức danh quan trọng như: Bí thư, Phó bí thư Đảng ủy; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân; Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc; Chủ tịch Hội Phụ nữ; Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội nông dân; và Bí thư Đoàn thanh niên.

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ

1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ

Lịch sử cho thấy rằng, để giành và duy trì quyền lực, mỗi chính đảng đại diện cho một giai cấp cần phải xây dựng một đội ngũ cán bộ mạnh mẽ với đủ phẩm chất và năng lực C.Mác đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc này trong việc thực hiện thành công nhiệm vụ cách mạng của giai cấp mình.

“Muốn thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn” [26, tr.181]

V.I.Lênin, người kế tục xuất sắc sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen đã tổng kết rằng: “Trong lịch sử chƣa hề có một giai cấp nào giành đƣợc quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra đƣợc trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào” [25, tr.473] Ngay từ những ngày đầu thành lập Đảng, V.I.Lênin đã rất coi trọng công tác cán bộ, người đã cho mở các trường đào tạo cán bộ và chính người đã trực tiếp giảng dạy bài ở các trường, lớp đó

Sau khi giành được chính quyền, Đảng cần quản lý đất nước, do đó việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo chủ chốt, là mối quan tâm hàng đầu của V.I Lênin Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu con người và tìm kiếm những cán bộ có bản lĩnh, khẳng định rằng đây là yếu tố then chốt; nếu không có, mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là giấy tờ vô nghĩa.

1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ

Ngay từ những năm đầu giành chính quyền, Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ trong tác phẩm “Sửa đổi lề lối làm việc” Ông định nghĩa cán bộ là những người giải thích chính sách của Đảng và Chính phủ cho dân, đồng thời báo cáo tình hình dân chúng để Đảng và Chính phủ có chính sách đúng đắn Hồ Chí Minh khẳng định rằng “cán bộ là gốc của mọi công việc”, và sự thành công hay thất bại của công việc đều phụ thuộc vào chất lượng cán bộ.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cán bộ là "tiền vốn của Đảng," và thành công trong mọi chính sách phụ thuộc vào chất lượng cán bộ Để lựa chọn cán bộ, cần đảm bảo các tiêu chuẩn như trung thành, gắn bó với nhân dân, có khả năng giải quyết vấn đề và tuân thủ kỷ luật Người khẳng định rằng Đảng cần nuôi dạy cán bộ như người làm vườn chăm sóc cây quý, coi trọng nhân tài và những người có ích cho công việc Việc sử dụng cán bộ đòi hỏi sự hiểu biết, cân nhắc kỹ lưỡng, phân phối hợp lý và hỗ trợ đúng cách để giữ gìn và phát huy năng lực của họ.

Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của chính sách cán bộ trong Đảng, với sự đa dạng về tầng lớp xã hội, trình độ văn hóa và tính cách cá nhân của hàng triệu thành viên và cán bộ Ông cho rằng việc đối đãi công bằng và đúng mực với từng người là một vấn đề thiết yếu trong việc xây dựng và phát triển Đảng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng cấp xã là gần gũi nhất với nhân dân và là nền tảng của hành chính, do đó, vai trò của cán bộ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, rất quan trọng Họ quyết định sự thành công hay thất bại của các công việc địa phương và là người thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân Hồ Chí Minh khẳng định rằng cán bộ các cấp đều có vị trí quan trọng và liên kết chặt chẽ trong tổ chức của Đảng Trong khi cán bộ lãnh đạo cấp Trung ương có trách nhiệm hoạch định chính sách, thì cán bộ cấp cơ sở phải xây dựng tổ chức đảng và hệ thống chính trị vững mạnh, đồng thời trực tiếp lãnh đạo nhân dân thực hiện các đường lối của Đảng Sự thành công của sự nghiệp cách mạng phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ này, những người gần dân, trực tiếp và đảm nhiệm nhiều công việc.

Việc xem xét vị trí và vai trò của người cán bộ theo quan điểm của Hồ Chí Minh cần phải được hiểu trong mối quan hệ biện chứng giữa chủ thể và đối tượng Người cán bộ không chỉ là người lãnh đạo và điều hành mà còn là đối tượng và lực lượng tổ chức thực hiện nhiệm vụ, đồng thời phải gắn bó chặt chẽ với quần chúng nhân dân.

Hồ Chí Minh khẳng định vị trí và vai trò của cán bộ trong công tác xây dựng Đảng, nhấn mạnh tầm quan trọng của công tác cán bộ liên quan đến đường lối, chính sách và nhiệm vụ chính trị Công tác cán bộ nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ đủ số lượng và chất lượng, với lập trường chính trị vững vàng, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đất nước Người yêu cầu giai cấp vô sản và chính đảng phải đào tạo đội ngũ cán bộ trung thành, chuyên nghiệp và tận tâm với dân, có phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức Hồ Chí Minh không chỉ đề ra yêu cầu mà còn thực hiện công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ từ những năm 1925, khi Người mở các lớp huấn luyện cho cách mạng.

Khi trở thành Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến vấn đề cán bộ và công tác cán bộ Ông quan tâm đến việc đào tạo cán bộ, cách sử dụng cán bộ hiệu quả và những tiêu chuẩn cần thiết mà cán bộ phải có.

Hồ Chí Minh đã trình bày nhiều quan điểm trong các bài nói và viết của mình tại các lớp chỉnh huấn, áp dụng cho nhiều cấp, ngành và lĩnh vực, điều này đã tạo thành nền tảng lý luận chính trị quan trọng cho công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước.

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cán bộ được coi trọng và đề cao, xem đây là nhiệm vụ chiến lược trong quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng của Đảng và đất nước.

1.2.3 Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của cán bộ và công tác cán bộ

Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị đã ban hành nhiều nghị quyết quan trọng liên quan đến công tác cán bộ, bao gồm Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18/6/1997 về chiến lược cán bộ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 25/01/2002 về luân chuyển cán bộ lãnh đạo; và Nghị quyết số 42-NQ/TW ngày 30/11/2004 về quy hoạch cán bộ lãnh đạo Kết luận số 37-KL/TW ngày 02/02/2009 tiếp tục thúc đẩy chiến lược cán bộ, trong khi Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày 16/01/2012 và Kết luận số 24-KL/TW ngày 05/6/2012 của Bộ Chính trị khóa XI đề cập đến các vấn đề cấp bách trong xây dựng Đảng hiện nay.

Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục đẩy mạnh quy hoạch và luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý đến năm 2020 và những năm tiếp theo Đồng thời, cần thực hiện hiệu quả “Chiến lược cán bộ” trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Từ khi thành lập, Đảng ta luôn coi trọng vấn đề cán bộ, xem đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu Cán bộ được xác định là những người có trách nhiệm tuyên truyền và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách của Đảng Trong 80 năm qua, Đảng đã xây dựng một đội ngũ cán bộ đông đảo, trung thành với sự nghiệp cách mạng, nhiệt huyết và sáng tạo, từ đó có khả năng lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập và tự do cho Tổ quốc.

Các tiêu chí đánh giá chất lƣợng và nội dung xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

1.3.1 Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở

Tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ bao gồm các dấu hiệu, điều kiện và đặc trưng cần thiết, cùng với các chỉ số định tính và định lượng Những yếu tố này tạo thành căn cứ quan trọng để nhận biết và đánh giá thực tế chất lượng đội ngũ cán bộ.

Tiêu chuẩn cán bộ là cơ sở quan trọng để lựa chọn, quy hoạch, đào tạo và đánh giá cán bộ, giúp rà soát đội ngũ hiện có một cách khách quan Việc thiết lập tiêu chuẩn đúng đắn không chỉ giúp sắp xếp cán bộ phù hợp mà còn loại bỏ những cá nhân không đủ năng lực hoặc có biểu hiện thoái hóa Đồng thời, tiêu chuẩn này cũng tạo điều kiện cho từng cán bộ tự nỗ lực hoàn thiện bản thân, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ.

Việc xây dựng tiêu chuẩn cán bộ là một yêu cầu khách quan và lịch sử, phản ánh đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo và nhân dân thực hiện Tiêu chuẩn này không ngừng phát triển theo sự tiến bộ của cách mạng, nhưng trong mỗi giai đoạn lịch sử, nó vẫn giữ được tính ổn định tương đối, làm cơ sở cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng và Nhà nước.

Dựa trên quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về đánh giá cán bộ, cùng với qui chế và tiêu chuẩn đánh giá cán bộ, cũng như Luật cán bộ công chức, chúng ta có thể xác lập hệ tiêu chí cơ bản để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay.

Để đảm bảo đội ngũ cán bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ, cần có các yếu tố quan trọng như phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, trình độ, phong cách làm việc, sức khỏe và khả năng hoàn thành công việc Những yếu tố này là dấu hiệu trực tiếp và quan trọng nhất để đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ.

Mối quan hệ của đội ngũ cán bộ với môi trường và điều kiện công tác, bao gồm đường lối, nhiệm vụ chính trị, tổ chức và chính sách, là yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng cán bộ hiện nay Con người hoạt động trong nhiều mối quan hệ, vừa là chủ thể vừa là đối tượng tác động Do đó, khi đánh giá cán bộ, cần xem xét các mối quan hệ chủ yếu của họ với cấp ủy, tổ chức đảng, đồng nghiệp và nhân dân, từ đó mới có thể đánh giá đúng thực chất năng lực của cán bộ.

Mức độ hoàn thành nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ là tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá chất lượng cán bộ hiện nay Tiêu chí này thể hiện tinh thần trách nhiệm của cán bộ đối với nhiệm vụ được giao, ảnh hưởng trực tiếp đến đảng viên và nhân dân Đánh giá này dựa trên số lượng công việc hoàn thành, thời gian và tốc độ thực hiện, cũng như khả năng vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ.

Sự tín nhiệm của cán bộ, đảng viên và nhân dân, thông qua các tổ chức chính trị và nơi ở của cán bộ, là yếu tố quan trọng trong việc đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay Đây là dấu hiệu cơ bản, không thể thiếu, cho thấy đội ngũ cán bộ có chất lượng tốt và được các cấp ủy, cơ quan tham mưu tin tưởng.

Để đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ một cách chính xác, cần xem xét các tiêu chí đánh giá có mối quan hệ biện chứng và thống nhất với nhau Việc đánh giá phải khách quan, toàn diện và phù hợp với bối cảnh lịch sử, kết hợp giữa định lượng và định tính Cần tổng hợp tất cả các yếu tố có thể đo đạc để làm rõ và đầy đủ chất lượng của đội ngũ cán bộ.

Chất lượng cán bộ là tiêu chí tổng hợp đánh giá về chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức, trình độ và năng lực giải quyết công việc Các yếu tố này được thể hiện cụ thể qua khả năng làm việc và hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ.

Cán bộ, đặc biệt là cán bộ chủ chốt cơ sở, phải luôn trung thành với lợi ích của Đảng, quốc gia, dân tộc và nhân dân, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cũng như các mục tiêu về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội Họ cần có lập trường vững vàng, không dao động trước khó khăn, quyết tâm bảo vệ Cương lĩnh và đường lối của Đảng, cùng với Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước Tinh thần yêu nước phải được thể hiện qua việc đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp của Đảng và hạnh phúc của nhân dân.

Để xây dựng uy tín trước nhân dân, cán bộ cần có phẩm chất đạo đức tốt, điều này càng trở nên cần thiết trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước Với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường và trình độ dân trí ngày càng cao, yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ cũng gia tăng Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh tầm quan trọng của phẩm chất đạo đức trong công tác cán bộ từ rất sớm, yêu cầu người cán bộ phải có đạo đức cách mạng, bao gồm các phẩm chất trí, tín, nhân, dũng, liêm Ông cũng nhắc nhở rằng việc thực hiện cần, kiệm, liêm, chính là cần thiết để tránh trở thành hủ bại, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước Nếu cán bộ thiếu phẩm chất đạo đức, chỉ chăm lo cho lợi ích cá nhân, sẽ gây tổn hại đến hoạt động của bộ máy và lòng tin của nhân dân.

Trình độ của cán bộ là yếu tố quan trọng, bao gồm học vấn, bằng cấp chuyên môn và lý luận chính trị, giúp họ có kiến thức về kinh tế - xã hội và khoa học - kỹ thuật Trước đây, do khó khăn kinh tế, nhiều cán bộ cấp cơ sở chưa được đào tạo đầy đủ, dẫn đến hạn chế trong năng lực quản lý và tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước, ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội địa phương Để đáp ứng yêu cầu phát triển, cán bộ chủ chốt cấp cơ sở cần được đào tạo chuyên môn và lý luận chính trị, hiểu biết sâu về lĩnh vực phụ trách, có kinh nghiệm thực tiễn, cùng với sự đam mê nghề nghiệp, ham học hỏi, và khả năng quyết định đúng đắn.

Năng lực là khái niệm đa dạng, phụ thuộc vào môi trường và vị thế của mỗi cá nhân, bao gồm các phẩm chất tâm lý giúp tiếp thu kiến thức và kỹ năng một cách hiệu quả Nó hình thành từ cả yếu tố tự nhiên và quá trình giáo dục, đào tạo, cùng với sự rèn luyện cá nhân Năng lực có nhiều cấp độ, từ khả năng trung bình đến tài năng xuất sắc, và không nên nhầm lẫn với sự thiếu hiểu biết Mỗi người có khả năng tiếp thu khác nhau, với năng lực giúp việc học hỏi trở nên dễ dàng hơn Nghiên cứu năng lực con người liên quan đến sức lực và tiềm năng trong lao động, thể hiện qua sự hiệu quả trong công việc với ít nỗ lực Năng lực được phân thành năng lực chung và chuyên môn, liên quan chặt chẽ với sở thích cá nhân Nó không chỉ xuất hiện trong lao động trí óc mà còn trong hoạt động thể lực, và phát triển qua quá trình hoạt động Đối với cán bộ chủ chốt cấp cơ sở, năng lực bao gồm phẩm chất đạo đức, kiến thức pháp luật, và khả năng giải quyết vấn đề một cách hiệu quả và hợp pháp, nhằm thực hiện nhiệm vụ chính trị và phát triển kinh tế tại địa phương.

Chất lượng cán bộ bao gồm phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực và tài năng, được hình thành qua quá trình rèn luyện và kinh nghiệm thực tiễn Mỗi cán bộ, bất kể cấp bậc, đều cần có tài năng và đức độ, vì thiếu một trong hai yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của tổ chức Đảng và Nhà nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng người có đức mà không có tài thì khó hoàn thành công việc, trong khi người có tài mà thiếu đức thì trở nên vô dụng Tuy nhiên, cần hiểu đúng về "đức"; không thể coi những người thiếu chính kiến, chỉ biết gật đầu là có đức, trong khi những người dám đấu tranh và phê bình sai trái lại bị xem là kiêu ngạo và thiếu đức.

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CHỦ CHỐT CẤP CƠ SỞ Ở HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN

Ngày đăng: 01/08/2021, 12:39

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1]. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (2002), Nghị quyết số 14-NQ/TU, về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý, Lưu Văn phòng Huyện ủy Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết số 14-NQ/TU, về luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý
Tác giả: Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An
Năm: 2002
[2]. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đô Lương (2010), Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII, Lưu Văn phòng Huyện ủy Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ XVII
Tác giả: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đô Lương
Năm: 2010
[3]. Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đô Lương (2015), Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII, Lưu Văn phòng Huyện ủy Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đảng bộ lần thứ XVIII
Tác giả: Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Đô Lương
Năm: 2015
[4]. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước (2000), Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính quyền cấp xã và quản lý nhà nước ở cấp xã
Tác giả: Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học Tổ chức Nhà nước
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2000
[5]. Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ (2001), Công văn số 151 ngày 8/5 Về việc góp ý đề án kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 5 Về việc góp ý đề án kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở
Tác giả: Ban Tổ chức Cán bộ Chính phủ
Năm: 2001
[7]. Nguyễn Khắc Bộ (2006),“Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 3) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực quản lý nhà nước của chính quyền cơ sở”, "Tạp chí Tổ chức nhà nước
Tác giả: Nguyễn Khắc Bộ
Năm: 2006
[9]. Phạm Xuân Cát (2006), “Hiệu quả và chất lƣợng lãnh đạo của cấp ủy cơ sở”, Tạp chí xây dựng Đảng, (số 10) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả và chất lƣợng lãnh đạo của cấp ủy cơ sở”," Tạp chí xây dựng Đảng
Tác giả: Phạm Xuân Cát
Năm: 2006
[11]. Đỗ Minh Cường (2009), Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quy hoạch cán bộ lãnh đạo, quản lý
Tác giả: Đỗ Minh Cường
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2009
[12]. Trần Nhật Duật (2016), "Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở Tây Bắc", Tạp chí Lý luận Chính trị, (số 12) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ chốt cấp xã trong xây dựng nông thôn mới ở Tây Bắc
Tác giả: Trần Nhật Duật
Năm: 2016
[13]. Nguyễn Việt Dũng (2015), Nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC cấp xã, thị trấn huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay
Tác giả: Nguyễn Việt Dũng
Năm: 2015
[14]. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba khóa VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba khóa VIII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 1996
[15]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2001
[16]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Hội nghị lần thứ 5, Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX)
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
[17]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2004), Văn kiện hội nghị lần thứ 9, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX),Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện hội nghị lần thứ 9, Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khoá IX)
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2004
[18]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2011
[19]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2011
[20]. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2016
[21]. Nguyễn Thị Hà (2013), Năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị Sách, tạp chí
Tiêu đề: Năng lực lãnh đạo của đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ sở ở tỉnh Thanh Hoá hiện nay
Tác giả: Nguyễn Thị Hà
Năm: 2013
[22]. Trần Đình Hoan (Chủ biên, 2009), Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ, lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước, Nxb chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đánh giá, quy hoạch, luân chuyển cán bộ, lãnh đạo, quản lý thời kỳ công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước
Nhà XB: Nxb chính trị Quốc gia
[23]. Trương Thiết Hùng (2015), Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở tỉnh Nghệ An hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Đại học Vinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị cấp cơ sở ở tỉnh Nghệ An hiện nay
Tác giả: Trương Thiết Hùng
Năm: 2015

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w