NỘI DUNG
Một số khái niệm
Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc, trong khi ở mỗi cấp, cơ quan lãnh đạo là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên Giữa hai kỳ đại hội, Ban Chấp hành Trung ương đóng vai trò là cơ quan lãnh đạo của Đảng, và tại mỗi cấp, cơ quan này được gọi là ban chấp hành đảng bộ hoặc chi bộ, thường được gọi tắt là cấp ủy.
Cấp ủy đảng là cơ quan lãnh đạo của Đảng tại mỗi cấp giữa hai kỳ đại hội, được bầu ra bởi đại hội cùng cấp Đây là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở, đại diện cho trí tuệ, năng lực và sức mạnh của đảng bộ, đồng thời là trung tâm của khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng và toàn dân.
Cấp ủy cóvai trò quan trọng quyết định các hoạt động của đảng bộ, chi bộ Vai trò đó thể hiện:
Cấp ủy là cơ quan lãnh đạo tập thể có nhiệm vụ quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết đại hội đại biểu cũng như các chỉ thị, nghị quyết từ cấp ủy cấp trên và cấp mình.
- Kiểm tra, đôn đốc các tổ chức đảng và đảng viên chấp hành nghiêm túc các chỉ thị, nghị quyết của Đảng
Lãnh đạo tổ chức đảng và đảng viên cần tuân thủ chặt chẽ các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đồng thời tập trung vào việc xây dựng nội bộ Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
- Lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội và các lĩnh vực khác trong đơn vị theo quy định của Đảng
Tập thể cấp ủy đảng có trách nhiệm và quyền hạn cụ thể tùy theo đặc điểm và phạm vi lãnh đạo, bao gồm việc quyết định các chủ trương và biện pháp để cụ thể hóa đường lối, tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội, và quản lý công tác cán bộ như bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng, và kỷ luật Họ cũng lãnh đạo công tác xây dựng Đảng, vận động quần chúng, định kỳ nghe báo cáo và chỉ đạo các cấp ủy trực thuộc về việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ, đồng thời báo cáo và thông tin tình hình cho các cấp ủy viên Tất cả nội dung này thường được cụ thể hóa thành quy chế làm việc phù hợp với từng cấp ủy.
Trong văn hóa Việt Nam, "nông thôn" được hiểu là làng, xóm, thôn, nơi tập trung sản xuất nông nghiệp chủ yếu với nghề trồng lúa nước truyền thống Đây không chỉ là không gian sống mà còn là môi trường xã hội và văn hóa, góp phần hình thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt.
Theo Từ điển tiếng Việt, khái niệm nông thôn đƣợc hiểu là “Khu vực dân cƣ tập trung chủ yếu làm nghề nông; phân biệt với thành thị” [41; tr.917]
Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nông thôn được định nghĩa là khu vực không nằm trong nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã, thị trấn và được quản lý bởi Ủy ban nhân dân xã.
Hiện nay, có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm NTM Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5/8/2008 đặt mục tiêu xây dựng NTM với hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý và gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị Mục tiêu cũng bao gồm việc duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí, bảo vệ môi trường sinh thái, và củng cố hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng Quyết định số 800-QĐ/TTg ngày 4/6/2010 phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010.
Mục tiêu năm 2020 là xây dựng nông thôn mới với hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, kết nối nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ Phát triển nông thôn cần gắn liền với đô thị theo quy hoạch, đảm bảo xã hội nông thôn dân chủ, ổn định và giàu bản sắc văn hóa Cần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ vững an ninh trật tự, đồng thời nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chương trình NTM tập trung vào năm nội dung cơ bản: Thứ nhất, xây dựng nông thôn với làng xã văn minh, sạch đẹp và hạ tầng hiện đại Thứ hai, phát triển sản xuất bền vững theo hướng hàng hóa Thứ ba, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân Thứ tư, giữ gìn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc Cuối cùng, quản lý xã hội nông thôn một cách tốt và dân chủ.
Nông thôn mới thực hiện chức năng sinh thái quan trọng, giúp duy trì mối quan hệ hài hòa giữa con người và thiên nhiên Trong khi sản xuất công nghiệp có thể phá vỡ mối quan hệ này, sản xuất nông nghiệp lại phục vụ cho hệ thống sinh thái, gắn kết con người với thiên nhiên Do đó, việc xây dựng nông thôn cần hạn chế gạch hóa, bê tông hóa và phố hóa các làng quê truyền thống Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển nông nghiệp bền vững, xây dựng nông thôn mới và cải thiện đời sống nông dân, phấn đấu đến năm 2020 đạt mục tiêu đề ra.
50% số xã đã đạt chuẩn nông thôn mới Cần rà soát và hoàn thiện cơ chế, chính sách cũng như tiêu chí xây dựng nông thôn mới phù hợp với đặc thù từng vùng Quy hoạch lại các điểm dân cư phân tán ở miền núi và vùng đồng bào dân tộc là cần thiết Ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước, tín dụng ưu đãi và huy động nguồn lực ngoài nhà nước để đầu tư vào hạ tầng kinh tế - xã hội Cần có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại và thu hút doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ tại khu vực nông thôn.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng
1.2.1 Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng
Tùy theo đặc điểm và phạm vi lãnh đạo ở từng cấp,tập thể cấp ủy đảng có trách nhiệm và quyền hạn cụ thể nhƣ:
Cấp ủy các cấp có trách nhiệm báo cáo về hoạt động của mình trước đại hội cùng cấp, cấp ủy cấp trên và cấp dưới Họ cũng phải định kỳ thông báo tình hình hoạt động đến các tổ chức đảng trực thuộc, đồng thời thực hiện tự phê bình và phê bình để nâng cao hiệu quả công tác.
Quyết định các chủ trương và biện pháp nhằm cụ thể hóa đường lối, đồng thời tổ chức chỉ đạo thực hiện các nghị quyết Đại hội Đại biểu ở mọi cấp và của cấp ủy các cấp.
Quyết định các chủ trương và biện pháp quan trọng liên quan đến công tác cán bộ, bao gồm việc bố trí, đề bạt, bổ nhiệm, khen thưởng và kỷ luật cán bộ thuộc diện quản lý của cấp ủy.
Lãnh đạo công tác xây dựng Đảng và chính quyền là nhiệm vụ thường xuyên, bao gồm việc vận động quần chúng Định kỳ, lãnh đạo sẽ nghe báo cáo và chỉ đạo các cấp ủy trực thuộc, các ban đảng, đảng đoàn, và ban cán sự đảng để đảm bảo việc thực hiện chức trách và nhiệm vụ, từ đó củng cố sự lãnh đạo của các cấp ủy trên mọi lĩnh vực hoạt động.
Cần thường xuyên báo cáo cho cấp trên và thông báo cho cấp dưới về tình hình chung và công việc của cấp ủy, đảm bảo thông tin tình hình trong và ngoài nước đến từng cấp ủy viên và các cấp ủy trực thuộc Những nội dung này thường được cụ thể hóa thành quy chế làm việc của cấp ủy ở từng cấp, phù hợp với đặc điểm và phạm vi lãnh đạo của mỗi cấp ủy đảng.
1.2.2 Chức năng của cấp ủy đảng Đảng ta là đội tiên phong chính trị của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Đồng thời, căn cứ vào vị trí, vai trò của cấp ủy đảng,chức năng chủ yếu của cấp ủy đảng là chức năng lãnh đạo và kiểm tra
Sự lãnh đạo của cấp ủy đảng được thể hiện qua việc cụ thể hóa và thể chế hóa Cương lĩnh chính trị, chiến lược kinh tế - xã hội, cũng như các nghị quyết và chính sách lớn của Đảng Để thực hiện tốt chức năng lãnh đạo, cấp ủy cần xác định nhiệm vụ chính trị của đảng bộ và chi bộ một cách sáng tạo, thiết thực, nhằm tạo ra sự chuyển biến tích cực trong việc thực hiện nghị quyết và chỉ thị của Đảng Cấp ủy đảng lãnh đạo chủ yếu thông qua tập thể, dân chủ, giáo dục thuyết phục và nêu gương Trong quá trình lãnh đạo, các cấp ủy cần chú ý khắc phục hai khuynh hướng tiêu cực: buông lỏng sự lãnh đạo và áp đặt thiếu dân chủ đối với tổ chức và đảng viên.
Kiểm tra là một chức năng lãnh đạo thiết yếu của Đảng và các cấp ủy đảng Đảng khẳng định rằng không có kiểm tra thì không thể coi là có lãnh đạo Do đó, lãnh đạo và kiểm tra được xem là hai chức năng cơ bản và quan trọng trong hoạt động của mỗi cấp ủy.
1.2.3 Nhiệm vụ của cấp ủy đảng
Tùy thuộc vào đặc điểm và phạm vi hoạt động, mỗi cấp ủy đảng sẽ có những nhiệm vụ cụ thể khác nhau Tuy nhiên, dựa trên chức năng và các nguyên tắc, Điều lệ của Đảng, các cấp ủy đảng đều có những nhiệm vụ chung quan trọng.
- Lãnh đạo các mặt công tác của đảng bộ trong thời gian giữahai kỳ Đại hội mà trọng tâm là lãnh đạo kinh tế
Quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc, cũng như các nghị quyết từ cấp trên và cấp cùng cấp, là nhiệm vụ quan trọng Việc vận dụng đường lối và chính sách của Đảng để xác định các chủ trương và nhiệm vụ chính trị cho đảng bộ cần phải được thực hiện một cách đúng đắn và sáng tạo.
Chăm sóc và xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức là nhiệm vụ quan trọng, đồng thời cần chú trọng phát triển đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất trong sạch và vững mạnh.
Xây dựng và thực hiện quy chế hoạt động của cấp ủy là yếu tố quan trọng để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị địa phương Điều này đảm bảo sự đoàn kết thống nhất, đặc biệt trong cấp ủy và ban thường vụ, từ đó chỉ đạo thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ do Đại hội Đảng đề ra.
- Chuẩn bị nội dung và kế hoạch tiến hành Đại hội quy định của Điều lệ Đảng và sự chỉ đạo của cấp trên.
Vai trò lãnh đạo của cấp ủy đảng trong xây dựng nông thôn mới
1.3.1.Cấp ủy đảng bám sát Cương lĩnh, nghị quyết của Đảng để lãnh đạo Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thểnhân dân các cấp thực hiệnxây dựng nông thôn mới
Việc cụ thể hóa kế hoạch và chương trình hành động xây dựng NTM ở cơ sở là nhiệm vụ quan trọng của cấp ủy và chính quyền địa phương Để thực hiện hiệu quả, cần có các văn bản lý luận như nghị quyết, chương trình, và kế hoạch cụ thể cho từng địa phương Mỗi khu vực có điều kiện tự nhiên, khí hậu, thổ nhưỡng, mật độ dân số và phong tục tập quán khác nhau, do đó, cấp ủy cần lãnh đạo và chỉ đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, và các đoàn thể cấp cơ sở cụ thể hóa chương trình hành động của cấp trên để phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
Để xây dựng nông thôn mới (NTM) hiệu quả, cần có nghị quyết và kế hoạch cụ thể cho từng lĩnh vực, đảm bảo phản ánh mục tiêu chung của quốc gia và phát huy thế mạnh địa phương Một kế hoạch NTM được coi là đúng đắn khi giải quyết mâu thuẫn địa phương, phù hợp với nhu cầu và nguyện vọng của người dân, tránh áp đặt chủ quan Nội dung quyết định xây dựng NTM phải dựa trên điều kiện kinh tế và lịch sử cụ thể của địa phương, đồng thời có sự độc lập và tác động trở lại với tình hình kinh tế - xã hội Nếu các quyết định phù hợp, sẽ tạo điều kiện cho sự phát triển ổn định của các quan hệ kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội; ngược lại, nếu không phù hợp, sẽ kìm hãm quá trình xây dựng NTM.
Nhằm thực hiện Nghị quyết 26-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, chúng ta cần tạo cơ sở vững chắc để thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn và phát triển nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X.
XI, XII của Ðảng Thời gian qua với vai trò, vị trí chính trị của mình Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân đã tích cực thực hiện Cương lĩnh, Nghị quyết của Đảng bằng cách ban hành hướng dẫn cụ thể và phát động nhiều phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM) từ Trung ương đến cơ sở Các phong trào nổi bật bao gồm "Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới" và "Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam khởi xướng, phong trào “Lao động giỏi - Lao động sáng tạo” của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cùng với phong trào “Nông dân thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau xóa đói, giảm nghèo và làm giàu chính đáng” của Hội Nông dân.
Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ với nhiều phong trào ý nghĩa như phong trào “Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” của Ðoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, phong trào “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, và phong trào “Nêu gương sáng, hiến công, hiến kế vì quê hương đất nước” của Hội Cựu chiến binh Việt Nam Ngoài ra, phong trào “Xây dựng xã hội học tập” của Hội Khuyến học Việt Nam và “Mỗi tổ chức, mỗi cá nhân gắn với một địa chỉ nhân đạo” của Hội Chữ Thập đỏ Việt Nam cũng đóng góp tích cực Các phong trào như “Vì nạn nhân chất độc da cam Việt Nam” của Hội Nạn nhân chất độc da cam/đi-ô-xin và “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, sống tốt đời - đẹp đạo” của Ủy ban Ðoàn kết Công giáo Việt Nam thể hiện tinh thần đoàn kết và trách nhiệm xã hội trong cộng đồng.
“Xây dựng chùa cảnh tinh tiến và tham gia các hoạt động nhân đạo từ thiện” của Giáo hội Phật giáo Việt Nam…
Dựa trên Cương lĩnh, chỉ thị và nghị quyết của Đảng cùng với hướng dẫn của Mặt trận Tổ quốc, các cấp ủy Đảng địa phương cần tích cực chỉ đạo Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội tham gia xây dựng NTM Việc này không chỉ mang lại hiệu quả thiết thực mà còn góp phần vào thành công chung của cả nước trong giai đoạn tiếp theo.
1.3.2 Lãnh đạo chính quyền xây dựng chương trình, kế hoạch và tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới
Xây dựng nông thôn mới (NTM) là mục tiêu cấp bách và yêu cầu thiết yếu cho phát triển bền vững, đóng vai trò chiến lược quan trọng trong sự nghiệp cách mạng của đất nước Cấp ủy đảng và chính quyền có trách nhiệm chỉ đạo và điều hành quá trình quy hoạch, xây dựng đề án, kế hoạch, cũng như tổ chức thực hiện các hoạt động liên quan.
Chính phủ đã thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020 theo Nghị quyết 26-NQ/TW, với Quyết định số 1013/QĐ-TTg ngày 01/7/2010, do Phó Thủ tướng Chính phủ làm Trưởng Ban Các địa phương, từ tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương đến các xã, cũng đã thành lập Ban chỉ đạo ở từng cấp để triển khai hiệu quả chương trình này.
Sau khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, quy chế hoạt động và kế hoạch triển khai đã được ban hành, cùng với việc phân công trách nhiệm cụ thể cho các thành viên Để thành công trong xây dựng nông thôn mới, cấp ủy các cấp cần cụ thể hóa tiêu chuẩn NTM vào chương trình, mục tiêu và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, dựa trên mục tiêu phát triển chung của trung ương và tỉnh Vai trò lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền trong quá trình này là rất quan trọng.
Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền có trách nhiệm ban hành quyết định và biện pháp thực hiện kế hoạch phát triển nông thôn mới hàng năm, dựa trên quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu Điều này bao gồm phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ, cũng như quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội - môi trường Đồng thời, cần phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có trên địa bàn.
Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền cần ban hành quyết định và biện pháp thực hiện chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến công, và chuyển đổi cơ cấu kinh tế tại địa phương theo quy hoạch xây dựng NTM Cần tập trung vào cơ giới hóa nông nghiệp, giảm tổn thất sau thu hoạch trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, và bảo tồn phát triển làng nghề truyền thống theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm” Đồng thời, phát triển ngành nghề theo thế mạnh địa phương, đẩy mạnh đào tạo nghề cho lao động nông thôn, và thúc đẩy công nghiệp vào nông thôn để giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn một cách nhanh chóng.
Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền có trách nhiệm ban hành quyết định về dự toán thu ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương, đồng thời phân bổ dự toán ngân sách cấp mình Họ cũng phê chuẩn quyết toán ngân sách của xã, triển khai các chủ trương và biện pháp thực hiện ngân sách xây dựng nông thôn mới (NTM), cũng như điều chỉnh dự toán ngân sách NTM theo quy định pháp luật.
Các cấp ủy lãnh đạo chính quyền triển khai các biện pháp phát triển văn hóa, văn nghệ và thể dục thể thao Họ hướng dẫn tổ chức lễ hội cổ truyền và bảo vệ, phát huy giá trị di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh theo tiêu chí NTM Đồng thời, quyết định xây dựng và tu sửa trường lớp, công trình văn hóa tại địa phương.
Các cấp ủy lãnh đạo, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể nhân dân đã ban hành quy định và biện pháp nhằm bảo đảm vệ sinh, xử lý rác thải, phòng chống dịch bệnh, và bảo vệ môi trường trong xã Đồng thời, các biện pháp thực hiện chương trình y tế cơ sở, chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng được triển khai phù hợp với tiêu chí xây dựng nông thôn mới (NTM).
Sự cần thiết tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng trong xây dựng nông thôn mới
1.4.1 Xuất phát từ chủ trương xây dựng nông thôn mới đúng đắn của Đảng và Nhà nước
Nông nghiệp, nông thôn và nông dân đóng vai trò quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển của quốc gia Việt Nam, đặc biệt trong cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa Nông dân luôn là lực lượng trung thành và hùng hậu, góp phần vào những trang sử vẻ vang của dân tộc Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết nhằm phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới (NTM) và nâng cao đời sống người nông dân, nổi bật là Nghị quyết số 26-NQ/TW tại Hội nghị Trung ương 7, khóa X, với nhiệm vụ xây dựng NTM.
Nghị quyết đặt mục tiêu cụ thể là đến năm 2015, 20% số xã trong cả nước đạt chuẩn nông thôn mới (NTM), và đến năm 2020, con số này sẽ tăng lên 50% trong tổng số 9.121 xã Tiêu chí đạt chuẩn NTM được quy định theo 19 tiêu chí do Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 491/QĐ-TTg vào ngày 16/4/2009.
Nông thôn mới được khái quát qua 5 nội dung cơ bản: đầu tiên, làng xã cần đạt tiêu chuẩn văn minh, sạch đẹp với hạ tầng hiện đại; thứ hai, phát triển sản xuất theo hướng bền vững và kinh tế hàng hóa; thứ ba, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân nông thôn; thứ tư, bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc; và cuối cùng, đảm bảo an ninh xã hội và quản lý dân chủ trong cộng đồng nông thôn.
Chính phủ đã ban hành Quyết định số 800 QĐ-TTg vào ngày 04/6/2010, thiết lập Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, dựa trên bộ tiêu chí quốc gia gồm 05 nhóm nội dung: quy hoạch, hạ tầng kinh tế - xã hội, kinh tế và tổ chức sản xuất, văn hóa - xã hội - môi trường, và hệ thống chính trị Quyết định này nêu rõ 19 tiêu chí và 7 nhóm giải pháp để thực hiện chương trình.
Chương trình xây dựng NTM là một phần quan trọng của Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, với 11 nội dung chính, tổng hợp từ 16 chương trình mục tiêu quốc gia và 14 chương trình hỗ trợ Đây là chương trình do nhân dân lựa chọn, tham gia thực hiện và trực tiếp hưởng lợi, mang lại lợi ích thiết thực cho cư dân nông thôn Chương trình không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà còn tác động tích cực đến chính trị và xã hội.
(chiếm khoảng 70% dân số cả nước), thông qua đó, chương trình sẽ điều hòa lợi ích, thành quả công cuộc đổi mới cho người dân khu vực nông thôn
Trong những năm đầu triển khai, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới (NTM) đã nhanh chóng trở thành phong trào toàn quốc, được xác định rõ trong nghị quyết của các cấp Đảng Ban Bí thư Trung ương khóa X đã chỉ đạo thí điểm mô hình NTM tại 11 xã điểm đại diện cho các vùng miền Bộ máy quản lý và điều hành chương trình đã được thiết lập từ Trung ương đến địa phương, với 25 loại văn bản hướng dẫn được ban hành Ủy ban Trung Ơng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã phát động phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” gắn với xây dựng NTM Ngày 08/6/2011, Thủ tướng Chính phủ đã phát động thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Trong những năm qua, phong trào xây dựng nông thôn mới (NTM) đã diễn ra sôi nổi trên toàn quốc, thu hút sự tham gia của cộng đồng và phát huy sức mạnh xã hội Ban Chỉ đạo Trung ương đã kế thừa kinh nghiệm từ 11 xã điểm, tập trung vào công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức về xây dựng NTM và quy hoạch xã Trong điều kiện nguồn lực hạn chế, các xã đã lựa chọn tiêu chí ưu tiên theo nhu cầu của người dân, khuyến khích các thôn, xóm tự thực hiện các công việc nhỏ Đặc biệt, phong trào đã chú trọng phát triển sản xuất, cơ giới hóa trong nông nghiệp và ứng dụng khoa học - công nghệ Nguồn vốn cho xây dựng NTM đã được huy động từ nhiều nguồn, bao gồm Nhà nước, ngân hàng, doanh nghiệp và sự đóng góp của người dân Đồng thời, công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn đã được quan tâm, cùng với việc nâng cao chất lượng giáo dục, y tế, văn hóa, và bảo vệ môi trường Phong trào thi đua cũng được phát động rộng rãi nhằm thúc đẩy sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân.
“Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”
Các cấp ủy đảng cần nâng cao vai trò và chức năng của mình để hiện thực hóa các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước, từ đó góp phần vào thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa mà Đảng đã đề ra.
1.4.2 Xuất phát từ những thành tựu và hạn chế trong xây dựng nông thôn mới những năm qua
Quá trình xây dựng nông thôn mới (NTM) đã đạt được nhiều thành tựu toàn diện, với hạ tầng kinh tế - xã hội cơ bản được cải thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thương và phát triển sản xuất Kinh tế nông thôn đang chuyển dịch theo hướng tăng cường tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, xuất hiện nhiều mô hình kinh tế hiệu quả gắn liền với NTM, từ đó nâng cao thu nhập và đời sống của người dân Hệ thống chính trị ở nông thôn được củng cố, dân chủ cơ sở được phát huy, an ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững, qua đó nâng cao vị thế của giai cấp nông dân Những thành tựu này đã góp phần thay đổi toàn diện bộ mặt nông thôn, tạo nền tảng vững chắc để tiếp tục cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân.
Các địa phương đã chú trọng thực hiện các nội dung trọng điểm và áp dụng nhiều cơ chế, chính sách linh hoạt để huy động nguồn lực cho chương trình Nhờ đó, tốc độ đạt tiêu chí của các xã tăng rõ rệt, hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống người dân được nâng cấp, góp phần đổi mới bộ mặt nông thôn và gia tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
Tính đến nay, 97,4% số xã đã hoàn thành phê duyệt quy hoạch NTM, với mục tiêu đạt 100% vào năm 2015 Chương trình phát triển giao thông nông thôn đã xây dựng hơn 5.000 công trình, tạo ra khoảng 700.000 km đường giao thông Hiện tại, 23,3% số xã đạt tiêu chí giao thông, dự kiến con số này sẽ tăng lên 35,3% vào cuối năm 2015 Về thủy lợi, 44,5% số xã đã đạt tiêu chí, với dự kiến đạt 52,7% vào cuối năm 2015; trong khi đó, 75,6% xã đạt tiêu chí về điện, dự kiến sẽ tăng lên 80,9% vào cuối năm 2015.
Công tác phát triển sản xuất và tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo đang được triển khai mạnh mẽ tại nhiều địa phương, với việc thực hiện dồn điền, đổi thửa và thiết kế lại kết cấu hạ tầng nhằm tạo điều kiện cho cơ giới hóa trong sản xuất Đồng thời, các địa phương cũng đổi mới tổ chức sản xuất thông qua việc tăng cường hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp và tổ chức liên kết sản xuất theo mô hình hiệu quả.
Nhiều địa phương như Thái Bình, Hà Tĩnh, An Giang, Hậu Giang và Đồng Tháp đã chủ động triển khai các chính sách hỗ trợ người dân trong việc mua sắm máy móc nông nghiệp như máy cày, máy gặt và máy sấy Nhờ đó, tỷ lệ cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp đã tăng đáng kể từ 40-50% lên 80-90%, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất trên những cánh đồng lớn và ứng dụng công nghệ cao.
Nhờ những nỗ lực phát triển, giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích tại các tỉnh thành đạt cao, như Thành phố Hồ Chí Minh với 250 triệu đồng/ha và Hà Nội 200 triệu đồng/ha Thu nhập bình quân của người dân nông thôn đạt 22,1 triệu đồng/người/năm, tăng 1,98 lần so với năm 2010, trong khi tỷ lệ hộ nghèo nông thôn giảm xuống còn 10,1% Đến cuối năm 2014, 56,5% số xã đạt tiêu chí văn hóa, dự kiến con số này sẽ là 66,5% vào cuối năm 2015 Hơn 60% dân cư nông thôn tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện, và khoảng 25% người dân tham gia các hoạt động thể thao Ngoài ra, 70% thôn, xóm được công nhận làng văn hóa, 40% số xã thành lập tổ thu gom rác thải, góp phần nâng cao đời sống văn hóa và tinh thần đoàn kết trong cộng đồng.
Hệ thống chính trị và tổ chức cơ sở đảng ở nông thôn đã được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động, nâng cao vai trò lãnh đạo Đội ngũ cán bộ xã đã nhanh chóng trưởng thành, với công tác đào tạo và bồi dưỡng được chú trọng Đến cuối năm 2014, 68,2% số xã đã đạt tiêu chí về hệ thống tổ chức chính trị, xã hội, và dự kiến con số này sẽ tăng lên 79,5% vào cuối năm 2015.
Khái quát về huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước và hệ thống tổ chức các cấp ủy của Đảng bộ huyện Phú Riềng
2.1.1 Điều kiện tự nhiên , kinh tế - xã hộihuyện Phú Riềng
Phú Riềng là huyện mới được thành lập từ huyện Bù Gia Mập theo Nghị quyết số 931/NQ-UBTVQH13 ngày 15/05/2015, bao gồm 10 đơn vị hành chính cấp xã Huyện có tổng diện tích tự nhiên là 67.465,21 ha và dân số năm 2016 đạt 92.232 người, với mật độ dân số 144 người/km² Trong đó, dân tộc Kinh chiếm đa số với 80.585 người, tiếp theo là dân tộc S’tiêng 7.380 người, dân tộc Khơmer 310 người, dân tộc Tày 295 người, dân tộc Hoa 894 người và các dân tộc khác 2.768 người Đặc biệt, số người trong độ tuổi lao động là 63.893 người, chiếm 65,72% tổng dân số.
Ranh giới hành chính của huyện tiếp giáp nhƣ sau: Phía bắc giáp huyện
Bù Gia Mập, thị xã Phước Long; phía nam giáp huyện Đồng Phú; phía đông giáp huyện Bù Đăng; phía tây giáp huyện Hớn Quản và huyện Lộc Ninh
Bảng 2.1.Các đơn vị hành chính huyện Phú Riềng
TT Đơn vị hành chính Diện tích
Mật độ DS (Ng/km 2 )
Huyện Phú Riềng có địa hình nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới cận xích đạo gió mùa, với hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô Khí hậu nơi đây chịu ảnh hưởng bởi hai yếu tố quan trọng.
Vị trí địa lý của khu vực có mối liên hệ chặt chẽ với hoàn lưu khí quyển và địa hình vĩ mô Địa hình khu vực nghiêng từ Đông sang Tây, với độ cao dao động từ 200m đến 400m.
Nhiệt độ trung bình quanh năm cao với biên độ nhiệt độ trung bình là 2,8°C, cùng với số giờ nắng lên đến 2.450-2.800 giờ/năm Lượng mưa bình quân từ 2.500-3.000 mm theo mùa đã ảnh hưởng lớn đến sản xuất nông nghiệp Do đó, trong sản xuất nông nghiệp, cần lựa chọn các loại hình sử dụng đất ít hoặc không cần tưới nước.
Hình 2.1 Bản đồ hành chính huyện Phú Riềng
* Điều kiện kinh tế - xã hội:
Từ khi thành lập, tình hình phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh quốc phòng đã được duy trì và đạt nhiều kết quả quan trọng Các chính sách an sinh xã hội được triển khai kịp thời và hiệu quả, trong khi hoạt động văn hóa, thể dục thể thao có nhiều chuyển biến tích cực Đầu tư vào y tế và giáo dục cũng được chú trọng, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Đại đa số người dân đang tích cực tham gia thi đua sản xuất và phát triển kinh tế, đồng thời thể hiện sự tin tưởng vững chắc vào đường lối, chủ trương của Đảng cũng như các chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Hiện tại, huyện có 04 tổ chức tôn giáo với tổng cộng 17.183 tín đồ, bao gồm 3.329 tín đồ Phật giáo, 8.009 tín đồ Thiên Chúa giáo, 5.466 tín đồ Đạo Tin lành, và 289 tín đồ Hồi giáo tại 01 thánh đường Ngoài ra, còn có 154 tín đồ đạo Cao Đài và 03 tín đồ đạo Phật giáo Hòa Hảo Đến cuối năm 2017, giá trị thương mại dịch vụ ước đạt 2.045 tỷ đồng, đạt 104% kế hoạch năm; giá trị sản xuất xây dựng đạt 240 tỷ đồng; giá trị sản xuất công nghiệp đạt 2.465 tỷ đồng; và thu ngân sách nhà nước trên địa bàn đạt 512 tỷ đồng Về tiêu chí nông thôn mới, huyện có 02 xã (Bình Tân, Phước Tân) đạt 10/19 tiêu chí.
Trong số các xã được đánh giá, xã Bình Sơn và Long Bình đạt 12/19 tiêu chí, trong khi Long Hà, Phú Trung và Long Hưng đạt 13/19 tiêu chí Xã Long Tân đạt 14/19 tiêu chí, và đặc biệt, xã Bù Nho cùng Phú Riềng đều đạt 19/19 tiêu chí.
2.1.2 Hệ thống tổ chức các cấp ủy Đảng của Đảng bộ Phú Riềng Đảng bộ huyện Phú Riềng đƣợc thành lập theo Quyết định số 1664- QĐ/TU, ngày 01/7/2015 và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 01/8/2015 Ban
Ban Chấp hành Đảng bộ huyện hiện có 30 đồng chí, trong đó Ban Thường vụ Huyện ủy gồm 11 đồng chí, với Thường trực Huyện ủy bao gồm 03 đồng chí: Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch HĐND huyện; Phó Bí thư Thường trực Huyện ủy; và Phó Bí thư Huyện ủy, Chủ tịch UBND huyện Đến hết tháng 4/2018, Ban Chấp hành đã tăng lên 34 đồng chí, sau khi có 02 đồng chí chuyển đi và bổ sung 06 đồng chí mới.
Tính đến năm 2017, Đảng bộ huyện có 46 tổ chức cơ sở đảng với tổng số 2.224 đảng viên, trong đó có 12 đảng bộ và 173 chi bộ trực thuộc cùng 34 chi bộ cơ sở Số cán bộ, công chức, viên chức trong toàn huyện là 1.759 người Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện, một trong ba chương trình trọng tâm về đội ngũ cán bộ được đề ra là “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ huyện đến cơ sở đủ về số lượng, đảm bảo chất lượng, giai đoạn 2016 - 2020”.
Ban Thường vụ Huyện ủy đã nhanh chóng chỉ đạo và ban hành nghị quyết nhằm thành lập và củng cố các chi bộ trực thuộc, cũng như Đảng bộ cơ sở, nhằm tiếp tục thực hiện các nhiệm vụ quan trọng.
Tính đến cuối năm 2017, Đảng bộ huyện Phú Riềng gồm 10 Đảng bộ xã với 133 đồng chí trong Ban Chấp hành và 30 đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng bộ Công an huyện có 7 đồng chí trong Ban Chấp hành và 3 đồng chí trong Ban Thường vụ Đảng bộ Quân sự huyện có 5 đồng chí trong Ban Chấp hành và 3 đồng chí trong Ban Thường vụ, trong đó Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch HĐND huyện là Bí thư Đảng ủy, và Phó Bí thư Huyện ủy kiêm Chủ tịch UBND huyện là Đảng ủy viên Đối với 34 chi bộ cơ sở, có 34 đồng chí Bí thư và 7 đồng chí chi ủy Đối với 174 chi bộ trực thuộc đảng bộ cơ sở, có 174 đồng chí Bí thư và 156 đồng chí chi ủy.