TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HÓA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂUĐỐC
Tổng quan lịch sử phát triển Châu Đốc
1.2 Vài nét về truyền thống lịch sử của người dânChâu Đốc
1.3 Các nhân tố tác động hình thành các di tích lịch sử -văn hóa trên địa bàn thành phố Châu Đốc
Chương 2 Diện mạo các di tích lịch sử -văn hóa tiêu biểu
Chương 3 Giá trị, định hướng và giải pháp bảo tồn, phát huy các di tích
3.1 Giá trị các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu
3.1.3 Tài nguyên nhân văn của du lịch
3.2 Thực trạng khai tháccác di tích tích lịch sử -văn hóa
3.3 Định hướng bảo tồn, phát huy giá trị di tích lịch sử -văn hóa
3.4 Giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị di tích tích lịch sử -văn hóa
NỘI DUNG CHƯƠNG 1 QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN
HÓA TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ CHÂU ĐỐC 1.1 Tổng quan lịch sử phát triển Châu Đốc
Châu Đốc, thành phố biên giới và cửa ngõ giao lưu với tỉnh Takeo, Kaldal và thủ đô Phnom Pênh của Campuchia, có vị trí thuận lợi cho giao thương và phát triển kinh tế Nơi đây không chỉ nổi bật với tiềm năng du lịch mà còn là trung tâm đầu mối của bốn cửa khẩu quốc tế và quốc gia: Tịnh Biên, Vĩnh Xương, Khánh Bình, và Vĩnh Hội Đông Châu Đốc cung cấp các phương tiện giao thương thuận lợi qua đường bộ và đường thủy.
Vùng đất Châu Đốc từng thuộc vương quốc Phù Nam, nơi có nền văn hóa Óc Eo phát triển mạnh mẽ Tuy nhiên, vào thế kỷ VII, vương quốc này suy yếu và bị Chân Lạp của người Khmer xâm chiếm Năm 1757, vua Chân Lạp Nặc Ông Tôn đã hiến tặng vùng đất Tầm Phong Long cho Chúa Nguyễn Phúc Khoát Theo chỉ thị của Chúa Nguyễn, Nguyễn Cư Trinh đã thiết lập ba đạo: Đông Khẩu (Sa Đéc), Tân Châu và Châu Đốc, chính thức tạo dựng nền hành chính cho toàn bộ Nam bộ.
Ngay từ khi nhận đất dâng, Chúa Nguyễn đã thành lập Đạo biên phòng tại Châu Đốc, đóng vai trò như một đồn trú phòng ngừa sông Hậu theo chế độ quân quản Sau khi chiếm lại Gia Định từ tay nhà Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã tổ chức hành chính Nam Bộ, trong đó Châu Đốc thuộc trấn Vĩnh, và vào năm 1808, trấn này được đổi tên thành Vĩnh Thanh, bao gồm An Giang và Vĩnh Long Theo sử liệu triều Nguyễn, vùng đất này có nhiều nơi hoang vắng, nên đầu năm Gia Long đã mời dân cư đến định cư, gọi là Châu Đốc Tân Cương, và đặt Quản đạo thuộc tỉnh Vĩnh Long Vị trí địa đầu của An Giang rất quan trọng, được vua Gia Long khẳng định rằng Châu Đốc và Hà Tiên có tầm quan trọng không kém gì Bắc.
Thành” [48;946] Châu Đốc được nhà Nguyễn chọn làm trung tâm huyện Vĩnh Định Đến năm 1832, Minh Mạng bãi bỏ cấp Trấn, thành lập Tỉnh An Giang là
An Giang, một trong “Nam kỳ lục tỉnh”, được đặt tại Châu Đốc và dưới sự cai quản của Tổng đốc đầu tiên Trương Minh Giảng Vùng đất Châu Đốc thuộc phần lớn địa phận tổng Châu Phú, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang Theo địa bạ triều Nguyễn, tổng Châu Phú có 25 thôn.
Sau khi quân Pháp chiếm trọn Nam Kỳ, họ đã chia vùng này thành 24 sở Tham biện Trong số đó, Sở Tham biện Châu Đốc thuộc huyện Đông Xuyên và Hà Dương Theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899, Thống đốc Nam Kỳ đã bãi bỏ Sở Tham biện và thành lập tỉnh Châu Đốc trở thành một trong 21 tỉnh của Nam Kỳ, với tỉnh lỵ được đặt tại chợ Châu Đốc, thuộc địa phận làng Châu Phú.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1948, Ủy ban kháng chiến – hành chánh Nam bộ đã tiến hành sát nhập và phân định ranh giới tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc thành hai tỉnh Long Châu Tiền và Long Châu Hậu, với tỉnh lỵ Châu Đốc thuộc Long Châu Hậu Đến cuối năm 1950, Long Châu Hậu đã nhập thêm Hà Tiên, hình thành tỉnh Long Châu Hà Cuối năm 1954, Xứ ủy Nam bộ quyết định lập lại hai tỉnh Long Xuyên và Châu Đốc như các đơn vị hành chính của địch.
Ngày 22-10-1956, chính quyền Ngô Đình Diệm hợp nhất Long Xuyên – Châu Đốc thành tỉnh An Giang Năm 1964, chính quyền Sài Gòn tách An Giang thành 2 tỉnh: Châu Đốc và An Giang Về phía Cách mạng, giữa năm 1957 cũng lập thành tỉnh An Giang, Châu Đốc là quận lỵ quận Châu Phú Năm 1965, Châu Đốc được nâng lên cấp thị xã của An Giang, đến tháng 9/1974 là một trong hai thị xã của tỉnh Long Châu Hà Sau ngày miền Nam giải phóng, theo Nghị quyết số 19 của Bộ Chính trị ngày 20/12/1975, thành lập tỉnh An Giang, Châu Đốc là thị xã thứ hai của tỉnh An Giang sau tỉnh lỵ Long Xuyên Ngày 19/7/2013, thị xã được nâng lên thành phố trực thuộc tỉnh An Giang theo Nghị quyết số 86/NQ-CP của Chính phủ Ngày 15/4/2015, Châu Đốc được nâng lên là thành phố loại II theo Quyết định số 499/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
Châu Đốc là thành phố biên cương, diện tích tự nhiên 105,23 km2 nằm ở phía Tây nam Tổ quốc Đông bắc giáp huyện An Phú và Tân Châu dọc theo
17 sông Hậu và sông Châu Đốc, Tây Bắc giáp Campuchia, Đông nam giáp huyện Châu Phú, Tây nam giáp huyện Tịnh Biên và Đông giáp huyện Phú Tân
Châu Đốc, thuộc tỉnh An Giang, có dân số 111.253 người, bao gồm các dân tộc Kinh, Hoa, Chăm, Khmer và nhiều dân tộc khác Thành phố này có sự đa dạng về tôn giáo với các tín đồ Phật giáo, Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài, Công giáo và một số đạo giáo khác Châu Đốc là đô thị loại II, bao gồm 5 phường: Châu Phú A, Châu Phú B, Núi Sam, Vĩnh Mỹ, Vĩnh Ngươn và 2 xã: Vĩnh Tế và Vĩnh Châu.
Mặc dù trải qua nhiều biến đổi trong gần 260 năm lịch sử, thành phố Châu Đốc vẫn giữ vai trò quan trọng đối với tỉnh An Giang và các tỉnh hạ lưu sông Hậu, cả về mặt kinh tế lẫn quốc phòng.
Các nhân tố tác động hình thành các di tích lịch sử - văn hóa
địa bàn thành phố Châu Đốc
DIỆN MẠO CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA TIÊU BIỂU
Đình Châu Phú
Giữa sự nhộn nhịp của thành phố biên giới, đình Châu Phú vẫn bình yên dưới bóng cây cổ thụ, nhìn ra dòng Hậu giang tĩnh lặng, mang đến cho du khách cảm giác hoài cổ Đình Châu Phú nằm trên khu đất rộng trong nội ô thành phố, tại ngã ba sầm uất nhất giữa các đường Trần Hưng Đạo, Nguyễn Văn Thoại và Lê Lợi, giữa những khu phố buôn bán nhộn nhịp.
2.1.1 Lịch sử hình thành Đình Châu Phú Đầu thế kỷ XIX, Thoại Ngọc Hầu bắt đầu cho xây đình Châu Phú thờ Nguyễn Hữu Cảnh - một vị khai quốc công thần đã có công rất lớn trong việc khai hoang lập làng, xác lập chủ quyền, bình định an dân trên vùng đất Gia Định xưa Có nhiều ý kiến khác nhau về năm xây dựng đình, song chỉ ở khoảng năm 1817 (năm ông nhậm chức Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh) cho đến năm 1829 (năm ông mất)
Đền Lễ Công, hay còn gọi là đền Ông, ban đầu được xây dựng đơn sơ với mái lá và vách ván, tọa lạc trong khuôn viên rộng rãi, thoáng mát bên dòng sông Hậu Bà Huỳnh Thị Phú, vợ Lê Công Thoàn, đã chăm sóc và tu sửa đền từ năm 1838 đến 1858, xây dựng nền gạch tàu Ngôi đền được công nhận là nơi thờ tự chính thống theo quốc điển thời nhà Nguyễn và cũng như nhiều đền thờ khác, đã chịu ảnh hưởng trong thời kỳ Pháp thuộc.
Lễ Công đã được đình hóa và trở thành đình thờ thần của làng, mang tên đình Châu Phú Năm 1926, chính quyền Pháp tại tỉnh Châu Đốc quyết định di dời đình để xây dựng một bệnh viện, hiện nay là siêu thị Co.op Mart.
Thị Phú và hương chủ Lan đứng ra vận động nhân dân đóng góp tiền của, để chuyển đình đến đầu chợ Châu Đốc, tức vị trí hiện nay
Do công trình tốn kém, số tiền quyên góp và quỹ làng không đủ, chính quyền tỉnh đã tổ chức xổ số Tombola để huy động thêm kinh phí xây dựng Đến năm 1960, đình Châu Phú được tu bổ với cổng rào xung quanh, dưới xây bằng gạch và trên là song sắt, tạo nên vẻ trang nghiêm và thoáng mát Mặc dù bọn Pôn – Pốt đã làm hư hỏng nóc mái sau, nhưng nhân dân đã khôi phục lại như cũ.
2.1.2 Không gian, kiến trúc Đình Châu Phú
Đình Châu Phú, một trong những ngôi đình lớn và đẹp nhất ở đồng bằng Nam Bộ, đã trải qua gần 200 năm lịch sử với nhiều lần sửa chữa và gia cố nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc cổ kính.
Đình Châu Phú nổi bật với mái ngói âm dương màu đỏ, trên nóc được trang trí bằng tượng bát tiên và hình ảnh lưỡng long tranh châu Trước sân đình có bốn cây dương cổ thụ, tuy đã có một cây chết cách đây hơn 10 năm Với diện tích lên tới cả ngàn mét vuông, đình được xây dựng theo lối kiến trúc cổ kính kiểu chữ "tam", có mái tam cấp và lầu, nền lát gạch bông, tường gạch hồ vôi ô dước, cùng cột gỗ căm xe và cà chất Nóc đình được chạm khắc nhiều tượng đẹp mắt, thể hiện sức mạnh và sự tinh tế như: Bát tiên, lưỡng long tranh châu, lưỡng long chầu nguyệt, cá hóa long, chim, công, phụng, và sư tử.
Khuôn viên được bao bọc bởi tường rào kiên cố, với cây cổ thụ tạo bóng mát trong sân Hai góc sân có miếu Ngũ Hành và miếu Sơn Quân, cùng với cổng tam quan lợp ngói đỏ, mái cong ba tầng được trang trí hoa văn hình rồng Trên cổng, bức hoành phi khắc chữ Hán 忠義祠 (Trung Nghĩa Từ) được trưng bày ở cả hai mặt, trong khi các cột ở cổng đều được trang trí bằng câu đối đỏ.
Tòa nhà chính được trang trí tinh xảo với đỉnh đồng lớn và hoành phi liễn đối chạm trổ sắc sảo, được thếp vàng ống ả Mặt hành lang phía trước nổi bật với những ô cửa vòm và hoa văn tinh tế Trên lối vào chính, bức hoành phi ghi 4 chữ Hán: 上等神廟 (Thượng Đẳng Thần Miếu) Chánh điện bao gồm 3 gian, trong đó gian giữa là bệ thờ Nguyễn Hữu Cảnh.
Đền thờ 26 đẳng thần, Thoại Ngọc Hầu - Trung đẳng thần và thần Chánh phó Vệ Thuỷ, được bố trí hai bên với Tả Ban và Hữu Ban Chánh điện nổi bật với 9 hàng cột, mỗi hàng gồm 4 trụ làm từ gỗ quý, có đường kính lớn hơn một vòng tay Các cột được ốp liễn đối, sơn son thiếp vàng và chạm trổ tinh xảo với hình ảnh bát tiên, chim muông, mai lan, cúc trúc Tất cả các hàng cột đều được trang trí bằng hoành phi và câu đối sơn thiếp vàng lộng lẫy, tạo nên vẻ đẹp trang nghiêm cho ngôi đền.
Giữa hàng cột thứ 8, bệ thờ Nguyễn Hữu Cảnh được đặt cao, nổi bật với lư đỉnh chói sáng, hai bên là tàn lọng và bát bửu rực rỡ Trên bệ thờ, ba bức tượng gỗ điêu khắc tinh xảo, cao hơn 1 mét, được sơn nhũ vàng óng ánh, trong đó tượng chính là Nguyễn Hữu Cảnh, flanked by văn võ quan đứng hầu Đình còn bảo tồn nhiều di sản quý giá như sắc phong thần từ thời Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức, cùng 29 hoành phi, 22 liễn đối, bia ký và hàng trăm hiện vật như lư hương, khánh thờ, kiệu, đồ lễ bộ, trống và đàn.
- Triều Gia Long thứ 9 (1810), Nguyễn Hữu Cảnh được thờ vào miếu Khai quốc công thần
- Triều Minh Mạng thứ 12 (1831), truy tặng ông Tước vị Khai quốc công thần, Tráng võ tướng quân, Thần cơ Đô thống, tước Vĩnh An Hầu
- Săc Tự Đức ngày 29/11/1852, truy tặng ông là Lễ Thành Hầu
Đình Châu Phú, với sự khéo léo và tài năng của những nghệ nhân, đã thể hiện tinh hoa của kiến trúc thời Nguyễn và phong cách truyền thống của đình làng Nam Bộ Vào ngày 16 tháng 11 năm 1988, Bộ Văn hóa đã công nhận đình Châu Phú là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia qua quyết định số 1288/VH-QĐ.
2.1.3 Hoạt động văn hóa của Đình Châu Phú
Hàng năm, vào các ngày mùng 9, 10 và 11 tháng 5 âm lịch, lễ cúng kỳ yên (cầu an) được tổ chức trọng thể, đánh dấu kỷ niệm ngày mất của Chưởng cơ.
Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh được tổ chức tại đình với lễ giỗ Thoại Ngọc Hầu vào ngày mùng 6 tháng 6 hàng năm Đặc biệt, cứ ba năm, đình sẽ tổ chức xây chầu Đại hội một lần.
Lễ hội kỳ yên của đình không chỉ mang ý nghĩa tâm linh mà còn giáo dục các thế hệ trong cộng đồng về những bài học đạo đức quan trọng, đặc biệt là việc củng cố mối liên kết thiêng liêng giữa các thành viên Sự kiện này truyền bá truyền thống và tinh thần cộng đồng, tạo ra sức mạnh đoàn kết cho người dân Lễ cúng đình còn góp phần hình thành một nét văn hóa đặc trưng của người Việt, khác biệt so với các tộc người như Khmer, Hoa, Chăm, từ đó hỗ trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ lãnh thổ và văn hóa dân tộc, trở thành một vũ khí văn hóa giúp cộng đồng người Việt vững bền tại vùng biên cương hiểm yếu.
Lăng Thoại Ngọc Hầu
Đối diện miếu Bà Chúa Xứ núi Sam, lăng Thoại Ngọc Hầu (Sơn Lăng) là một trong những công trình kiến trúc hiếm hoi còn nguyên vẹn từ thời nhà Nguyễn tại miền Nam Đây không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật bề thế mà còn mang ý nghĩa sâu sắc về văn hóa và lịch sử của Châu Đốc.
2.2.1 Lịch sử hình thành lăng Thoại Ngọc Hầu
Khu lăng được xây dựng dưới sự chỉ huy của Thoại Ngọc Hầu, nhưng thời gian cụ thể không được xác định rõ ràng, chỉ biết rằng công trình này diễn ra từ khoảng năm 1817, khi ông nhậm chức Trấn thủ trấn Vĩnh Thanh, cho đến năm 1829, năm ông qua đời.
Vào năm 1829, Thoại Ngọc Hầu qua đời khi đang đảm nhiệm chức vụ, và ông được an táng vào ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu tại Khu lăng núi Sam Mộ bia của ông được con trai trưởng, Nguyễn Văn Lâm, dựng tại Sơn Lăng, nơi mà Thoại Ngọc Hầu đã chọn làm chốn an nghỉ cuối đời Khu vực lăng có mặt sân bằng phẳng, rộng lớn, và được trang trí với hai tiểu cảnh.
30 đình do người đời sau xây dựng dùng để chứa bản sao tấm bia Thoại Sơn bằng đá cẩm thạch trắng và đặt tượng ngựa cùng người lính hầu
2.2.2 Không gian, kiến trúc lăng Thoại Ngọc Hầu
Mặt lăng nằm bên chân núi, lưng quay về vách núi, tọa lạc trên thềm cao với 9 bậc thang xây bằng đá ong Loại đá này được vận chuyển bằng ghe chèo từ Biên Hòa qua nhiều sông rạch, sau đó rẽ vào kinh Vĩnh Tế để đến núi Sam Nơi ghe neo lại để lên đá được gọi là Nhà Neo, còn chỗ chất đá để xây dựng dần được gọi là Bến Vựa.
Lăng được xây dựng bằng hồ ô dước, thời điểm chưa có xi-măng, với bức tường dày một mét và cao hơn đầu người, đã mang màu rêu phong cổ kính Phía trước lăng có hai cửa lớn theo phong cách kiến trúc truyền thống, kèm theo hai hàng liễn đối hai bên, tạo nên vẻ đẹp trang nghiêm và lịch sử.
Bậc thang dẫn lên đền thờ được xây trên nền cao, nơi có chánh điện thờ bài vị của Thoại Ngọc Hầu cùng hai phu nhân Trong đền, có mão cân đai của ông được phục chế và nhiều nghi thức với các bộ lư đồng.
Trong lăng, trung tâm là mộ Thoại Ngọc Hầu, tên thật Nguyễn Văn Thoại, sinh ngày 26 tháng 11 năm Tân Tỵ (1761) dưới triều đại Cảnh Hưng thứ 22, thời vua Thế Tông Hiếu Vũ Hoàng Đế (Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát), tại làng An Hải, huyện Diên Phước, dinh Quảng Nam, hiện nay thuộc phường.
Thoại Ngọc Hầu, sinh ra tại An Hải Tây, quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng, là con trai của ông Nguyễn Văn Lượng và bà Nguyễn Thị Tuyết Ông là anh cả trong gia đình có ba anh em và đã theo gia đình vào Nam trong thời kỳ loạn lạc, cư trú tại cù lao Dài trên sông Cổ Chiên, hiện nay thuộc tỉnh Vĩnh Long Dưới triều Nguyễn, ông được bổ nhiệm làm trấn thủ Vĩnh Thanh, quản lý các tỉnh Châu Đốc, Long Xuyên, Sa Đéc, Vĩnh Long và một phần Kiên Giang Thoại Ngọc Hầu có ba người vợ, trong đó bà Châu Thị là chính thất.
Tế, Diệc phu nhân Trương Thị Miệt, Thứ phu nhân Nguyễn Thị Hiền (quen gọi là bà Thứ)
+ Bà Châu Thị Tế, sinh ngày Mùi, tháng tư năm Bính Tuất (1766) và mất ngày rằm tháng 10 năm Bính Tuất (1826) giờ Ngọ Thọ 60 tuổi
+ Bà Trương Thị Miệt, sinh năm Tân Sửu (1781) và mất giờ Dần ngày mùng chín tháng bảy năm Tân Tỵ (1821) Thọ 40 tuổi
Bà Nguyễn Thị Hiền tại quê nhà chăm sóc cha già và thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên dòng họ Nguyễn Văn, tuy nhiên, sử sách và gia phả không ghi chép về con cái của bà.
Từ năm 1821, Nguyễn Văn Thoại đảm nhiệm chức vụ Án ngự và bảo vệ đồn Châu Đốc, đồng thời giữ vai trò bảo hộ nước Chân Lạp và biên phòng tỉnh Hà Tiên Ông đã có những đóng góp quan trọng trong việc khai hoang, lập ấp, cũng như xây dựng hệ thống kênh rạch và đường xá, góp phần phát triển và bảo vệ vùng đất Tây Nam Những công trình lớn mà ông để lại cho thế hệ sau vẫn mang giá trị lịch sử và văn hóa đáng kể.
Vào năm 1826 – 1827, lộ núi Sam dài 5km được xây dựng với sự tham gia của gần 4.500 nhân công Đoạn đường này, hiện nằm trong nội ô thành phố Châu Đốc, vẫn mang tên của người chỉ huy, ông Nguyễn Văn Thoại Đoạn đường nối liền từ ngã tư đến Đầu Bờ núi Sam đã được khôi phục lại tên cũ là Tân Lộ Kiều Lương.
- Đào kinh Thoại Hà dài hơn 30.000 mét ở núi Sập (Thoại Sơn) vào năm
1818 với khoảng 1.500 nhân công (Thoại là tên của ông được triều đình lấy đặt cho tên núi, tên sông)
Kinh Vĩnh Tế, dài hơn 90 km, chạy dọc biên giới Tây Nam nối liền Châu Đốc và Hà Tiên, đã được xây dựng từ năm 1819 đến 1824 với sự tham gia của hơn 80.000 nhân công Được triều đình đặt tên theo phu nhân Thoại Ngọc Hầu, tên thật là Châu Thị Tế, Kinh Vĩnh Tế không chỉ là một công trình chiến lược mà còn là biểu tượng của dòng họ Châu Vĩnh, với cha là Châu Vĩnh Huy, góp phần quan trọng trong việc kết nối lưu thông từ sông Châu Đốc ra vịnh Thái Lan.
Thoại Ngọc Hầu mất ngày 6 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1829) tại Châu Đốc Hưởng thọ 68 tuổi
Thoại Ngọc Hầu được tước phong: “Thống chế án thủ Châu Đốc đồn, lãnh
Bảo hộ Cao Miên quốc ấn, kiêm quản Hà Tiên trấn biên vụ, được gia nhị cấp và kỷ lục tứ thứ, đã được truy tặng danh hiệu Tráng võ tướng quân và Trụ quốc Đô thống, mang thụy hiệu Võ Khắc.
Bên phải mộ ông là mộ bà vợ chính Nhất phẩm phu nhân Châu Thị Tế, qua đời năm Bính Tuất (1826) Bên trái là mộ bà vợ thứ, Diệc phẩm phu nhân Trương Thị Miệt, mất năm Tân Tỵ (1821).
Khu lăng mộ có 32 mộ đều được trang trí bằng bức bình phong và chân mộ có khắc bi ký Trên bức tường phía trước, có bia đá Vĩnh Tế Sơn ghi lại thông tin về Thoại Ngọc Hầu, người mất năm Kỷ Sửu (1829) ở tuổi 68 Qua các ngôi mộ và năm mất của ông cùng hai bà vợ, có thể khẳng định rằng khu lăng mộ này được xây dựng theo ý nguyện của ông, vì ông qua đời sau hai bà.
Đình Vĩnh Nguơn
Di tích đình Vĩnh Nguơn, nằm tại đầu kinh Vĩnh Tế, là một địa danh nổi tiếng ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang Trước đây, đình thuộc thôn Vĩnh Nguơn, tổng Châu Phú, huyện Tây Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang; hiện nay, nó thuộc phường Vĩnh Nguơn, thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang.
2.3.1 Lịch sử hình thành đình Vĩnh Nguơn
Trong quá trình khai hoang và định cư, cộng đồng dân cư đã cùng nhau xây dựng ngôi thờ thần để đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh, tạo chỗ dựa tinh thần cho người dân trên vùng đất mới Năm 1824, sau khi kinh Vĩnh Tế hoàn thành, số lượng người đến sinh sống và lập nghiệp ngày càng tăng, dẫn đến việc Thoại Ngọc Hầu thành lập 5 làng dọc bờ kinh Vĩnh.
Tế, trong đó có làng Vĩnh Nguơn, người dân lấy tên làng đặt tên đình và ngôi đình mang tên đình Vĩnh Nguơn đến nay
Đình Vĩnh Nguơn, được xây dựng vào giữa thế kỷ XIX, ban đầu có cấu trúc đơn giản với vách ván lợp lá Năm 1929, Đốc phủ Trương Tấn Vị đã cho dời đình về vị trí hiện tại và xây mới với hai gian ba chái, tổng diện tích hơn 520 mét vuông Kiến trúc đình mang phong cách thời Nguyễn, với mái tam cấp lợp ngói đại ống, nóc cổ lầu và tường gạch xây Bộ cột gỗ tròn căm xe ở chánh điện được bảo tồn, chân cột được nâng cao hơn 1m để tạo sự cân đối cho công trình Đình Vĩnh Nguơn không chỉ là một công trình kiến trúc bề thế mà còn là biểu tượng văn hóa, bao gồm các hạng mục như cổng rào, sân, vỏ ca, vỏ qui, chính điện và nhà khói, được gìn giữ đến ngày nay.
Năm 1992, Ban quý tế đình đã tiến hành tu sửa chánh điện và xây cổng tam quan Đến năm 1996, toàn bộ ngói âm dương được thay mới, và năm 1998, nền gạch được thay bằng gạch men Năm 2002, do việc nâng cao và mở rộng lộ, cổng đình được di dời và xây lại Đầu năm 2015, Đình Vĩnh Ngươn được cấp kinh phí trùng tu bởi Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, và đến cuối năm 2016, công trình hoàn thành và bàn giao cho Ban quý tế quản lý Tương truyền, trong thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh, anh em Tây Sơn khởi nghĩa chống lại cuộc chiến kéo dài hơn 100 năm, gây khổ sở cho dân chúng Quân Tây Sơn đã đánh bại quân Trịnh ở miền Bắc và đuổi chúa Nguyễn ở miền Nam Nguyễn Ánh, trong lúc chạy trốn, đã được Nguyễn Hữu Lễ, một người dân địa phương, giúp đỡ bằng cách huy động dân làng Vĩnh Nguơn đưa ông qua sông, rồi phá cầu để ngăn quân Tây Sơn truy đuổi Khi quân Tây Sơn đến, họ đã tra hỏi dân làng và Nguyễn Hữu Lễ đã dũng cảm nhận tội thay cho dân Để tưởng nhớ nghĩa cử cao quý của ông, người dân đã xây dựng Đình Vĩnh Nguơn để thờ ông và tôn kính như một vị thần.
Năm 1802, vua Gia Long đã tri ân Nguyễn Hữu Lễ bằng cách phong ông làm Thần Thành Hoàng cho làng Vĩnh Ngươn Đến năm 1924, dưới triều vua Khải Định, ông được gia phong với danh hiệu "Đoan Túc Dực Bảo Trung Hưng Linh Phù Chi Thần" Người dân địa phương rất vui mừng và luôn kính trọng, thường xuyên thắp hương cúng bái tại đình Vĩnh Ngươn Qua nhiều thế hệ, nhân dân vẫn giữ gìn lòng tôn kính đối với khí phách trung quân ái quốc của ông, cùng nhau đóng góp để trùng tu và tôn tạo ngôi đình ngày càng khang trang, đẹp đẽ.
2.3.2 Không gian, kiến trúc đình Vĩnh Nguơn Đình Vĩnh Nguơn có diện tích xây dựng 526,6 mét vuông, kiến trúc dạng chữ Tam, với ba bộ nóc Các bờ nóc trang trí bộ tượng khối lưỡng long tranh châu, Nhật-Nguyệt; cuối các đường chân tượng gắn kỳ lân, cá hóa long, vân mây, hoa văn hình học; mặt dựng đắp nổi phù điêu dơi ngậm giỏ hoa lam, hoa dây lá thể hiện ước nguyện cuộc sống phú quý, phúc báu trường tồn
Nội thất đình Vĩnh Nguơn được thiết kế theo kiểu ba gian hai chái với bộ khung sườn gỗ vững chắc, chịu lực cho toàn bộ kiến trúc nhờ 36 cột đỡ mái được phân bố thành 4 hàng cột ngang và 8 hàng cột dọc, trong đó nổi bật là 18 cột gỗ căm xe tròn ở chính điện, thể hiện dấu tích thời kỳ đầu xây dựng đình Các kì kèo được chạm khắc thon nhỏ ở phần ngọn và to dần về phía đầu dư, tạo nên sức mạnh cho kiến trúc Bên cạnh đó, các mảng vách giữa các cấp mái được trang trí bằng khuôn tranh vẽ thuốc nước với nội dung phong phú, thể hiện đề tài lịch sử, cảnh quê hương và thiên nhiên, góp phần làm tăng giá trị nghệ thuật thẩm mỹ truyền thống của nội thất đình.
Gian chính điện và vỏ ca có thiết kế ba gian hai chái, tạo nên kết cấu đồng nhất với sườn mái kiểu tứ trụ Kiến trúc này nổi bật với bốn cột chính (tứ trụ) lớn và cao, không chỉ chịu lực cho toàn bộ khung sườn mà còn liên kết các vì kèo, xiên và vách, hình thành nên một công trình kiến trúc cổ lâu bền với tam cấp mái.
Vỏ qui được hình thành từ kỹ thuật trồng rường cột trốn, không chỉ kết nối chánh điện và vỏ ca mà còn mở rộng không gian nội thất, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động lễ hội tại đình Đồng thời, vỏ qui còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông gió và ánh sáng tự nhiên cho ngôi đình.
Hệ thống bàn thờ và hương án được bài trí hài hòa, phản ánh tín ngưỡng tâm linh của người dân trong xã hội phong kiến Chính điện, với vị trí trang trọng nhất, thờ cúng vị thần Nguyễn Hữu Lễ, thể hiện sự tôn kính và lòng thành của cộng đồng.
Nội thất phối tự bao gồm 20 bàn thờ như Tả ban, Hữu ban, Tiền hiền, Hậu hiền, được chế tác từ gỗ với sự khéo léo của các nghệ nhân xưa Mỗi tủ thờ và nghi thờ mang vẻ đẹp riêng, được khắc chạm tinh xảo và cẩn ốc xà cừ lấp lánh, làm phong phú thêm về mỹ thuật Hệ thống thờ tự này không chỉ lộng lẫy mà còn trang nghiêm, thể hiện uy linh nơi linh thần ngự trị.
Bên trái, từ ngoài nhìn vào là các bàn thờ: Tiên Sư, Hậu Viên Quan, Tiền Viên Quan, Tiền Hiền, Tả Ban
Bên phải, từ ngoài nhìn vào là các bàn thờ: Thần Nông, Hậu Hương Chức, Tiền Hương Chức, Hậu Hiền, Hữu Ban
Đồ án trang trí nội thất đình Vĩnh Ngươn thể hiện sự phong phú và đa dạng về các loại hình nghệ thuật khắc chạm, đặc biệt nổi bật với các bức chạm khắc gỗ Nghệ nhân xưa đã tài tình thể hiện nhiều kỹ thuật chạm trổ, chạm nổi và khắc chìm trên 30 bộ bao lam, hoành phi và liễn đối Đặc biệt, các bức liễn treo trên hai thân cột trước bàn thờ thần với ba lớp chạm khắc hài hòa từ mặt nền, hình rồng đến hàng Hán tự, kết hợp với kỹ thuật sơn son và thếp vàng, tạo nên vẻ đẹp nghệ thuật ấn tượng Đây là những tác phẩm điêu khắc độc đáo, tiêu biểu cho tài năng của nghệ nhân xưa.
37 cho thành tựu điêu khắc gỗ Việt Nam thời Nguyễn ở địa phương, mà ngày nay đã trở thành di sản
Di tích kiến trúc nghệ thuật đình thần Vĩnh Nguơn, tọa lạc bên bờ sông Hậu, là một trong những ngôi đền cổ đẹp nổi tiếng của tỉnh An Giang, mang dấu ấn thời phong kiến triều Nguyễn Ngôi đình không chỉ làm đẹp thêm cho mảnh đất Vĩnh Nguơn mà còn ấm lòng người dân địa phương Đặc biệt, sự quan tâm của ngành văn hóa, chính quyền địa phương, Ban Quý tế và người dân trong việc gìn giữ, tu bổ đã giúp ngôi đình ngày càng khang trang, rộng đẹp, vừa trang nghiêm vừa cổ kính.
Vào năm 2002, đình Vĩnh Ngươn đã được lập hồ sơ khoa học và được UBND tỉnh An Giang xếp hạng là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp tỉnh theo Quyết định số 1250/QĐ – CT.UB ngày 21 tháng 5 năm 2002 Đến năm 2011, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã công nhận đình Vĩnh Ngươn là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định số 1713/QĐ-BVHTTDL ngày 02 tháng 6 năm 2011 (BẢO TÀNG AN GIANG 2012).
2.3.3 Hoạt động văn hóa đình Vĩnh Nguơn: mỗi năm có 3 lễ lớn:
- Ngày 15 – 16/01 Âm lịch: Lễ cúng Tống khách (Tống năm cũ rước năm mới, cầu cho người dân làm ăn thuận lợi)
Buổi lễ được tổ chức quy mô phường, với sự chuẩn bị cẩn thận từ người Chánh Tế cho các vật phẩm cúng Thần và thuyền tế Chiếc thuyền tế, biểu tượng cho cuộc sống vùng miệt vườn sông nước, là điểm nhấn trung tâm của lễ hội và được thực hiện công phu từ nhiều ngày trước.
Di tích miếu Bà Chúa Xứ núi Sam
2.4.1 Lịch sử hình thành miếu Bà Chúa Xứ Núi Sam
Miếu Bà Chúa Xứ núi Sam là một di tích kiến trúc nghệ thuật nổi tiếng ở miền Nam, được xây dựng lần đầu vào khoảng năm 1820 – 1825 bằng tre lá đơn sơ Tọa lạc dưới chân núi Sam gần 200 năm, miếu ban đầu được dựng lên từ cây lá trong một vùng đất hoang vu Khi cuộc sống phát triển và nhu cầu tín ngưỡng của người dân gia tăng, miếu đã được sửa chữa lớn vào năm 1870 và được trùng tu vào năm 1962.
Vào năm 1965, Hội Quý tế đã tiến hành mở rộng nhà khách và xây dựng hàng rào cho chánh điện Năm 1966, hai dãy lang đông và tây được xây dựng Đến năm 1972, Hội Quý tế miếu quyết định thực hiện một cuộc trùng tu lớn, gần như xây dựng lại hoàn toàn kiến trúc với quy mô đồ sộ và nguy nga Kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng và Nguyễn Bá Lăng được mời thiết kế, tạo nên một tổng thể hài hòa, đẹp mắt và hiện đại.
Truyền thuyết kể rằng vào đầu thế kỷ XIX, quân Xiêm thường quấy nhiễu và cướp bóc nước ta, khiến người dân phải chạy lên núi lánh nạn Một lần, khi quân giặc đuổi đến đỉnh Núi Sam, họ phát hiện tượng Bà nhưng không thể di chuyển được Dân làng quyết định cùng nhau khiêng tượng Bà xuống núi để lập miếu thờ, nhưng dù đã huy động nhiều thanh niên khỏe mạnh, họ vẫn không thể nhấc nổi pho tượng Đột nhiên, một phụ nữ lên đồng và tự xưng là Bà Chúa.
Xứ và bảo yêu cầu chín cô gái đồng trinh tham gia khiêng tượng Bà xuống núi Khi thực hiện, các cô gái đã khiêng tượng Bà một cách nhẹ nhàng và dễ dàng Tuy nhiên, khi đến chân núi, tượng Bà bỗng trở nên nặng trịch, không thể di chuyển thêm Dân làng tin rằng Bà muốn ngự tại nơi này, vì vậy họ đã quyết định lập miếu thờ Bà tại đây.
Vào khoảng năm 1820, trong hành trình dẹp loạn biên giới Tây Nam, ông Thoại Ngọc Hầu đã gặp một tượng Bà Sau khi hoàn thành nhiệm vụ, ông trở về và nghe vợ, bà Châu Thị Tế, kể về nỗi lo lắng của bà khi nghe tin về sự hung dữ của bọn giặc Bà đã khấn nguyện cầu mong ông chiến thắng và bình an trở về, hứa sẽ lập miếu thờ để tạ ơn Ông đồng ý cho bà thực hiện ý nguyện, và miếu được xây dựng với cấu trúc đơn sơ, bên trong chỉ có bàn thờ và lư hương Nhớ lại pho tượng đã gặp trước đó, ông đã cho binh sĩ đưa tượng về miếu để tăng thêm phần tôn nghiêm.
2.4.2 Không gian, kiến trúc miếu Bà Chúa Xứ núi Sam
Miếu được thiết kế theo hình chữ “Quốc”, mang dáng vẻ của một khối tháp giống như đài sen nở Mái của miếu có hình cong với ba cấp, được lợp bằng ngói đại màu xanh ngọc Bên trong, miếu được trang trí bằng đá hoa và gạch nhập khẩu từ nước ngoài.
Khung bao và cửa được chạm trổ tinh xảo, với nhiều tượng thần thoát tục ở góc cao và tranh sơn thủy hữ tình trên tường, tạo nên vẻ đẹp cổ kính và thiêng liêng Chánh điện rộng rãi, thoáng khí, mang lại cảm giác ấm cúng và tôn nghiêm, với tượng Bà mặc áo bào rồng phụng lấp lánh ngồi uy nghi giữa không gian, bên cạnh là đôi hạc trắng Bên trái là bàn thờ cậu với linga, bên phải là bàn thờ cô, và phía trước là bàn thờ hội đồng với đôi phượng hoàng Hai bên chánh điện còn có bàn thờ hậu hiền và tiền hiền, cùng nhiều liễn đối trang trí.
Phía trước chánh điện, võ ca được thiết kế rộng rãi và thoáng đãng, phục vụ cho các nghi lễ cúng Bà Cuối võ ca là một sân khấu kiên cố, nơi diễn ra các buổi hát bội sau khi lễ cúng kết thúc.
Võ ca được xây dựng vào khoảng năm 1965 và đã trải qua nhiều lần trùng tu, đặc biệt vào năm 1990 khi ngói đỏ được thay thế bằng ngói đại màu xanh ngọc để tạo sự hài hòa với chánh điện Phía sau chánh điện là phòng khách của Ban Quản trị lăng miếu núi Sam Bên phải miếu là đông lang, được xây dựng lại với hai tầng và lợp ngói xanh vào năm 1988-1989, phù hợp với tổng thể khuôn viên miếu.
Bên trái chánh điện ở ngoài sân là miếu Ông Tà, được xây dựng lại bằng bê tông, lợp ngói xanh vào năm 1995 Trong miếu thờ ba hòn đá
Hai bên cửa vào chánh điện có hai con sư tử bằng đá hoa cương, ngồi canh giữ và hướng ra khu nhà trưng bày ba tầng đồ sộ Nhà trưng bày này trước kia là trường Trung học Vĩnh Tế, được xây dựng bởi quỹ miếu Bà.
Năm 1970, trường phổ thông cơ sở “A” Vĩnh Tế được thành lập và sau năm 1975, trường đổi tên Sự gia tăng khách tham quan miếu Bà đã ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh, vì vậy miếu Bà đã xây dựng một ngôi trường mới tại ấp Vĩnh Đông, xã Vĩnh Tế (hiện nay là trường Trung học cơ sở Trương Gia Mô) để đổi lấy ngôi trường cũ và tiến hành tu sửa thành nhà trưng bày Công trình này đã được thực hiện nhằm cải thiện môi trường học tập cho con em địa phương.
Từ năm 1994 đến 1996, với kinh phí hơn 2 tỷ đồng, kiến trúc sư Phạm Duy Dương và kỹ sư Trần Đình Vượng đã thiết kế nhà trưng bày hình chữ "Công" với mái cong lợp ngói xanh Công trình này kết hợp với miếu Bà, tạo nên một tổng thể hài hòa, uy nghi và đẹp mắt.
Miếu Bà được trang trí hiện đại và sang trọng, trưng bày hàng ngàn hiện vật của khách hành hương như áo, mão, khánh vàng, tiền cổ và đồ mỹ nghệ Mặt hậu của miếu được bảo vệ bởi hàng rào bê tông sơn đỏ, xây dựng từ năm 1989 Cổng chính tam quan hướng lên núi, với cổng hai mái lợp ngói xanh, trên có hình lưỡng long tranh châu và bảng đề “Chúa Xứ Thánh Miếu” Khuôn viên miếu Bà rộng khoảng 3.000 mét vuông, với bốn cột lớn sơn vàng và hàng đối đỏ ở mặt trước.
Ngôi miếu thờ Bà Chúa Xứ đã trở thành một địa điểm linh thiêng được nhân dân địa phương truyền tụng từ lâu, thu hút khách thập phương và các nhà nghiên cứu Các truyền thuyết về Bà chứa đựng những câu chuyện kỳ bí, tạo nên sự hấp dẫn đặc biệt Năm 1941, nhà khảo cổ học người Pháp Malleret đã nghiên cứu pho tượng cao 1,25m, được đúc liền với một thớt đá son, và cho rằng đây là một nam thần mang hình dáng của một người đàn ông ngồi nghỉ ngơi một cách vương giả Pho tượng này thuộc loại thần Vishnu, thường thấy ở Ấn Độ, Myanmar, Lào và được tạc vào cuối thế kỷ.
Tượng Vishnu, một hiện vật quý giá của nền văn hóa Óc-Eo, có nguồn gốc từ Ấn Độ và là thần Bảo tồn trong Bà La Môn giáo Pho tượng đá trên núi Sam, có thể đã bị người Phù Nam bỏ quên từ lâu, được phát hiện vào khoảng năm 1820-1825 khi lưu dân Việt đến khai phá vùng đất này Sau đó, họ đã mang tượng thần xuống chân núi, sửa sang và lập miếu thờ, từ đó miếu trở thành trung tâm của tín ngưỡng thờ Bà Chúa Xứ.
Di tích chùa Tây An
Núi Sam, nằm ở thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, là một khu di tích lịch sử văn hóa nổi tiếng với cảnh đẹp thiên nhiên và nhiều chùa chiền, lăng mộ cổ hàng trăm năm Du khách sẽ dễ dàng nhận thấy chùa Tây An lộng lẫy trên vách núi Sam hùng vĩ khi di chuyển từ Châu Đốc Chùa được xây dựng gần hai thế kỷ trước và đã trải qua nhiều lần sửa chữa, trùng tu Với kiến trúc cổ dân tộc kết hợp phong cách Ấn Độ và Hồi giáo, chùa Tây An nổi bật với các phù điêu chạm khắc bằng gỗ quý, thể hiện ý nghĩa cuộc sống theo triết lý Phật giáo, thu hút sự tôn kính của nhiều người.
Chùa Tây An, một danh thắng nổi bật ở núi Sam, đã trải qua hơn hai thế kỷ với nhiều biến cố lịch sử, từ chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp đến đế quốc Mỹ và chế độ diệt chủng Pôn-Pốt Dù trải qua những thăng trầm, chùa vẫn giữ được vẻ đẹp trang nghiêm, thu hút du khách đến lễ bái và tham quan Dưới sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, cùng sự hỗ trợ của Giáo hội và chính quyền địa phương, các đời Trụ trì đã không ngừng tôn tạo, làm cho chùa ngày càng khởi sắc Ngày 10 tháng 07 năm 1980, Bộ Văn hóa đã công nhận chùa Tây An là Di tích lịch sử và danh thắng cấp quốc gia, khẳng định giá trị văn hóa lớn của di tích trong kho tàng di sản văn hóa Việt Nam.
2.5.1 Lịch sử hình thành chùa Tây An
Năm 1847, Tổng đốc An-Hà (An Giang và Hà Tiên) là Doãn Uẩn (1795-
Vào năm 1850, nhờ vào chiến công đánh đuổi quân Xiêm La và bình định Chân Lạp, một ngôi chùa được xây dựng với tường gạch, nền cuốn đá xanh và mái lợp ngói Ngôi chùa này được đặt tên là Tây An tự, mang ý nghĩa trấn yên vùng đất phía Tây.
Chùa Tây An, được xây dựng vào năm 1847 tại ngã ba núi Sam, đã trải qua nhiều lần trùng tu và sửa chữa Năm 1861, hòa thượng Nhất Thừa đã nâng cấp chính điện và hậu tổ, tiếp theo là sự đóng góp của hòa thượng Huệ Quang vào năm 1893 với việc xây dựng nhà Tây lang và tháp sư cụ Năm 1958, hòa thượng Nguyễn Thế Mật vận động xây dựng ba ngôi lầu mới và sửa chữa chính điện Đến năm 1985, hòa thượng Bửu Thọ đã thực hiện nâng cấp toàn diện, mở rộng khuôn viên lên 1.250 mét vuông, có điện nước phục vụ cho hơn 1.000 người và hiện đang lưu giữ gần 200 tượng Phật.
Các vị trụ trì, theo truyền thống yêu nước của Phật thầy Tây An, đã hỗ trợ và giúp đỡ nhiều cán bộ cách mạng trong thời kỳ chống Mỹ Hòa thượng Thích Bửu Thọ vinh dự nhận Huân chương kháng chiến hạng nhất từ nhà nước.
2.5.2 Không gian, kiến trúc chùa Tây An
Chùa và núi là hai thực thể không thể tách rời, giống như máu thịt và cây cối với đất đai Chùa không chỉ làm cho núi thêm phần thiêng liêng mà núi cũng tôn vinh vẻ đẹp của chùa Thoại Ngọc Hầu (1761-1829) đã mô tả vẻ đẹp của núi Vĩnh Tế qua hình ảnh chân núi trắng phau, ngọn tre xanh mướt, và khung cảnh tươi đẹp với dòng nước biếc và ruộng vườn bao quanh Hơi khói từ nấu cơm và chùa chiền tỏa hương giữa mây hồng tạo nên một bức tranh phong cảnh không kém phần tuyệt mỹ như Trung Châu.
Chùa Tây An trên núi trông giống như nhà sư áo vàng trầm tư hướng về thành phố ngã ba sông nhộn nhịp tàu xe tấp nập
Chùa Tây An tỏa sáng rực rỡ dưới ánh nắng vàng với sự hòa quyện giữa màu sắc nhân tạo và màu sắc thiên nhiên Những bảo tháp cổ kính mang đậm nét văn hóa phương Đông phản ánh tấm lòng mộ đạo sâu sắc của người dân Việt Nam, đặc biệt là cộng đồng Châu Đốc.
Ngôi chùa lộng lẫy với ba tầng mái tròn hình củ hành, mang đậm ảnh hưởng kiến trúc Ấn Độ và Hồi giáo, cùng với mái cong vút như mũi thuyền lướt sóng Bên trong, chùa vẫn giữ được những đặc trưng văn hóa dân tộc độc đáo.
Chùa Tây An, biểu tượng của Phật giáo Việt Nam, nổi bật với kiến trúc chữ Tam và mái nhị cấp lợp ngói đại Đặc biệt, đại hồng chung được ghi nhận từ triều Tự Đức, đã tồn tại hơn 150 năm và vẫn giữ nguyên giá trị nghệ thuật đúc chuông xưa Tiếng chuông ngân vang, hòa quyện giữa âm trầm bổng, thể hiện sự tinh tế của nghệ nhân khi kết hợp vàng và đồng Sự bền bỉ của chuông cổ chùa Tây An, chưa từng bị phân kim, là điều đáng tự hào và ngợi ca.
Khi bước lên chín bậc thềm vào cổng chùa và dừng lại tại cổng Tam quan, du khách sẽ thấy tượng Mẹ bồng con, tượng trưng cho lòng từ bi vô hạn và gợi nhớ đến tích xưa về Quan Âm Thị Kính.
Sân chùa có cặp voi to, trong đó voi đen với hai ngà tượng trưng cho sức mạnh và sự đối đãi giữa thiện ác, còn voi trắng với sáu ngà biểu trưng cho lục căn thanh tịnh Theo văn học Ấn Độ, sư tử đại diện cho vua thế pháp, trong khi voi là biểu tượng cho vua đạo pháp Mặc dù sư tử được coi là chúa sơn lâm, nhưng vẫn tôn trọng voi vì trí khôn, sức mạnh và sự hiền lành của chúng, sống bằng rau quả mà không sát hại sinh linh.
Chùa Địa Tạng Vương Bồ Tát nằm bên phải trước mộ tháp, trong khi bên trái là nhà khói rộng rãi, nơi khách hành hương có thể nghỉ ngơi Trước chùa có hai tượng Quan Âm, một mặc áo xanh và một áo trắng, đều biểu trưng cho sự từ bi Chánh điện thờ Phật theo dòng thiền Lâm Tế, với tượng Phật Thích Ca lớn ở giữa cùng các tượng Di Đà, Quan Âm, Tam Thế Phật và Đại Thế Chí Xung quanh là các vị thập bát La Hán, bát bộ Kim Cang, và Tam Hoàng Ngũ Đế, tạo nên không gian linh thiêng và trang nghiêm cho tín đồ.
Hậu tổ thờ các vị sư trụ trì chùa Tây An với những bức tượng gỗ uy nghiêm và hiền triết Đặc biệt, tượng Hòa thượng Thích Bửu Thọ, người có công lớn trong việc trùng tu chùa, được tạc sinh động như người thật, tay cầm gậy và ngồi nơi bàn viết, thể hiện cốt cách siêu phàm.
Pháp Tạng thiền sư, người sáng lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương và được gọi là Phật thầy Tây An, có tên thật là Đoàn Minh Huyên, sinh năm 1807 tại làng Tòng Sơn, Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp Là một chí sĩ yêu nước, ông bất mãn với triều đình phong kiến và thường giúp đỡ dân nghèo, dẫn đến việc bị quân lính nghi ngờ Ông đến chùa Tây An dưới sự trụ trì của thiền sư Hải Tịnh, và mặc dù ở núi Sam, ông đã mở rộng canh tác và lập trại ruộng để hỗ trợ người nghèo Pháp Tạng có nhiều đệ tử nổi tiếng, trong đó có anh hùng kháng chiến Trần Văn Thành, người đã khởi nghĩa tại Láng Linh, gây ra nỗi khiếp sợ cho thực dân Pháp, cùng với nhiều đệ tử khác như ông Tăng Chủ, ông Đình Tây, Đạo Xuyến, Đạo Ngoan, và Đạo Lập.
Phật thầy Tây An viên tịch vào ngày 12 tháng 08 năm 1856, thọ 50 tuổi, và là người kế nhiệm ngài Hải Tịnh (1788-1875), với nhiều đóng góp lớn cho việc hoằng hóa, được tôn sùng là Phật thầy Trước khi qua đời, ông dặn dò đệ tử không được đắp nấm cho mộ phần của mình Tuy nhiên, để bảo vệ ngôi mộ và tạo điều kiện cho người đời sau dễ dàng chiêm bái, các đệ tử đã xây dựng vòng rào và lập một miếu thờ khang trang Ngôi mộ của ngài nằm phía sau chùa, chếch lên triền núi, dưới tàng cây râm mát Đến tháng 6 năm Kỷ Mão (1939), ngôi mộ đã được trùng tu và khang trang như ngày nay, với trụ cửa khắc hai câu đối.