Trong thời gian thực tập tại UBND phường Trường Thi, được tiếp xúc và làm việc với các cán bộ địa chính về công tác giải quyết tranh chấp đất đai em nhận thấy rằng công tác còn những tồn
NỘI DUNG
1.1.1 Một số khái niệm liên quan
Theo Khoản 24, Điều 3, Luật Đất đai 2013, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa các bên trong quan hệ đất đai Điều này nhấn mạnh rằng đối tượng tranh chấp không phải là quyền sở hữu đất, và các bên tham gia không nhất thiết phải là chủ sở hữu Theo Điều 53, Hiến pháp 2013 và Điều 4, Luật Đất đai 2013, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện quản lý Tranh chấp đất đai xảy ra khi các bên có sự tranh giành về quyền quản lý và sử dụng một khu đất mà mỗi bên đều cho rằng mình có quyền.
Giải quyết tranh chấp đất đai là quá trình mà các cơ quan nhà nước có thẩm quyền can thiệp để giải quyết các mâu thuẫn giữa các bên liên quan, nhằm tìm ra phương án hợp lý dựa trên quy định pháp luật Mục tiêu của việc giải quyết này là xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ đất đai.
Tranh chấp đất đai thường liên quan đến các chủ thể quản lý, quyền sử dụng và lợi ích phát sinh từ việc sử dụng đất, một loại tài sản đặc biệt mà không thuộc quyền sở hữu của các bên tranh chấp.
Các chủ thể tranh chấp đất đai chỉ là chủ thể quản lý và sử dụng đất, không có quyền sử hữu đối với đất đai;
Tranh chấp đất đai thường xảy ra trong quá trình sử dụng đất của các bên liên quan, gây ảnh hưởng không chỉ đến quyền lợi của các bên tranh chấp mà còn tác động đến nhiều yếu tố khác trong xã hội.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI VÀ CÔNG TÁC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
Cơ sở pháp lý
1.2.1 Các văn bản pháp luật quy định về giải quyết tranh chấp đất đai
- Luật tiếp công dân, ngày 25 tháng 11 năm 2013;
- Bộ Luật Dân sự ngày 24 tháng 11 năm 2015;
- Luật Tố tụng dân sự ngày 25 tháng 11 năm 2015;
- Luật Đất đai ngày 29 tháng 11 năm 2013;
- Luật Nhà ở ngày 25 tháng 11 năm 2014;
- Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 21 tháng 5 năm 1996;
Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998, được ban hành bởi Ủy ban Thường vụ Quốc hội vào ngày 05 tháng 4 năm 2006, đã cập nhật và hoàn thiện quy trình xử lý các vụ án hành chính, nhằm nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong hoạt động tư pháp.
Nghị quyết số 755/2005/NQ-UBTVQH ngày 02 tháng 04 năm 2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết một số trường hợp cụ thể liên quan đến nhà đất Nghị quyết này áp dụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01 tháng 7 năm 1991.
-Nghị định 43/2014/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Đất đai ngày 15 tháng 05 năm 2014;
- Nghị định số 102/2014/NĐ-CP ngày 10 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai;
- Nghị định số 47/2014/NĐ-CP ngày 15 tháng 05 năm 2014 của Chính phủ về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
- Nghị định số 45/2015/NĐ-CP ngày 06 tháng 05 năm 2015 của Chính phủ về hoạt động đo đạc và bản đồ;
- Nghị định 173/2013/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực khí tƣợng thủy văn, đo đạc và bản đồ
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP, ban hành ngày 25 tháng 05 năm 2007, quy định chi tiết về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất và thực hiện quyền sử dụng đất Nghị định này cũng hướng dẫn trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đồng thời quy định cách giải quyết khiếu nại liên quan đến đất đai.
Thông tư số 37/2014/TT-BTNMT, ban hành ngày 30 tháng 6 năm 2014 bởi Bộ Tài nguyên và Môi trường, quy định chi tiết về các chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước tiến hành thu hồi đất Thông tư này nhằm đảm bảo quyền lợi cho người dân bị ảnh hưởng và tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình tái định cư.
Thông tư số 01/2002/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-TCĐC, ban hành ngày 03 tháng 01 năm 2002, quy định về thẩm quyền của Tòa án nhân dân trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất Thông tư này do Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tổng cục Địa chính phối hợp ban hành, nhằm hướng dẫn cụ thể quy trình và thẩm quyền của các cơ quan tư pháp trong việc xử lý các vấn đề về quyền sử dụng đất.
Quyết định số 86/2014/QĐ – UBND ngày 07 tháng 11 năm 2014 quy định về trách nhiệm của người đứng đầu các ngành và các cấp trong công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh và tranh chấp đất đai tại tỉnh Nghệ An Quy định này nhằm nâng cao hiệu quả trong việc tiếp nhận và xử lý các vấn đề liên quan đến quyền lợi của công dân, đồng thời đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình giải quyết các khiếu nại, tố cáo.
Nghị quyết số 195/2015/NQ – HDND, ban hành ngày 20 tháng 12 năm 2015, quy định các chế độ hỗ trợ kính phí nhằm giải quyết khiếu nại, tố cáo, tranh chấp đất đai và tranh chấp địa giới hành chính tại tỉnh Nghệ An.
1.2.2 Nguyên tắc giải quyết tranh chấp đất đai
1.2.2.1 Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý Đây là nguyên tắc rất cơ bản trong hoạt động giải quyết tranh chấp đất đai Để đảm bảo về nguyên tắc này điều 13 luật đất đai 2013 đã quy định, đòi hỏi khi xem xét giải quyết mọi vấn đề phát sinh trong quan hệ pháp luật đất đai đều phải thực hiện trên cơ sở đất đai thuộc sở hữu toàn dân, bảo vệ quyền lợi cho người đại diện của chủ sở hữu, bảo vệ thành quả cách mạng về ruộng đất Cần quán triệt đường lối Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam[1]
1.2.2.2.Bảo đảm quyền và lợi ích của người sử dụng đất
Theo điều 166 Luật đất đai 2013, việc giải quyết tranh chấp đất đai thể hiện tư tưởng đổi mới trong quản lý quan hệ xã hội về đất đai Lợi ích là vấn đề cốt lõi trong các mối quan hệ xã hội, và đất đai là một trong những lợi ích quan trọng nhất Nếu lợi ích của người sử dụng đất không được đảm bảo, hiệu quả sử dụng đất sẽ không đạt được Để bảo vệ lợi ích này, các bên tranh chấp cần gặp nhau để thảo luận và thương lượng, tạo cơ sở cho quyền tự định đoạt Cơ quan nhà nước chỉ tiếp nhận đơn khi các bên đã thực hiện thủ tục thương lượng mà không đạt được sự đồng thuận cần thiết.
1.2.2.3 Giải quyết tranh chấp đất đai phải nhằm mục đích ổn định tình hình kinh tế xã hội và phát triển sản xuất
Trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai, cần chú trọng đến việc ổn định kinh tế - xã hội, kết hợp với tổ chức lại sản xuất Điều này sẽ tạo điều kiện cho lao động nông thôn có việc làm phù hợp, đồng thời hỗ trợ quá trình chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất và cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
1.2.2.4 Khuyến khích việc hòa giải tranh chấp đất đai Đƣợc thực hiện theo quy định tại Điều 202 Luật Đất đai năm 2013 Mục đích hoà giải nhằm:
Tìm kiếm giải pháp thống nhất nhằm giải quyết mâu thuẫn và bất đồng trong quan hệ pháp luật đất đai là cần thiết, dựa trên nguyên tắc tự nguyện và tự thỏa thuận Điều này không chỉ giúp hạn chế phiền hà và chi phí cho các bên liên quan mà còn giảm áp lực lên các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc xử lý các vấn đề phát sinh.
- Phù hợp với truyền thống tương thân, tương ái của dân tộc, tăng cường tình làng nghĩa xóm, đảm bảo đoàn kết trong nội bộ nhân dân;
Giúp các đương sự hiểu rõ hơn về chính sách và pháp luật của Nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng Theo phương châm mà Hồ Chủ Tịch đã dạy: “Xét xử đúng người, đúng tội, xét xử phải công bằng”, việc này không chỉ đảm bảo tính minh bạch mà còn nâng cao niềm tin của người dân vào hệ thống pháp luật.
1.2.3 Trình tự giải quyết tranh chấp đất đai
Thủ tục hòa giải tại UBND xã là bắt buộc trong cả trình tự tố tụng tại Tòa án và trình tự giải quyết tại cơ quan hành chính Luật Đất đai 2013 khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc thực hiện hòa giải ở cơ sở Nếu không thể hòa giải, các bên có thể gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp để được hòa giải.
Theo Điều 202 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 88 Nghị định số 43/NĐ-CP ngày 15/5/2014, Chủ tịch UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức hòa giải tranh chấp đất đai tại địa phương Hội đồng hòa giải cấp xã bao gồm Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND làm Chủ tịch Hội đồng, đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, tổ trưởng tổ dân phố ở đô thị, trưởng thôn ở nông thôn, đại diện hộ dân lâu đời hiểu rõ về nguồn gốc đất, cùng các công chức địa chính, xây dựng, môi trường và Tư pháp – Hộ tịch Tùy vào từng trường hợp, có thể mời thêm đại diện từ các tổ chức như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh và Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh.
Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại UBND cấp xã được thực hiện trong vòng 45 ngày kể từ ngày nhận đơn yêu cầu Biên bản hòa giải phải có chữ ký của các bên và xác nhận của UBND cấp xã về việc hòa giải thành hay không Biên bản này sẽ được gửi đến các bên liên quan và lưu tại UBND cấp xã Nếu hòa giải thành và có thay đổi về ranh giới hoặc người sử dụng đất, UBND cấp xã sẽ gửi biên bản đến Phòng Tài nguyên và Môi trường hoặc Sở Tài nguyên và Môi trường để trình UBND cùng cấp quyết định công nhận sự thay đổi và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mới.
Cơ sở thực tiễn
1.3.1 Tình hình tranh chấp đất đai ở Việt Nam
Trong nhiều năm qua, tranh chấp đất đai đã trở thành vấn đề cấp bách được Đảng, Nhà nước và xã hội quan tâm Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết nhằm giải quyết vấn đề này, với những văn bản đã và đang được triển khai có tác động tích cực đến tình hình tranh chấp đất đai Nhờ đó, nhiều vụ việc phức tạp đã được giải quyết, góp phần ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội Khoảng 80% các khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai tập trung ở một số tỉnh, thành phố lớn như Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Hải Phòng và nhiều địa phương khác.
Số lượng đơn vượt cấp gửi đến các cơ quan Trung ương ngày càng tăng, thể hiện sự bức xúc của công dân đối với cách giải quyết của chính quyền địa phương Trong khi đó, số lượng công dân đến kiến nghị trực tiếp tại các phòng tiếp công dân đang giảm dần Nhiều vụ việc cho thấy công dân tập trung thành đoàn, đi xe và mang theo biểu ngữ để gây áp lực yêu cầu giải quyết quyền lợi Đặc biệt, các cuộc tụ tập đông người thường xảy ra trong các kỳ họp của Hội đồng nhân dân, Quốc hội và Đại hội Đảng, với sự tham gia của thương binh, phụ nữ, người già và trẻ em, gây mất trật tự và an toàn xã hội tại các trụ sở chính quyền.
Gần đây, nhiều vụ tranh chấp đất đai đã xảy ra, chủ yếu liên quan đến việc Nhà nước thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội Các khiếu nại thường xoay quanh yêu cầu bồi thường đất ở, nâng giá bồi thường, tăng tiền hỗ trợ, bố trí tái định cư và giải quyết việc làm, cũng như đòi lại đất cũ và tranh chấp về nhà ở.
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, hàng năm có gần 10.000 đơn tranh chấp về tài nguyên và môi trường được gửi đến, trong đó 98,6% liên quan đến đất đai Các tỉnh, thành phố có số lượng đơn cao nhất bao gồm TP Hồ Chí Minh, An Giang, Cần Thơ, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Bến Tre, Bình Thuận, Đồng Nai, Kiên Giang và Tây Ninh, với bình quân gần 500 đơn/năm mỗi địa phương.
Nếu không được xử lý kịp thời, tình hình tranh chấp đất đai sẽ trở nên phức tạp, gây ra tâm lý hoang mang và thiếu tin tưởng vào chính quyền Điều này có thể ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của công dân và lợi ích quốc gia.
Năm 2014, các cơ quan hành chính nhà nước đã tiếp nhận gần 392.700 lượt công dân khiếu nại, tăng 3,2% so với năm trước, trong đó có 4.876 đoàn đông người, chủ yếu liên quan đến lĩnh vực đất đai Họ đã nhận gần 235.000 đơn thư, bao gồm hơn 93.700 đơn thư khiếu nại với 42.780 vụ việc thuộc thẩm quyền Đã giải quyết gần 36.000 vụ việc khiếu nại, đạt tỷ lệ 85,9%, đồng thời kiến nghị thu hồi cho Nhà nước 41 tỷ đồng và 183 ha đất Ngoài ra, đã trả lại cho tập thể và công dân 199 tỷ đồng và 85 ha đất, kiến nghị xử lý hành chính 552 người, và chuyển cơ quan điều tra xem xét trách nhiệm hình sự 39 vụ việc với 36 người.
1.3.2 Tình hình tranh chấp đất đai ở Nghệ An
Năm 2014, tỉnh Nghệ An đã tiếp nhận 4.296 lượt công dân, tăng 1,4% so với năm 2013 Số đơn được tiếp nhận là 5.589, tăng 23,5% so với cùng kỳ năm trước Mặc dù có 279 vụ việc phát sinh, giảm 0,7% so với năm 2013, tỉnh đã giải quyết thành công 240 vụ, đạt tỷ lệ 86%.
Năm 2014, các cơ quan hành chính nhà nước trên toàn tỉnh đã tiếp nhận 4.296 lượt công dân khiếu nại, tố cáo và kiến nghị liên quan đến tranh chấp đất đai, tăng 1,4% so với năm 2013 Đặc biệt, trong năm này, có 7 đoàn đông người đã kéo lên tỉnh để khiếu kiện.
Năm 2014, toàn tỉnh ghi nhận tổng số 5.589 đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị phản ánh và tranh chấp đất đai, tăng 23,5% so với năm 2013 Trong đó, khiếu nại có 838 đơn (tăng 7,9%), tố cáo 509 đơn (tăng 9%), kiến nghị phản ánh 3.839 đơn (tăng 29,4%) và tranh chấp đất đai 403 đơn (tăng 29,6%).
Kết quả ả qu ết đơn t uộc t ẩm qu ền
Trong năm 2013, tổng số vụ việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan quản lý hành chính nhà nước các cấp ghi nhận là 279 vụ, giảm 0,7% so với cùng kỳ năm trước Trong đó, số vụ khiếu nại là 157 vụ (giảm 1,9%) và số vụ tố cáo là 122 vụ (tăng 0,8%) Đến nay, các cấp, các ngành đã giải quyết được 240/279 vụ việc, đạt tỷ lệ 86%.
* Qua ả qu ết đã p t ện sa p ạm:
Trong lĩnh vực kinh tế, đã phát hiện và xử lý các sai phạm với tổng số tiền lên tới 512 triệu đồng, bao gồm 406 triệu đồng được thu hồi vào ngân sách nhà nước và 6 triệu đồng được trả lại cho công dân.
- Về đất đai: Trả lại quyền lợi 10.936 m2 đất cho công dân (tái định cƣ cho công dân)
Các cấp có thẩm quyền được đề nghị xử lý hành chính đối với 39 cá nhân và 01 tập thể có sai phạm, đã thực hiện kỷ luật 39 cá nhân và 01 tập thể, đồng thời trả lại quyền lợi cho 26 người bị ảnh hưởng.
Phân tích thực trạng tranh chấp đất đai tại Việt Nam, đặc biệt là ở Nghệ An, cho thấy công tác giải quyết tranh chấp đất đai tại UBND phường Trường Thi cần chú ý đến một số vấn đề quan trọng.
1.3.3.1.Tập trun xử lý số đơn t ư tồn đọn
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, các cơ quan chức năng cần tiến hành rà soát và giải quyết các vụ tranh chấp đất đai tồn đọng, bức xúc và kéo dài.
Cơ quan Thanh tra và Tài nguyên và Môi trường cần phối hợp rà soát các đơn thư hiện có, tập trung giải quyết triệt để những đơn thư chưa được xử lý và các đơn thư đã giải quyết nhưng không phù hợp với pháp luật và thực tiễn Việc này nhằm đảm bảo tuân thủ đầy đủ quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai, đồng thời khắc phục hiệu quả tình trạng các cơ quan có thẩm quyền không thực hiện trách nhiệm giải quyết, dẫn đến tranh chấp.