1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quan hệ chính trị ngoại giao, an ninh – quốc phòng giữa nhật bản và việt nam từ năm 2010 đến năm 2017

145 27 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quan Hệ Chính Trị - Ngoại Giao, An Ninh – Quốc Phòng Giữa Nhật Bản Và Việt Nam Từ Năm 2010 Đến Năm 2017
Tác giả Nguyễn Thị Yến
Người hướng dẫn TS. Lê Thế Cường
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch Sử Thế Giới
Thể loại Luận Văn
Năm xuất bản 2018
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 145
Dung lượng 3,56 MB

Cấu trúc

  • A. MỞ ĐẦU (5)
    • 1. Lý do chọn đề tài (5)
    • 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn (0)
    • 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (11)
    • 5. Nguồn tài liệu, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu (12)
    • 6. Đóng góp của luận văn (13)
    • 7. Bố cục của đề tài (13)
  • B. NỘI DUNG Chương 1. NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO, AN NINH – QUỐC PHÒNG NHẬT BẢN – VIỆT NAM TỪ NĂM (0)
    • 1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực (14)
      • 1.1.1. Bối cảnh quốc tế (14)
      • 1.1.2. Bối cảnh khu vực (16)
    • 1.2. Quan hệ Nhật Bản và Việt Nam trước năm 2010 (20)
    • 1.3. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản và chính sách của Nhật Bản đối với Việt Nam (24)
    • 1.4. Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và chính sách của Việt Nam đối với Nhật Bản (33)
    • 1.5. Quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội Nhật Bản – Việt Nam từ 2010 đến 2017 (38)
    • 2.1. Quan hệ chính trị - ngoại giao (44)
    • 2.2. Quan hệ an ninh – quốc phòng (61)
    • 2.3. Quan điểm của Nhật Bản với chủ quyền của Việt Nam ở Biển Đông (71)
  • Chương 3 MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO, AN (14)
    • 3.1. Những nét nổi bật trong quan hệ chính trị – ngoại giao, an ninh – quốc phòng giữa Nhật Bản và Việt Nam (2010 – 2017) (88)
    • 3.2. Tác động của quan hệ chính trị - ngoại giao, an ninh - quốc phòng Nhật Bản – Việt Nam (94)
      • 3.2.1. Đối với Việt Nam (94)
      • 3.2.2. Đối với Nhật Bản (96)
      • 3.2.3. Đối với khu vực Đông Á (99)
    • 3.3. Thuận lợi, thách thức và triển vọng (100)
      • 3.3.1. Thuận lợi và thách thức (100)
      • 3.3.2. Triển vọng (106)
    • C. KẾT LUẬN (0)
    • D. TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)
    • E. PHỤ LỤC (0)

Nội dung

NỘI DUNG Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO, AN NINH – QUỐC PHÒNG NHẬT BẢN – VIỆT NAM TỪ NĂM

Bối cảnh quốc tế và khu vực

Chiến tranh lạnh kết thúc mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ quốc tế

Sự thay đổi cục diện chiến lược quốc tế và quá trình thiết lập trật tự mới đã buộc các nước lớn điều chỉnh chính sách để giành ưu thế trong quan hệ quốc tế Sau Chiến tranh lạnh, hòa bình hợp tác trở thành xu thế chủ đạo, trong khi toàn cầu hóa thúc đẩy sự liên kết và cạnh tranh giữa các quốc gia Mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc, nhưng các điểm nóng như Triều Tiên, Đài Loan, Campuchia và vấn đề vũ khí hạt nhân vẫn chưa được giải quyết triệt để Đồng thời, những mâu thuẫn mới về sắc tộc, tôn giáo và dân tộc cũng đang nổi lên, cùng với các vấn đề toàn cầu như tài nguyên, năng lượng và ô nhiễm môi trường ngày càng cấp thiết Những thách thức này yêu cầu các quốc gia hợp tác để giải quyết, tạo điều kiện cho mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam ngày càng phát triển.

Cuộc cách mạng khoa học - kĩ thuật đang diễn ra mạnh mẽ đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống chính trị toàn cầu, làm thay đổi các giá trị và tăng cường sự kết nối giữa các quốc gia Sự phát triển này đã dẫn đến việc củng cố mối quan hệ song phương và đa phương, thúc đẩy hợp tác quốc tế Các quốc gia đang nỗ lực chiếm lĩnh thành tựu khoa học công nghệ, phát triển kinh tế và tích trữ năng lượng chiến lược để không ngừng tiến bộ và gắn kết nhân loại lại gần nhau hơn.

Kỹ thuật đã tạo ra nhiều thách thức mới, làm thay đổi cách thức tương tác giữa các quốc gia, trong đó chiến tranh quân sự ngày càng được thay thế bằng chiến tranh công nghệ cao Cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật, cùng với sự phát triển nhanh chóng của toàn cầu hóa và khu vực hóa, đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới Quá trình toàn cầu hóa đã làm cho các quốc gia xích lại gần nhau hơn, đặc biệt là mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, thế giới đang chuyển mình để thiết lập một trật tự mới, trong đó tư duy chiến tranh hòa bình trở thành xu hướng chủ đạo Sức mạnh kinh tế ngày càng đóng vai trò quyết định trong cục diện quốc tế, buộc các quốc gia phát triển phải đầu tư vào kinh tế và xây dựng mối quan hệ với các lực lượng trung gian để khẳng định vị thế của mình Nhật Bản, với nền kinh tế đứng thứ ba thế giới, đang nỗ lực vươn lên trong khu vực châu Á, đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ với Đông Nam Á, khu vực có vị trí địa chiến lược quan trọng.

Năm 2008, nền kinh tế toàn cầu đối mặt với ba cú sốc lớn: khủng hoảng lương thực, khủng hoảng dầu mỏ và khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ Tình hình kinh tế gặp nhiều khó khăn, với nhiều nền kinh tế lớn như Nhật Bản và EU tuyên bố rơi vào suy thoái, trong khi Mỹ lần đầu tiên sau tám năm chính thức thừa nhận khủng hoảng Nga cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng do giá dầu giảm mạnh và nhu cầu xây dựng giảm, tác động xấu đến hàng hóa xuất khẩu Tại Châu Á, đồng won của Hàn Quốc cũng sụt giảm đáng kể.

Nhật Bản và Singapore đang đối mặt với khủng hoảng tài chính, dẫn đến sản xuất doanh nghiệp suy giảm, gia tăng số lượng công ty phá sản và tình trạng thất nghiệp gia tăng Trong bối cảnh này, việc các quốc gia hợp tác để giải quyết hậu quả của cuộc khủng hoảng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết.

Thế kỷ XXI được coi là thời kỳ của châu Á - Thái Bình Dương, nơi có sự hiện diện của nhiều nền kinh tế lớn như Mỹ, Nga, Trung Quốc và Nhật Bản, cùng với các nền kinh tế mới nổi như Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Hồng Kông, cũng như các quốc gia đang phát triển như Thái Lan và Việt Nam Khu vực này không chỉ rộng lớn và giàu tài nguyên thiên nhiên mà còn có vị trí chính trị quan trọng và tiềm năng phát triển kinh tế mạnh mẽ Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, châu Á đã trở thành một khu vực ổn định hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hợp tác và phát triển kinh tế đa dạng Nhiều chuyên gia nhận định rằng nền kinh tế thế giới đang dịch chuyển từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, với yếu tố kinh tế khu vực ngày càng đóng vai trò quyết định trong đời sống quốc tế.

Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, mặc dù có nhiều cơ hội phát triển, nhưng cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức và bất ổn Một trong những vấn đề chính là sự thiếu chắc chắn trong quan hệ giữa các cường quốc như Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc; trong đó, quan hệ Mỹ - Nhật tương đối tốt nhưng vẫn tồn tại những bất đồng về kinh tế Ngược lại, quan hệ Mỹ - Trung gặp nhiều khó khăn, không chỉ về dân chủ và nhân quyền mà còn về các vấn đề phức tạp như Tây Tạng và Đài Loan Bên cạnh đó, các điểm nóng trong khu vực như mâu thuẫn trên Bán đảo Triều Tiên, tranh chấp giữa Trung Quốc và Đài Loan, cũng như các tranh chấp lãnh thổ giữa Trung Quốc với Nhật Bản, Nga và các nước ASEAN vẫn chưa được giải quyết triệt để Những vấn đề này có thể tạm lắng nhưng lại dễ dàng bùng phát trở lại, gây ra bất ổn trong khu vực Thêm vào đó, các vấn đề an ninh phi quân sự như năng lượng, lương thực và môi trường cũng đang trở thành mối quan tâm lớn.

Mối quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi bối cảnh khu vực và chính sách của Mỹ Mỹ, với sức mạnh kinh tế và chính trị sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã tác động lớn đến Nhật Bản, quốc gia vừa bại trận và kiệt quệ sau Chiến tranh thế giới thứ hai Để phục hồi kinh tế, Nhật Bản chấp nhận bảo hộ an ninh từ Mỹ, dẫn đến việc chính sách đối ngoại của Nhật Bản bị ảnh hưởng sâu sắc Nhật Bản đã hỗ trợ Mỹ trong cuộc chiến chống Bắc Việt Nam và cho phép sử dụng căn cứ quân sự tại đây Đến đầu những năm 70, khi tình hình thế giới thay đổi và cuộc chiến ở Việt Nam kết thúc, Nhật Bản đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam vào năm 1973, đánh dấu một bước chuyển mới trong mối quan hệ giữa hai quốc gia.

Năm 1978, Mỹ đã đơn phương chấm dứt quá trình bình thường hóa quan hệ với Việt Nam và kêu gọi đồng minh Nhật Bản tham gia vào việc cô lập Việt Nam Bắt đầu từ năm 1980, Nhật Bản đã thể hiện rõ ràng lập trường này.

Cuối những năm 90, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Nhật Bản đã khôi phục quan hệ với Việt Nam khi nhận thấy dấu hiệu tích cực từ Mỹ, đặc biệt sau khi Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vào năm 1994 Bước vào thế kỷ XXI, dưới thời Tổng thống Obama, chính sách "xoay trục sang châu Á – Thái Bình Dương" đã thúc đẩy mối quan hệ Nhật – Việt, khi Mỹ muốn tăng cường ảnh hưởng tại Việt Nam thông qua đối tác chiến lược Nhật Bản, một quốc gia có vị trí địa chiến lược quan trọng trong khu vực Đông Nam Á và châu Á – Thái Bình Dương.

Trong những năm qua, Trung Quốc đã thu hút sự chú ý toàn cầu nhờ sự trỗi dậy của quốc gia đông dân nhất thế giới Sự phát triển kinh tế ấn tượng và chính sách ngoại giao linh hoạt đã tạo ra sự chuyển biến cho khu vực châu Á, đặc biệt là Đông Á Với tốc độ tăng trưởng 10% sau khi mở cửa, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, vượt qua Nhật Bản Tuy nhiên, sự gia tăng sức mạnh này cũng tạo ra lo ngại về an ninh cho Nhật Bản và nhiều nước trong khu vực Trung Quốc đã đầu tư mạnh mẽ vào quân đội, hiện đại hóa lực lượng hải quân, không quân và lục quân, khiến Nhật Bản đặc biệt lo lắng trước những hành động của nước này Vào thế kỷ XXI, Trung Quốc không còn là một quốc gia "ẩn mình chờ thời" mà đã khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.

“Giấc mộng Trung Hoa” của Trung Quốc gắn liền với Biển Đông, nơi mà nước này đã có những hành động gây hấn với các quốc gia Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam Lập trường cứng rắn của Trung Quốc trong tranh chấp Trường Sa đã thu hút sự chú ý của Nhật Bản, đặc biệt là trong bối cảnh tranh chấp quần đảo Senkaku (Điếu Ngư) Những căng thẳng này đã thúc đẩy sự hợp tác giữa Việt Nam và Nhật Bản, nhằm đối phó với những diễn biến mới ở Biển Đông Các quốc gia trong khu vực cũng lo ngại rằng sự trỗi dậy và hiện đại hóa của Trung Quốc có thể đe dọa đến an ninh của họ Để thực hiện “giấc mộng Trung Hoa”, Trung Quốc đang gia tăng ảnh hưởng tại Đông Nam Á, nơi mà Nhật Bản cũng mong muốn mở rộng quan hệ và ảnh hưởng Nhật Bản cần chú trọng đến các nước trong khu vực, bao gồm Việt Nam, để khẳng định vai trò của mình và hạn chế sự gia tăng của Trung Quốc.

Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng, nằm trên ngã tư đường giao thông hàng hải quốc tế, kết nối lợi ích của nhiều quốc gia Với hơn 3000km đường bờ biển tiếp giáp với Biển Đông, nơi có lượng hàng hóa của Nhật Bản đi qua, Việt Nam có khả năng đa dạng hóa và lựa chọn các mối quan hệ có lợi cho sự phát triển Điều này thúc đẩy mối quan hệ với Nhật Bản, phù hợp với chính sách "trở lại châu Á" của nước này.

Bối cảnh quốc tế và khu vực vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI đã thúc đẩy mối quan hệ Nhật Bản - Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đặc biệt trong các lĩnh vực chính trị, ngoại giao và an ninh quốc phòng.

Quan hệ Nhật Bản và Việt Nam trước năm 2010

Nhật Bản và Việt Nam có mối quan hệ lịch sử lâu dài, bắt đầu từ những ngày đầu giao thương, đặc biệt là trong thời kỳ chúa Nguyễn Ngày 21/7/1973, Nhật Bản chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sau năm 1975, hai quốc gia đã thiết lập quan hệ ngoại giao thông qua việc trao đổi Đại sứ quán Đồng thời, họ ký kết thỏa thuận về việc Chính phủ Nhật Bản bồi thường chiến tranh, coi đây là viện trợ không hoàn lại dành cho Việt Nam.

Giai đoạn 1979-1991 là thời kỳ khó khăn trong quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, khi Nhật Bản ngừng viện trợ do vấn đề Campuchia và đặt điều kiện rút quân khỏi Campuchia để mở lại viện trợ Đồng thời, Nhật Bản phối hợp với Mỹ và các nước phương Tây để ngăn chặn các tổ chức tài chính quốc tế cung cấp tài chính cho Việt Nam, dẫn đến mối quan hệ chính trị giữa hai nước rất hạn chế.

Sau khi Hiệp định Paris về Campuchia được ký kết vào tháng 10/1991, Nhật Bản đã tích cực cải thiện quan hệ ngoại giao với Việt Nam Tháng 11/1992, Nhật Bản nối lại các khoản vay cho Việt Nam, đồng thời chứng kiến làn sóng đầu tư mạnh mẽ từ các công ty Nhật Bản Hai nước đã ký nhiều hiệp định hợp tác, bao gồm hợp tác khoa học kỹ thuật và đầu tư, thông qua các chuyến thăm cấp cao Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Nhật Bản vào tháng 3/1993, và Thủ tướng Nhật Bản Murayama Tomichi thăm Việt Nam vào tháng 8/1994, với mong muốn mở ra một kỷ nguyên mới cho quan hệ Việt Nam – Nhật Bản.

Tháng 4/1995, Tổng bí thư Đỗ Mười sang thăm chính thức Nhật Bản theo lời mời của Thủ tướng Murayana Đến tháng 1/1996, Hội nghị “Hợp tác kinh tế

Nhật Bản – Việt Nam” lần thứ nhất đã khai mạc ở Tokyo, mở ra bước ngoặt quan trọng trong quan hệ hợp tác kinh tế

Trong lịch sử quan hệ Việt-Nhật, các chuyến thăm cấp cao đã đóng vai trò quan trọng Vào tháng 1/1997, Thủ tướng Nhật Bản Hashimoto đã thực hiện chuyến thăm hữu nghị chính thức đến Việt Nam Tiếp theo, vào tháng 12/1998, Thủ tướng K Obuchi đã thăm Việt Nam nhân dịp Hội nghị thượng đỉnh ASEAN lần thứ 6 Đến tháng 3/1999, Thủ tướng Phan Văn Khải đã dẫn đầu phái đoàn cấp cao sang thăm Nhật Bản.

Vào tháng 10/2002, Nhật Bản và Việt Nam chính thức công nhận mối quan hệ “đối tác” trong cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Koizumi và Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh Thông cáo báo chí chung Nhật – Việt được phát hành vào ngày 4/10/2002 nhấn mạnh sự phát triển mạnh mẽ và toàn diện trong quan hệ hai nước Hai bên cam kết đóng góp tích cực cho hòa bình, ổn định và phồn vinh của khu vực, đồng thời khẳng định tinh thần hợp tác dựa trên sự tin tưởng lẫn nhau và bình đẳng, với mục tiêu “cùng hành động cùng tiến bước” tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương.

Vào tháng 4 năm 2003, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa Nhật Bản và Việt Nam, Thủ tướng Phan Văn Khải đã có chuyến thăm Nhật Bản với tư cách là khách mời nhà nước Tiếp đó, vào ngày 3 tháng 7 năm 2004, trong chuyến thăm Việt Nam, Ngoại trưởng Nhật Bản Kawaguchi và Ngoại trưởng Nguyễn Dy Niên đã công bố một tuyên bố chung, đánh dấu sự phát triển của mối quan hệ hai nước.

Vào tháng 10/2006, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã thăm Nhật Bản, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong quan hệ đối tác bền vững giữa hai quốc gia Trong cuộc hội đàm với các nhà lãnh đạo Nhật Bản, hai bên đã ra tuyên bố chung nhằm hướng tới một đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh tại châu Á.

Vào ngày 27/11/2007, trong chuyến thăm Nhật Bản, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có buổi hội đàm với Thủ tướng Fukuda Yasuo Tại đây, hai bên đã ra Tuyên bố chung nhằm làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam.

Chương trình hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam hướng tới quan hệ đối tác chiến lược đã được củng cố, đặc biệt trong chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 4/2009 Tại cuộc hội đàm, Thủ tướng hai nước đã nhất trí tiếp tục phát triển mối quan hệ này vì hòa bình và phồn vinh của châu Á Nhật Bản trở thành quốc gia đầu tiên trong nhóm G-7 thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với Việt Nam, thể hiện sự cam kết mạnh mẽ giữa hai bên.

Vào tháng 10/2010, Thủ tướng Nhật Bản Naoto Kan đã có chuyến thăm Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của Tuyên bố chung Việt Nam – Nhật Bản về việc phát triển toàn diện quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh tại châu Á Tuyên bố này thể hiện cam kết mạnh mẽ của hai quốc gia trong việc thúc đẩy hợp tác đa lĩnh vực, góp phần vào sự ổn định và phát triển bền vững trong khu vực.

Thông qua các cuộc gặp gỡ giữa các nhà lãnh đạo cấp cao của Nhật Bản và Việt Nam, nhiều hiệp định và tuyên bố chung đã được ký kết, góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa hai nước trên nhiều lĩnh vực ngày càng phát triển.

Hai nước Việt Nam và Nhật Bản đã tăng cường hợp tác thông qua việc trao đổi Tùy viên quân sự và mở Tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với lãnh sự quán Việt Nam ở Osaka vào tháng 3/1997 và Fukuoka vào tháng 4/2009 Đặc biệt, Ủy ban Hợp tác Việt – Nhật được thành lập vào tháng 5/2007, do hai bộ trưởng Ngoại giao làm đồng Chủ tịch, đã tổ chức 3 phiên họp cho đến nay.

Nhật Bản hỗ trợ Việt Nam trong quá trình đổi mới và mở cửa, góp phần giúp Việt Nam hội nhập vào các tổ chức khu vực và quốc tế như APEC, WTO, ASEM và ARF Cả hai quốc gia đều cam kết ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn quốc tế quan trọng, bao gồm Liên Hợp Quốc.

Nhật Bản và Việt Nam đã áp dụng thuế suất tối huệ từ năm 1999, tạo điều kiện thuận lợi cho mậu dịch giữa hai nước Việt Nam chủ yếu xuất khẩu thủy sản, dệt may, dầu thô, than đá, và đồ gỗ, trong khi đó, Nhật Bản nhập khẩu các mặt hàng như máy móc, thiết bị điện tử, dụng cụ, phụ tùng, linh kiện ô tô, và nguyên liệu dệt.

Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Nhật Bản và chính sách của Nhật Bản đối với Việt Nam

Nhật Bản đối với Việt Nam

Nhật Bản, quốc đảo nằm ở Đông Bắc châu Á trên Thái Bình Dương, được biết đến với biệt danh "đất nước mặt trời mọc" và "xứ sở hoa anh đào" Quần đảo này gồm khoảng 6.852 hòn đảo, với khí hậu ôn đới và bốn mùa rõ rệt Bốn hòn đảo lớn nhất là Honshu, Hokkaido, Shikoku và Kyushu, chiếm khoảng 97% diện tích đất liền, chủ yếu là rừng và đồi núi, trong khi tài nguyên thiên nhiên khá hạn chế.

Theo Hiến pháp năm 1947, Nhật Bản là một quốc gia quân chủ lập hiến với nhà Vua giữ vai trò Nguyên thủ tượng trưng về mặt ngoại giao Hệ thống chính trị của Nhật Bản được tổ chức theo chế độ tam quyền phân lập và đa đảng Đảng Dân chủ tự do (LDP) là đảng chính trị mạnh nhất, cầm quyền gần như liên tục từ năm 1955 đến 2009 Từ năm 2009 đến 2012, Đảng Dân chủ nắm quyền thay thế LDP, nhưng từ năm 2012, Đảng Dân chủ tự do đã trở lại cầm quyền Quốc hội Nhật Bản hiện nay bao gồm các nghị sỹ thuộc nhiều đảng phái khác nhau.

Nhật Bản có 10 đảng phái chính trị khác nhau, và quyền bầu cử được thực hiện theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu cho công dân từ 18 tuổi, với phương thức bỏ phiếu kín tại các điểm bầu cử Thủ tướng Nhật Bản, người đứng đầu chính phủ, được Quốc hội chọn lựa từ các nghị sĩ và được thiên hoàng sắc phong Thông thường, lãnh đạo đảng có đa số ghế trong Quốc hội sẽ được giới thiệu làm Thủ tướng Trong cuộc tổng tuyển cử năm 2012, Đảng Dân chủ Tự do giành chiến thắng áp đảo, đưa Shinzo Abe trở thành Thủ tướng thứ sáu của Nhật Bản, nhậm chức trong vòng 6 năm.

Nhật Bản, mặc dù thiếu tài nguyên thiên nhiên và có dân số đông, đã phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đất nước này bị tàn phá nặng nề, nhưng nhờ các chính sách phù hợp, kinh tế Nhật Bản đã phục hồi nhanh chóng và phát triển mạnh mẽ Từ năm 1974 đến 1989, tăng trưởng kinh tế chậm lại và đến năm 1990 rơi vào khủng hoảng, nhưng Nhật Bản vẫn duy trì vị trí nền kinh tế lớn thứ ba thế giới Trong giai đoạn 1990-2010, Nhật Bản vươn lên vị trí thứ hai toàn cầu, với GDP đạt 4.730 tỷ USD vào năm 2016 và GDP trên đầu người là 40.090 USD (2017), đứng thứ ba thế giới và thứ hai châu Á Cán cân thương mại thặng dư và dự trữ ngoại tệ lớn giúp Nhật Bản trở thành nước cho vay và viện trợ tái thiết lớn nhất thế giới Nền kinh tế Nhật Bản phát triển đa dạng với nhiều lĩnh vực như ngân hàng, bảo hiểm, bất động sản, giao thông và viễn thông, đồng thời là trung tâm công nghệ sản xuất tiên tiến về xe có động cơ, điện tử, công cụ máy móc, công nghiệp tàu thủy và dệt may Ngành xây dựng cũng đã trở thành một trong những ngành công nghiệp chủ chốt tại đất nước mặt trời mọc.

Dân số Nhật Bản khoảng 127 triệu người (năm 2013), chủ yếu sống tại các vùng đồng bằng nhỏ hẹp, với gần 9,1 triệu người ở trung tâm Tokyo Dân cư phân bố không đồng đều, tập trung chủ yếu ở vành đai Thái Bình Dương Mặc dù Nhật Bản có tuổi thọ cao nhất thế giới, dân số đang lão hóa do hậu quả của sự bùng nổ dân số sau Chiến tranh thế giới thứ hai Để cung cấp nguồn lao động cho nền kinh tế đứng thứ ba thế giới, chính phủ khuyến khích sinh đẻ và gia tăng nhập cư Khoảng 84% đến 96% dân số theo Phật giáo đại thừa và Thần đạo, trong khi khoảng 1 triệu người theo Cơ đốc giáo.

Quan hệ Nhật Bản - Việt Nam đang ở giai đoạn tốt đẹp nhất trong lịch sử, được thúc đẩy bởi nhiều yếu tố, đặc biệt là chính sách tích cực của Nhật Bản đối với Việt Nam.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, thế giới đã trải qua nhiều biến động sâu sắc Các dân tộc và quốc gia, đặc biệt là các cường quốc lớn như Nhật Bản, đã điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình để phù hợp với tình hình khu vực và quốc tế, nhằm đáp ứng tối đa lợi ích của từng nước.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc và trật tự hai cực Ianta sụp đổ, một trật tự thế giới mới đang hình thành, trong đó ảnh hưởng của Mỹ đối với các đồng minh giảm sút Các quốc gia lớn đang tìm cách khẳng định vai trò và độc lập của mình trong các vấn đề quốc tế Trong bối cảnh này, kinh tế trở thành yếu tố then chốt, tạo điều kiện cho Nhật Bản, một cường quốc kinh tế, thể hiện vai trò chính trị trên trường quốc tế Nhật Bản áp dụng chính sách sử dụng "sức mạnh khổng lồ về kinh tế" để nâng cao vị thế chính trị, từ đó thúc đẩy tiềm lực quốc gia Bằng cách tận dụng sức mạnh kinh tế và khoa học – kỹ thuật, Nhật Bản có thể giành lấy vai trò trong chính trị và an ninh, đồng thời điều chỉnh chính sách đối ngoại để bảo vệ lợi ích kinh tế ngày càng tăng trong khu vực và toàn cầu.

Vào đầu những năm 90, châu Á - Thái Bình Dương đã trở thành khu vực phát triển năng động nhất thế giới, với các nước Đông Nam Á duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao Khu vực này đã trải qua những biến đổi lớn trong phát triển kinh tế, văn hóa xã hội và an ninh chính trị ổn định, trở thành trọng điểm trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản.

Sau Chiến tranh Lạnh, Nhật Bản, mặc dù là cường quốc kinh tế thứ hai thế giới, đang đối mặt với nhiều thách thức về kinh tế và chính trị Vị trí của Nhật Bản trong khu vực đã cao hơn nhưng bị cạnh tranh bởi các cường quốc đang phát triển như Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như sự trỗi dậy của Nga và vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên Nhật Bản đang thực hiện cải cách kinh tế và duy trì chính sách ngoại giao đa phương, tuy nhiên, chính sách thân Mỹ vẫn là trụ cột trong quan hệ quốc tế của nước này Trong bối cảnh quốc tế biến động, Nhật Bản tìm kiếm vị thế mới, mở rộng ảnh hưởng kinh tế và chính trị, đặc biệt tại Đông Nam Á, nơi mà Nhật Bản muốn tăng cường vai trò cạnh tranh với Mỹ, châu Âu và Trung Quốc Nhật Bản cũng hướng tới việc dẫn dắt đối thoại an ninh và xây dựng cơ chế an ninh khu vực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế trong khu vực.

Dựa trên nền tảng kinh tế vững mạnh, Nhật Bản đã linh hoạt điều chỉnh chính sách đối ngoại để xây dựng vị thế độc lập và toàn diện Chính sách ngoại giao của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào việc củng cố vị thế quốc tế và phát triển quan hệ đối tác chiến lược.

Nhật Bản đang tăng cường vai trò của mình trong quan hệ với Mỹ, tìm kiếm vị thế độc lập hơn trong giải quyết các vấn đề quốc tế, nhưng vẫn coi liên minh Mỹ - Nhật là trụ cột an ninh Hai bên đã tái khẳng định hợp tác chặt chẽ qua nhiều hiệp ước, đặc biệt là "Tuyên bố về đảm bảo an ninh thế kỷ XXI", xác nhận rằng quan hệ an ninh Mỹ - Nhật là nền tảng chính trong chính sách an ninh của mỗi nước ở châu Á - Thái Bình Dương Sau Chiến tranh lạnh, Nhật Bản đã điều chỉnh vai trò của mình để cùng Mỹ lãnh đạo thế giới một cách bình đẳng Liên minh vững chắc với Mỹ không chỉ là cơ sở quan trọng cho Nhật Bản trong việc đạt được các mục tiêu đối ngoại, mà còn giúp nước này tranh giành một ghế trong Hội đồng Bảo an và tự tin hơn trong việc chinh phục châu Á, cạnh tranh với Trung Quốc.

Nhật Bản đang quay trở lại châu Á với mục tiêu giành vai trò chủ đạo trong khu vực Chính sách đối ngoại truyền thống của nước này thường bị chỉ trích vì bị ảnh hưởng bởi chủ nghĩa thương mại và sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc.

Kể từ sau Chiến tranh lạnh, chính sách đối ngoại của Nhật Bản chủ yếu thể hiện qua các sáng kiến đa phương, đặc biệt là trong những năm gần đây Đông Nam Á luôn là khu vực trọng tâm trong chiến lược đối ngoại của Nhật Bản, điều này được minh chứng qua các chuyến thăm của Thủ tướng Nhật Bản đến khu vực này từ năm 2000 Đặc biệt, vào tháng 1/2002, Thủ tướng Koizumi Junichiro đã thăm năm quốc gia Đông Nam Á và làm rõ chiến lược của Nhật Bản trong khuôn khổ APT.

Vào tháng 8 năm 2007, Thủ tướng Shinzo Abe đã thăm Malaysia và Indonesia, nơi ông đã có bài phát biểu mang tiêu đề: “Nhật Bản – ASEAN cùng quan tâm và chia sẻ trong trung tâm châu Á năng động”.

Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam và chính sách của Việt Nam đối với Nhật Bản

Trong chiến lược "hướng về châu Á" của Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh, Đông Nam Á, đặc biệt là Việt Nam, giữ vị trí chiến lược quan trọng Quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam đã có bề dày lịch sử khoảng 400 năm, được minh chứng qua đô thị Hội An, di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng đã khẳng định chủ trương đối ngoại độc lập, đa dạng hóa và hội nhập quốc tế, với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới vì hòa bình và phát triển" Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 180 quốc gia.

Việt Nam hiện có quan hệ với 170 quốc gia và là thành viên của 63 tổ chức quan hệ quốc tế Ngoài ra, nước này cũng duy trì mối quan hệ với hơn 650 tổ chức phi chính phủ và thiết lập quan hệ thương mại với hơn 165 nước và vùng lãnh thổ.

Việt Nam xem ổn định chính trị là yếu tố then chốt của an ninh quốc gia, gắn liền với an ninh chung của khu vực và thế giới Nhật Bản và Việt Nam đều chia sẻ lợi ích trong việc duy trì hòa bình và an ninh tại Đông Nam Á Vì vậy, việc tăng cường quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ mở ra cơ hội phát triển mối quan hệ toàn diện với các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.

Kinh tế Việt Nam từ lâu chủ yếu dựa vào nông nghiệp Trước năm 1986, Việt Nam áp dụng nền kinh tế kế hoạch giống như các nước xã hội chủ nghĩa khác Tuy nhiên, từ năm 1986, với chính sách đổi mới, Việt Nam chuyển sang mô hình “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, đem lại nhiều kết quả tích cực Mặc dù các thành phần kinh tế được mở rộng, nhưng nhà nước vẫn giữ vai trò điều hành các ngành kinh tế chủ chốt Sau 1986, kinh tế Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ tăng trưởng cao Cuối thập niên 90 và đầu thế kỷ XXI, Việt Nam tích cực hội nhập kinh tế toàn cầu, minh chứng rõ nét nhất là việc gia nhập WTO vào năm 2007.

2006 Năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam đạt 8,5% cao nhất kể từ năm

Việt Nam, với dân số hơn 90 triệu người, là quốc gia đông dân nhất trong Tiểu vùng sông Mêkông, tạo ra một thị trường tiêu thụ lớn và nguồn nhân công giá rẻ cho nền kinh tế Nhật Bản Điều này khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các công ty Nhật Bản muốn mở rộng hoạt động buôn bán và đầu tư tại đây.

Với tiềm năng và lợi thế nổi bật, cùng chính sách đổi mới và nền chính trị ổn định, Việt Nam đã trở thành điểm đến lý tưởng cho Nhật Bản và nhiều quốc gia khác nhằm mở rộng thị trường buôn bán, đầu tư, tiêu thụ hàng hóa và trao đổi nguyên liệu, từ đó tăng cường hợp tác toàn diện với Việt Nam.

Trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đối mặt với nhiều cơ hội phát triển song cũng không thiếu thách thức Lợi thế lớn nhất của Việt Nam là tình hình chính trị xã hội ổn định, môi trường hòa bình và sự hợp tác quốc tế, giúp phát huy năng lực và lợi thế so sánh Tuy nhiên, Việt Nam vẫn gặp khó khăn như tụt hậu so với các nước trong khu vực, nạn tham nhũng và tệ quan liêu Để đối phó với những vấn đề này, Việt Nam đã đề ra nhiều đường lối và chính sách phù hợp, nhằm tối đa hóa lợi ích cho sự phát triển đất nước.

Vào cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, hệ thống chủ nghĩa xã hội toàn cầu bộc lộ nhiều yếu kém, dẫn đến cải tổ ở nhiều quốc gia Việt Nam, nhận thức được sự thay đổi trong bối cảnh quốc tế, đã đề ra đường lối ngoại giao mới từ năm 1986 đến 1991, xác định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ và đa dạng hóa quan hệ quốc tế Tại Đại hội VIII năm 1996, Việt Nam khẳng định tiếp tục đường lối này với phương châm “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển.” Đại hội VIII cũng nhấn mạnh việc mở rộng quan hệ hợp tác với các quốc gia, trung tâm kinh tế và tổ chức chính trị, đồng thời thúc đẩy xây dựng nền kinh tế mở cửa và tăng cường hội nhập quốc tế.

Bước vào thế kỷ XXI, trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa diễn ra mạnh mẽ, kinh tế đã trở thành yếu tố quyết định tiếng nói và vị trí của các quốc gia trên trường quốc tế; do đó, Việt Nam đã thực hiện những điều chỉnh quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình.

Từ năm 2001, Việt Nam đã xác định đường lối đối ngoại chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, với tinh thần phát huy nội lực và sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình và phát triển Đại hội X (2006) đã nhấn mạnh đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hợp tác và phát triển, trong khi Đại hội XII khẳng định mục tiêu "độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển" cùng với việc đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế Mục tiêu đối ngoại "vì lợi ích quốc gia, dân tộc" được làm rõ hơn, nhấn mạnh việc đảm bảo lợi ích tối cao của quốc gia dựa trên các nguyên tắc của luật pháp quốc tế Phương châm chỉ đạo hoạt động đối ngoại là "vừa hợp tác, vừa đấu tranh", với quan điểm tích cực trong hội nhập quốc tế trên tất cả các lĩnh vực Công tác đối ngoại đa phương được chú trọng, đặc biệt trong việc đóng góp và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương như ASEAN và Liên hợp quốc.

Việt Nam chủ trương mở rộng quan hệ hợp tác đa dạng với các quốc gia và tổ chức quốc tế, ưu tiên phát triển mối quan hệ với các nước trong khu vực và các cường quốc toàn cầu, dựa trên luật pháp quốc tế và Hiến chương Liên Hợp Quốc Trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực đàm phán và ký kết nhiều hiệp định hợp tác hữu nghị, góp phần củng cố môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập kinh tế, là một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhằm mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút vốn và kinh nghiệm quản lý, cũng như đa dạng hóa thị trường phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Việt Nam đã thực hiện những điều chỉnh đúng đắn trong chính sách ngoại giao, mang lại nhiều thành tựu đáng kể và nâng cao vị thế trên trường quốc tế Quốc gia này đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 quốc gia, mở rộng thương mại và xuất khẩu tới hơn 230 thị trường, ký kết trên 90 hiệp định thương mại song phương và gần 60 hiệp định khuyến khích đầu tư Việt Nam cũng đã nâng cao mối quan hệ đối tác chiến lược với Trung Quốc, gia tăng quan hệ với Nga, Nhật Bản, Ấn Độ và Hàn Quốc Số lượng cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài đã tăng lên với 65 đại sứ quán, 20 tổng lãnh sự quán và 4 phái đoàn thường trực bên cạnh các tổ chức quốc tế.

Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ hợp tác mạnh mẽ với các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á, Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam không ngừng được thúc đẩy, nâng cao thông qua việc tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và toàn cầu, cũng như ký kết nhiều hiệp định đa phương.

Năm 1995, Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quan hệ ngoại giao Tiếp theo, từ ngày 1/1/1996, Việt Nam tham gia khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA) và là một trong những nước sáng lập Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) vào năm 1998 Việt Nam cũng được kết nạp vào Diễn đàn hợp tác châu Á – Thái Bình Dương (APEC) Đặc biệt, một thành tựu nổi bật trong chính sách đối ngoại là việc Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào ngày 11/1/2007.

Những thay đổi tư duy trong đường lối ngoại giao của Việt Nam đã đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường hợp tác với các quốc gia trên toàn cầu, đặc biệt là với Nhật Bản.

Quan hệ kinh tế, văn hóa, xã hội Nhật Bản – Việt Nam từ 2010 đến 2017

Sau hơn 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, Nhật Bản đã trở thành đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam Các hiệp định như Hiệp định Khuyến khích và bảo hộ đầu tư (tháng 12/2004) và Hiệp định đối tác kinh tế Việt Nam – Nhật Bản (tháng 10/2009) đã tạo ra khuôn khổ pháp lý thuận lợi cho sự hợp tác phát triển kinh tế và thương mại giữa hai quốc gia.

Năm 2011, Nhật Bản công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam, sau khi hai nước đã áp dụng thuế suất tối huệ quốc từ năm 1999 Đến năm 2013, Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ 4 của Việt Nam với tổng kim ngạch thương mại đạt 25,163 tỷ USD, trong đó xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,581 tỷ USD, tăng 4% so với năm 2012 Trong 4 tháng đầu năm 2014, kim ngạch thương mại hai chiều đạt 8,537 tỷ USD, với xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 5,059 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2013 Đặc biệt, vào ngày 21/1/2014, Nhật Bản đã bãi bỏ việc kiểm tra toàn bộ tồn dư chất Ethoxyquin đối với tôm Việt Nam nhập khẩu.

Nhật Bản là một trong những thị trường xuất khẩu quan trọng của Việt Nam, với kim ngạch tăng trưởng hàng năm và cơ cấu hàng hóa bổ sung lẫn nhau Nhật Bản chủ yếu nhập khẩu thủy sản, dệt may, giày da và thực phẩm chế biến từ Việt Nam, trong khi Việt Nam lại nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ và nguyên liệu sản xuất từ Nhật Bản Năm 2016, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước đạt 14,68 tỷ USD, khiến Nhật Bản trở thành đối tác thương mại lớn thứ tư của Việt Nam, chỉ sau Trung Quốc, Mỹ và Hàn Quốc.

Trong tháng 5/2017, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản đạt trị giá 1,49 tỷ USD, tăng 17,5% so với tháng 4/2017 Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 tháng đầu năm 2017 đạt 6,51 tỷ USD, tăng trưởng 10,3% so với cùng kỳ năm 2016.

Hai nước Việt Nam và Nhật Bản đã hoàn thành giai đoạn IV của sáng kiến chung về cải thiện đầu tư, đồng thời khởi động giai đoạn V vào năm 2013 Năm này, Nhật Bản trở thành quốc gia dẫn đầu về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam.

Tính đến tháng 4/2014, Nhật Bản đứng đầu trong số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư trực tiếp vào Việt Nam với 2.226 dự án có giá trị hiệu lực và tổng vốn đầu tư đạt 35,5 tỷ USD Đến cuối năm 2016, Nhật Bản đã đầu tư vào 3.320 dự án tại Việt Nam với tổng số vốn đăng ký lên tới 42,5 tỷ USD, chiếm 14,6% tổng vốn FDI vào Việt Nam, trở thành nhà đầu tư lớn thứ hai chỉ sau Hàn Quốc.

Nhật Bản là nhà tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, chiếm hơn 30% tổng cam kết ODA toàn cầu Từ năm 1992 đến 2012, Nhật Bản đã cam kết khoảng 2.118 tỷ yên ODA cho Việt Nam, và vào năm 2013, cam kết thêm 1,55 tỷ USD Trong chuyến thăm của Thủ tướng Shinzo Abe vào tháng 1/2017, hai bên đã ký kết hiệp định cho vay cho một số dự án ODA Nhật Bản đã cung cấp khoảng 120 tỷ yên ODA cho 4 dự án trong năm tài khóa 2016, nâng tổng số ODA lên khoảng 2,8 nghìn tỷ yên vào tháng 9/2016 Nguồn vốn này đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện cơ sở hạ tầng, nhân lực và reform kinh tế - xã hội tại Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội kinh doanh cho các nhà thầu Nhật Bản thông qua việc tăng xuất khẩu.

Nhật Bản đang tích cực hỗ trợ Việt Nam trong việc phát triển công nghiệp, tập trung vào 6 ngành chính: ô tô và phụ tùng ô tô, máy nông nghiệp, chế biến thủy sản, điện tử, công nghiệp môi trường và tiết kiệm điện năng, cùng với đóng tàu Sự hợp tác này nằm trong chiến lược công nghiệp hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản đã trở thành nền tảng quan trọng cho mối quan hệ song phương, phản ánh lợi ích lâu dài của cả hai nước Việt Nam coi thị trường vốn, công nghệ của Nhật Bản là yếu tố thiết yếu cho sự phát triển quốc gia sau đổi mới, trong khi Nhật Bản nhận thấy Việt Nam là cơ hội lớn nhờ vào dân số trẻ, tiêu dùng tăng cao và nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng nhanh Do đó, hợp tác kinh tế luôn chiếm ưu thế trong chương trình nghị sự song phương.

Mối quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản không chỉ phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực kinh tế mà còn đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội và giáo dục.

Quan hệ hợp tác giáo dục giữa Việt Nam và Nhật Bản đã phát triển qua nhiều hình thức, bao gồm hợp tác giữa chính phủ, trường học và cá nhân Nhật Bản hiện là nước viện trợ không hoàn lại lớn nhất cho giáo dục Việt Nam, hỗ trợ nâng cấp bốn trường đại học: Đại học Cần Thơ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Đà Nẵng và Đại học Nông nghiệp Hà Nội Hiện có khoảng 4.000 lưu học sinh Việt Nam đang học tập tại Nhật Bản Đồng thời, Việt Nam đã mời giáo sư và chuyên gia Nhật Bản đến giảng dạy, cũng như tiếp nhận các nhà nghiên cứu Nhật Bản tìm hiểu văn hóa Việt Nam Nhờ sự hỗ trợ của Nhật Bản, Việt Nam đã triển khai thí điểm dạy tiếng Nhật tại một số trường ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2003.

Năm 2013, hai bên sẽ hợp tác thành lập các nhóm chuyên gia nhằm nghiên cứu việc mở rộng giảng dạy tiếng Nhật tại nhiều địa phương trên toàn quốc.

Từ tháng 5/2013, Nhật Bản đã hỗ trợ Đại học Công nghiệp Hà Nội trong việc đào tạo giáo viên dạy nghề thông qua các dự án kỹ thuật, nâng cấp 6 trường đào tạo nghề tại 5 tỉnh, thành Năm 2013, Hội doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam và Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ký Thỏa thuận hợp tác đào tạo nhân lực theo chuẩn nghề nghiệp Nhật Bản Nhật Bản cũng hỗ trợ Việt Nam thực hiện dự án Trung tâm đào tạo logistics khu vực Mê Kông Đến năm 2016, Việt Nam có 58.820 du học sinh và 71.983 tu nghiệp sinh kỹ thuật đang học tập và làm việc tại Nhật Bản.

Sự mở rộng quan hệ kinh tế, giáo dục và hợp tác văn hóa giữa Việt Nam và Nhật Bản đã thúc đẩy giao lưu mạnh mẽ giữa nhân dân hai nước Việc học tiếng Nhật và tìm hiểu văn hóa Nhật Bản đang trở thành xu hướng phổ biến tại Việt Nam, với nhiều sản phẩm văn hóa như ikebana, kendo, origami, manga, anime và cosplay được giới trẻ yêu thích Đồng thời, ngày càng nhiều người Nhật Bản học tiếng Việt và khám phá vẻ đẹp của Việt Nam Sự tương đồng về văn hóa và tính cách thân thiện đã tạo ra mối liên kết tự nhiên giữa hai dân tộc Việt Nam và Nhật Bản đã trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn cho nhau, với tuyên bố hợp tác du lịch vào tháng 4/2005 Số lượng khách du lịch Nhật Bản đến Việt Nam đã tăng đều qua các năm, từ 640.050 lượt vào năm 2013 đến khoảng 700.000 lượt vào năm 2016, trong khi 200.000 du khách Việt Nam cũng đã thăm Nhật Bản.

Mối quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế và văn hóa xã hội đã thể hiện rõ nét sự gắn bó và phát triển của hai quốc gia Hợp tác này không chỉ góp phần thúc đẩy kinh tế mà còn làm sâu sắc thêm mối quan hệ thân thiết giữa Việt Nam và Nhật Bản.

Nam – Nhật Bản Với những thành tựu nêu trên đã báo hiệu một triển vọng tốt đẹp cho mối quan hệ Nhật – Việt

Quan hệ chính trị - ngoại giao

Nhật Bản và Việt Nam đã thiết lập mối quan hệ từ lâu, với sự trao đổi buôn bán và thư từ diễn ra liên tục Tuy nhiên, mối quan hệ chính thức được hình thành vào ngày 21/7/1993, đánh dấu sự khởi đầu cho sự phát triển mạnh mẽ, đặc biệt từ năm 2010 đến 2017 Trong giai đoạn này, quan hệ chính trị - ngoại giao giữa hai nước đã được củng cố thông qua các cuộc gặp gỡ và chuyến thăm của lãnh đạo hai bên, cùng với việc tổ chức nhiều cơ chế đối thoại Hai quốc gia luôn hỗ trợ lẫn nhau trên các diễn đàn song phương và đa phương.

Sự kiện tháng 10/2010, khi Thủ tướng Naoto Kan thăm chính thức Việt Nam sau các hội nghị ASEAN tại Hà Nội, đánh dấu mốc quan trọng trong quan hệ Nhật Bản - Việt Nam từ 2010 đến 2017 Trong cuộc hội đàm với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, hai bên đã thống nhất hợp tác trong lĩnh vực khai thác đất hiếm và xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ sự biết ơn về sự hỗ trợ của Nhật Bản trong phát triển kinh tế Việt Nam, đặc biệt là các dự án xây dựng đường cao tốc Bắc – Nam, khu công nghệ cao Hòa Lạc và tuyến đường sắt cao tốc Bắc Nam Thủ tướng Naoto Kan cam kết cung cấp các khoản vay mới bằng đồng yên cho 5 dự án, trong đó có dự án xây dựng cảng Lạch Huyện và sẽ xem xét thêm các dự án khác, bao gồm cả sân bay quốc tế.

Sau cuộc hội đàm, Thủ tướng Naoto Kan và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã phát biểu về "Tuyên bố chung Việt Nam – Nhật Bản" nhằm phát triển quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh châu Á Tuyên bố nhấn mạnh quyết tâm mạnh mẽ trong việc phát triển sâu sắc và toàn diện mối quan hệ giữa Nhật Bản và Việt Nam, khẳng định sự nhất trí thúc đẩy quan hệ đã được xây dựng trong những năm qua Điểm mới trong Tuyên bố này là việc nhấn mạnh từ "toàn diện", thể hiện mong muốn thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trên mọi mặt và lĩnh vực.

Bản tuyên bố thể hiện rõ ràng khái niệm "toàn diện" thông qua 7 điểm chính đã được thống nhất, bao gồm: (1) Tăng cường giao lưu và đối thoại giữa các bên, (2) Viện trợ kinh tế của Nhật Bản dành cho Việt Nam, (3) Thúc đẩy thương mại và đầu tư, (4) Chú trọng vào năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và ứng phó với biến đổi khí hậu, (5) Hợp tác trong lĩnh vực khoa học và kỹ thuật, (6) Tăng cường hiểu biết lẫn nhau và giao lưu văn hóa giữa nhân dân hai nước, và (7) Hợp tác trong khu vực cũng như trên trường quốc tế.

Vào tháng 11/2010, Nhật Bản đã tổ chức Hội nghị cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tại Yokohama, trong đó có sự tham gia của đại diện Chính phủ Việt Nam Ngày 11/11/2010, Ngoại trưởng Nhật Bản Maehara Seiji đã có cuộc hội đàm với Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm, tập trung thảo luận về khai thác đất hiếm và việc xây dựng nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam.

Vào ngày 9/12/2010, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Koro Bessho nhân dịp tham dự Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản lần thứ nhất Đây là cơ chế đối thoại cấp thứ trưởng với sự tham gia của Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng hai nước, thể hiện sự tin cậy và cam kết tăng cường quan hệ Phó Thủ tướng đã ghi nhận sự phát triển trong quan hệ hai nước và sự hỗ trợ của Nhật Bản dành cho Việt Nam, trong khi Thứ trưởng Koro Bessho nhấn mạnh Việt Nam là đối tác hàng đầu trong chính sách ODA của Nhật Bản Tại buổi đối thoại, hai bên đã thảo luận về quan hệ đối tác chiến lược, chính sách đối ngoại, an ninh và các vấn đề quốc tế cùng quan tâm, đồng thời nhất trí tăng cường hợp tác để giải quyết các thách thức khu vực.

Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Gia Khiêm đã tiếp Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Yutaka Banno vào ngày 14/2/2011, trong khuôn khổ chuyến thăm Việt Nam Tại buổi tiếp, ông Phạm Gia Khiêm đã thông báo về kết quả Đại hội Đảng lần thứ XI và nhấn mạnh chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam Hai bên nhất trí tiếp tục thúc đẩy các chuyến thăm cấp cao và nâng cao vai trò của Ủy ban hợp tác Việt – Nhật, đồng thời tăng cường quan hệ hợp tác giữa hai Bộ Ngoại giao.

Chiều 1/3, tại Trụ sở Chính phủ, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã tiếp ông Norio Hattori – nguyên Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền Nhật Bản tại Việt Nam

Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Thiện Nhân bày tỏ niềm vui khi đón tiếp ông Norio Hattori trở lại Việt Nam, nhấn mạnh những đóng góp quan trọng của ông trong việc tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước Ông cũng bày tỏ hy vọng rằng, với uy tín và mối quan hệ của mình, ông Norio Hattori sẽ thúc đẩy các bên liên quan nhanh chóng triển khai đề án hỗ trợ đào tạo 1.000 tiến sĩ cho Việt Nam mà Nhật Bản đã cam kết.

Vào ngày 11/3/2011, một trận động đất mạnh đã xảy ra ở miền Đông Nhật Bản, gây ra nhiều thiệt hại Việt Nam đã thể hiện sự hỗ trợ nhiệt tình đối với các nạn nhân thông qua các cuộc điện đàm và hỗ trợ vật chất, điều này đã khiến người Nhật cảm kích Sau thảm họa, các hoạt động ngoại giao của Nhật Bản tạm thời bị đình trệ Vào ngày 25/5/2011, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã có cuộc hội đàm với Ngoại trưởng Matsumoto Takeaki trong chuyến thăm Nhật Bản để tham dự hội nghị quốc tế Từ ngày 1 đến 4/6/2011, đồng chí Trương Tấn Sang đã thực hiện chuyến thăm chính thức Nhật Bản, thể hiện tình cảm và sự chia sẻ của Việt Nam đối với đất nước Nhật Bản trong thời kỳ khó khăn Nhật Bản đã bày tỏ lòng biết ơn và mong muốn củng cố quan hệ “đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á” giữa hai nước.

Vào ngày 22/7/2011, tại Bali, Indonesia, bên lề Hội nghị AMM – 44, ARF và Hội nghị ASEAN, Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Phạm Gia Khiêm đã gặp gỡ Bộ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Matsumoto Takeaki Hai bên đã thảo luận về sự phát triển trong quan hệ đối tác chiến lược và các biện pháp tăng cường hợp tác Cũng trong cuộc gặp, hai bên đã trao đổi về các vấn đề quốc tế và khu vực, đặc biệt là tình hình Biển Đông, và nhất trí rằng cần duy trì hòa bình, ổn định, an ninh và tự do hàng hải tại khu vực này Nhật Bản bày tỏ ủng hộ việc giải quyết tranh chấp ở Biển Đông thông qua đàm phán hòa bình dựa trên luật pháp quốc tế.

Vào ngày 3 tháng 8 năm 2011, Quốc hội Việt Nam đã thông qua việc bổ nhiệm nhân sự cho chính phủ mới, trong đó ông Trương Tấn Sang được chỉ định làm Chủ tịch nước, ông Nguyễn Tấn Dũng giữ chức Thủ tướng, và ông Phạm Bình Minh được bổ nhiệm làm Bộ trưởng.

Bộ Ngoại giao Ngày 2/9/2011, chính quyền Thủ tướng Noda Yoshihiko lên cầm quyền lãnh đạo Nhật Bản, ông Genba Koichiro giữ chức Ngoại trưởng

Vào tháng 10/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có chuyến thăm Nhật Bản với tư cách khách mời quốc gia, đánh dấu chuyến thăm đầu tiên sau khi được bầu lại Trong chuyến thăm, ông đã hội đàm với Thủ tướng Noda Yoshihiko và hai bên đã công bố “Tuyên bố chung Nhật – Việt” nhằm triển khai hành động trong khuôn khổ quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh châu Á Tuyên bố bao gồm hai phần chính: phần đầu thể hiện sự đoàn kết với Nhật Bản sau thảm họa động đất tại Đông Bắc, trong đó Thủ tướng Noda bày tỏ lòng biết ơn đối với sự hỗ trợ của Việt Nam, và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cam kết hỗ trợ Nhật Bản khắc phục hậu quả Phần thứ hai nêu rõ những thành tựu đạt được sau Tuyên bố chung Việt Nhật trước đó.

Năm 2010 đánh dấu một giai đoạn quan trọng trong định hướng phát triển, với những thành tựu nổi bật trong việc tăng cường giao lưu và đối thoại giữa hai nước Hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư được thúc đẩy, cùng với các sáng kiến liên quan đến phát triển năng lượng, tài nguyên thiên nhiên và ứng phó với biến đổi khí hậu Bên cạnh đó, hai bên cũng chú trọng đến việc hỗ trợ đào tạo nhân lực và nâng cao hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân Hợp tác trong khu vực và trên trường quốc tế được củng cố, và tại cuộc hội đàm cấp cao này, hai bên đã ký kết thêm các thỏa thuận quan trọng bên cạnh Tuyên bố chung.

“Bản ghi nhớ về cơ chế tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý đủ tiêu chuẩn của Việt Nam sang Nhật Bản”

Vào ngày 2/12/2011, Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản lần thứ hai đã diễn ra tại Bộ Ngoại giao Nhật Bản, nơi hai bên thảo luận về chính sách đối ngoại và an ninh quốc phòng Cuộc trao đổi cũng đề cập đến các vấn đề quốc tế và khu vực Hai bên khẳng định kết quả tốt đẹp của cuộc đối thoại và dự kiến tổ chức cuộc tiếp theo tại Việt Nam vào năm 2012.

Vào chiều ngày 9 tháng 1 năm 2012, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi tiếp đón Chủ tịch Đảng Dân chủ, đánh dấu sự khởi đầu cho các cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa lãnh đạo cấp cao của hai nước.

Quan hệ an ninh – quốc phòng

Sau Chiến tranh lạnh và sự kiện chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, nhiều chính trị gia Nhật Bản đã kêu gọi chấm dứt "chính trị của sự lảng tránh" để tham gia tích cực vào hòa bình quốc tế, khẳng định vai trò của Nhật Bản như một cường quốc Chính sách đối ngoại thời kỳ Chiến tranh lạnh đã không còn phù hợp với vị thế của Nhật Bản, dẫn đến việc theo đuổi chính sách an ninh tích cực và mong muốn trở thành "quốc gia bình thường" Nhật Bản đã phát triển Lực lượng phòng vệ thành một quân đội quốc gia với chức năng không chỉ phòng thủ mà còn tăng cường hợp tác an ninh với các nước trong khu vực, đặc biệt là Việt Nam Sự thay đổi này đã thúc đẩy mối quan hệ hợp tác an ninh – quốc phòng Nhật Bản – Việt Nam từ 2010 đến 2017.

Chuyến thăm Nhật Bản của Bộ trưởng Quốc phòng Phùng Quang Thanh từ ngày 23 đến 28/10/2011 đánh dấu sự khởi đầu cho mối quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Nhật Bản và Việt Nam Đây là chuyến thăm đầu tiên trong vòng 13 năm qua, thể hiện bước tiến quan trọng trong hợp tác quốc phòng giữa hai quốc gia.

Chuyến thăm của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phùng Quang Thanh tới Nhật Bản đã thành công với việc ký kết Biên bản ghi nhớ (MOU) về tăng cường hợp tác quốc phòng giữa hai nước Bản ghi nhớ thiết lập các cuộc đàm phán quốc phòng thường xuyên và trao đổi giữa Quân đội nhân dân Việt Nam và Lực lượng phòng vệ Nhật Bản, tuân thủ luật pháp quốc tế và quy định của mỗi quốc gia Từ năm 2010, văn bản này đã định hướng cho quan hệ hợp tác an ninh – quốc phòng giữa Việt Nam và Nhật Bản Bộ trưởng quốc phòng Nhật Bản Y Ichikawa bày tỏ mong muốn thúc đẩy mối quan hệ hợp tác quốc phòng lên một giai đoạn phát triển mới, nhấn mạnh trong Kế hoạch phòng vệ của Nhật Bản có định hướng tăng cường hợp tác với các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam Thủ tướng Noda cũng khẳng định tầm quan trọng của việc phát triển quan hệ với Việt Nam, mong muốn mối quan hệ này ngày càng bền chặt, đặc biệt trong lĩnh vực quốc phòng.

Năm 2012, quan hệ an ninh – quốc phòng giữa Việt Nam và Nhật Bản được thúc đẩy mạnh mẽ thông qua nhiều chuyến thăm và gặp gỡ cấp cao, nổi bật là chuyến thăm của Đại tướng Shigeru Iwasaki vào tháng 5 Hai bên đã nhất trí tiếp tục phát triển hợp tác sâu rộng trong các lĩnh vực như công nghệ thông tin, quân y, chống khủng bố, và tìm kiếm cứu nạn Cùng với việc tăng cường đối thoại quốc phòng cấp cao, hai nước cũng nhấn mạnh sự cần thiết của việc giao lưu ở tất cả các cấp, bao gồm các chuyến thăm lẫn nhau và hợp tác trên các diễn đàn đa phương, nhằm tăng cường hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, góp phần vào hòa bình và ổn định khu vực.

Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản, Itsunori Onodera, đã có chuyến thăm chính thức Việt Nam từ 15 đến 17/9/2013, nhấn mạnh sự hợp tác quốc phòng giữa hai nước đang diễn ra tích cực và đi vào chiều sâu, bao gồm đào tạo cán bộ và hợp tác giữa các quân chủng Hai bên đã thiết lập cơ chế giao lưu sĩ quan trẻ hàng năm để tăng cường học hỏi và phát triển bền vững Về vấn đề Biển Đông, ông Onodera khẳng định Nhật Bản ủng hộ giải quyết tranh chấp thông qua đối thoại và tôn trọng luật pháp quốc tế Ngày 23/6/2014, Trung tướng Võ Văn Tuấn đã tiếp Thiếu tướng Naohisa Fucasa tại Bộ Quốc phòng, ghi nhận những thành tựu trong quan hệ hợp tác an ninh quốc phòng và bày tỏ mong muốn tiếp tục phát triển mối quan hệ này trong tương lai.

Vào tháng 8 năm 2014, Nhật Bản công bố kế hoạch sử dụng gói hỗ trợ phát triển nước ngoài để cung cấp 6 tàu tuần tra cho các cơ quan chấp pháp biển của Việt Nam Những tàu này được trang bị áo phao, chương trình huấn luyện và radar hiện đại Tàu đầu tiên đã được chuyển giao cho Cảnh sát biển Việt Nam vào tháng 2 năm 2014, trong khi tàu thứ hai được bàn giao cho Cục Kiểm ngư Việt Nam vào tháng 8 cùng năm.

Chuyến thăm Nhật Bản của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào tháng 9/2015 đã tạo ra nhiều cơ hội mới trong quan hệ quốc phòng giữa hai nước Hai bên đã thống nhất tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh – quốc phòng và an toàn trên biển, bao gồm tìm kiếm cứu nạn, đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia và cướp biển Đặc biệt, cơ quan Cảnh sát biển của hai nước đã ký kết bản ghi nhớ hợp tác, đánh dấu bước tiến quan trọng trong mối quan hệ này.

Vào tháng 11 năm 2015, Bộ trưởng Quốc phòng Nhật Bản Gen Nakatani đã thăm Việt Nam theo lời mời của Bộ trưởng Phùng Quang Thanh, nhằm củng cố mối quan hệ quốc phòng – an ninh giữa hai nước Trong chuyến thăm, ông Nakatani đã đến khu quân cảng Cam Ranh, gần khu vực Biển Đông đang bị Trung Quốc bồi lấp trái phép Cả hai bộ trưởng đã ký kết nhiều thỏa thuận quan trọng nhằm nâng cao năng lực quân sự cho Việt Nam.

Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Nhật Bản và Tham dự Hội nghị Tương lai châu Á của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, chiều 5/6/2017, tại trụ sở

Bộ Quốc phòng Nhật Bản và Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có buổi làm việc nhằm đánh giá kết quả hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, theo nội dung đã thống nhất tại Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam – Nhật Bản lần thứ 4 Cả hai bên bày tỏ sự hài lòng về những tiến triển trong hợp tác quốc phòng nhờ sự tích cực của lực lượng chức năng Hai bên thống nhất tiếp tục đẩy mạnh hợp tác trong các lĩnh vực như đào tạo, trao đổi kinh nghiệm về gìn giữ hòa bình, khắc phục hậu quả chiến tranh, an ninh mạng và an ninh biển.

Năm 2017, Nhật Bản tiếp tục hỗ trợ 12 học viên Bộ Quốc phòng Việt Nam đào tạo cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ trong các chuyên ngành công nghệ thông tin, điện tử viễn thông, quan hệ quốc tế và nghiên cứu chiến lược Nhật Bản đang tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng Việt Nam để triển khai công nghệ xử lý chất độc hóa học Đồng thời, hai bên cũng thực hiện các hoạt động thực tế nhằm tăng cường hợp tác trong lĩnh vực cứu hộ, cứu nạn trên biển và hợp tác giữa các lực lượng thực thi pháp luật trên biển.

Mối quan hệ hợp tác an ninh – quốc phòng giữa Việt Nam và Nhật Bản được củng cố thông qua các cuộc gặp lãnh đạo cấp cao và các cơ chế đối thoại như Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản về ngoại giao – an ninh – quốc phòng cấp Thứ trưởng từ năm 2010, Đối thoại chính sách quốc phòng Việt – Nhật cấp Thứ trưởng từ tháng 11/2012, và Đối thoại an ninh cấp Thứ trưởng từ tháng 11/2013.

Vào ngày 24/7/2010, Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Nhật Bản đã tiến hành hội đàm, thống nhất thiết lập cơ chế "Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản" cấp Thứ trưởng Ngoại giao Mục tiêu của cơ chế này là tạo điều kiện cho việc trao đổi sâu rộng về các lĩnh vực chính trị, an ninh và quốc phòng, nhằm củng cố quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.

Vào ngày 9/12/2010, Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản lần thứ nhất được tổ chức tại Việt Nam, do Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn và Thứ trưởng Ngoại giao Nhật Bản Koro Bessho dẫn đầu Sự kiện này là cơ chế Đối thoại cấp Thứ trưởng, với sự tham gia của nhân viên Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc phòng hai nước Hai bên đã thảo luận thẳng thắn về quan hệ Đối tác chiến lược, chính sách đối ngoại, an ninh và quốc phòng, cùng các vấn đề khu vực và quốc tế quan tâm Trong bối cảnh tình hình khu vực và quốc tế phức tạp, hai bên nhất trí cần tăng cường hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau trên các diễn đàn quốc tế và khu vực Đối thoại này đã góp phần củng cố quan hệ Việt Nam - Nhật Bản trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là an ninh – quốc phòng, đồng thời thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực và toàn cầu.

Ngày 2/12/2011, đã diễn ra Đối thoại chiến lược Việt Nam – Nhật Bản lần thứ hai tại Trụ sở Bộ Ngoại giao Nhật Bản

Hai bên đã thảo luận về các vấn đề chính trị và an ninh mà cả hai cùng quan tâm, khẳng định sẽ tiếp tục phối hợp để giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế Nhân dịp kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao, hội nghị thống nhất tổ chức “Năm hữu nghị Việt Nam – Nhật Bản 2013” nhằm thúc đẩy việc triển khai các thỏa thuận đã đạt được trong chuyến thăm Nhật Bản của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Vào ngày 5/12/2012, Đối thoại Đối tác chiến lược Việt Nam – Nhật Bản lần thứ ba đã được tổ chức tại Hà Nội, dựa trên các nội dung được hai bên đưa ra trong Đối thoại chiến lược lần thứ hai.

MỘT SỐ NHẬN XÉT VỀ QUAN HỆ CHÍNH TRỊ - NGOẠI GIAO, AN

Ngày đăng: 01/08/2021, 12:37

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w