1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng theo pháp luật việt nam

203 27 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thủ Tục Phá Sản Các Tổ Chức Tín Dụng Theo Pháp Luật Việt Nam
Tác giả Dương Kim Thế Nguyên
Người hướng dẫn PGS TS Phạm Duy Nghĩa
Trường học Trường Đại Học Luật TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 203
Dung lượng 1,82 MB

Cấu trúc

  • 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu (7)
  • 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (10)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (11)
  • 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án (13)
  • 5. Tính mới của Luận án (14)
  • 6. Kết cấu của Luận án (15)
  • CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN (16)
    • 1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU (16)
      • 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài (16)
      • 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở Việt Nam (22)
      • 1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu (24)
    • 1.2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (0)
      • 1.2.1. Cơ sở lý thuyết (0)
      • 1.2.2. Phương pháp nghiên cứu (28)
  • CHƯƠNG 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KINH NGHIỆM LẬP PHÁP VỀ PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở MỘT SỐ NƯỚC (31)
    • 2.1. TỔ CHỨC TÍN DỤNG VỚI TÍNH CHẤT LÀ DOANH NGHIỆP KINH (0)
      • 2.1.1. Khái niệm tổ chức tín dụng (31)
      • 2.1.2. Các đặc trưng của tổ chức tín dụng (34)
      • 2.1.3. Các loại tổ chức tín dụng (40)
    • 2.2 KHÁI NIỆM CHUNG VỀ PHÁ SẢN VÀ PHÁ SẢN CÁC TCTD (0)
      • 2.2.3. Những nội dung có tính đặc thù cần được quy định trong pháp luật phá sản tổ chức tín dụng (67)
    • 2.3 KINH NGHIỆM PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở MỘT SỐ QUỐC GIA (74)
      • 2.3.1 Thủ tục phá sản ngân hàng theo pháp luật Hoa Kỳ (76)
      • 2.3.2 Thủ tục phá sản ngân hàng theo pháp luật Anh (80)
      • 2.3.3 Thủ tục phá sản các TCTD theo pháp luật Liên bang Nga (85)
      • 2.3.4 Một số nhận xét về thủ tục phá sản các TCTD tại Hoa Kỳ, Anh và Nga . 84 Kết luận Chương 2 (90)
  • Chương 3 THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG (93)
    • 3.1 KIỂM SOÁT ĐẶC BIỆT VỚI TÍNH CHẤT LÀ THỦ TỤC PHỤC HỒI ĐỐI VỚI TỔ CHỨC TÍN DỤNG MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN, MẤT KHẢ NĂNG CHI TRẢ (0)
      • 3.1.1 Thủ tục kiểm soát đặc biệt đối với TCTD có nguy cơ mất khả năng thanh toán, mất khả năng chi trả (96)
      • 3.1.2 Các biện pháp phục hồi tổ chức tín dụng khả năng thanh toán, mất khả năng chi trả khác (106)
    • 3.2 CÁC QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG THỦ TỤC PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG TẠI TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (114)
      • 3.2.1 Quy định đặc thù về nộp đơn và thụ lý đơn yêu cầu giải quyết phá sản các (0)
      • 3.2.2 Quy định đặc thù về một số loại chủ thể có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với TCTD (125)
      • 3.2.3 Quy định đặc thù về thủ tục rút gọn cho phá sản TCTD (130)
      • 3.2.4 Quy định đặc thù về quản lý tài sản phá sản, bảo toàn tài sản và thứ tự (0)
      • 4.1.1 Pháp luật về thủ tục phá sản TCTD phải thể hiện chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển thị trường tiền tệ (140)
      • 4.1.2 Hoàn thiện pháp luật về thủ tục phá sản các TCTD phải gắn với việc thực hiện Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” (141)
      • 4.1.3 Pháp luật về xử lý phá sản các TCTD phải đồng bộ với các pháp luật có liên quan (0)
    • 4.2 KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM (0)
      • 4.2.1 Hoàn thiện mô hình và cấu trúc của pháp luật về thủ tục phá sản TCTD (143)
      • 4.2.2 Hoàn thiện các quy định liên quan đến thủ tục áp dụng các biện pháp can thiệp đối với TCTD mất khả năng thanh toán nhằm hạn chế phá sản (146)
      • 4.2.3 Hoàn thiện các quy định về thủ tục xử lý phá sản tại tòa án (0)
    • 4.3 CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM (163)
      • 4.3.1 Điều kiện về nhận thức của cộng đồng đối với pháp luật phá sản (163)
      • 4.3.2 Năng lực giải quyết phá sản của đội ngũ cán bộ tham gia xử lý phá sản được bảo đảm (166)
      • 4.3.3 Đội ngũ quản tài viên và doanh nghiệp quản lý tài sản hình thành và phát triển (0)
      • 4.3.4 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bảo tiểm tiền gửi Việt Nam chủ động (168)
  • KẾT LUẬN (30)
  • PHỤ LỤC (175)

Nội dung

Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, sự phá sản doanh nghiệp trở thành một hiện tượng không thể tránh khỏi do tác động của cạnh tranh Qua các thời kỳ lịch sử, thái độ của công chúng và Nhà nước đối với phá sản đã có nhiều thay đổi, từ việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và coi thủ tục phá sản như hình thức xử lý nợ đến việc xem phá sản là cơ hội để tìm kiếm giải pháp phục hồi doanh nghiệp Hiện nay, phá sản được nhìn nhận như một hiện tượng cần được xử lý một cách hợp lý, thay vì né tránh.

Trong nền kinh tế thị trường, các tổ chức tín dụng (TCTD) hoạt động như những doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính trung gian, đóng vai trò quan trọng trong việc nhận tiền gửi, cho vay và cung cấp dịch vụ thanh toán TCTD không chỉ tìm kiếm lợi nhuận mà còn giữ vai trò thiết yếu trong việc duy trì sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế, giống như mạch máu trong cơ thể Khi một TCTD gặp khó khăn, nó có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, từ doanh nghiệp đến cá nhân Hơn nữa, sự cố từ một TCTD có thể lan rộng, tác động đến an ninh tài chính quốc gia Chính vì vậy, nhiều quốc gia thường áp dụng các biện pháp phục hồi và tái cơ cấu để hỗ trợ TCTD trong giai đoạn khó khăn, nhằm tránh việc thanh lý hay đóng cửa các tổ chức này.

1 Tô Nguyễn Cẩm Anh (2002), Quan niệm về phá sản và luật phá sản qua các giai đoạn lịch sử, Tài chính, số tháng 11, trang 34

2 Jukka Kilpi (1998), The ethics of bankruptcy, Routledge, trang 9

Mặc dù hiếm khi có tuyên bố một tổ chức tín dụng (TCTD) phá sản, điều này không có nghĩa là TCTD không thể mất khả năng thanh toán hoặc không bao giờ phải trải qua quy trình phá sản Khi một TCTD gặp khó khăn tài chính, vấn đề giải quyết tình trạng này trở nên cấp bách Để xử lý tình trạng mất khả năng thanh toán, TCTD cần bắt đầu thủ tục phá sản Tuy nhiên, quy trình này cần có cơ chế pháp lý đặc thù, được xây dựng dựa trên những đặc điểm riêng của các tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tài chính.

Tự do hóa tài chính tại Việt Nam đã dẫn đến sự phát triển nhanh chóng và đa dạng của các tổ chức tín dụng (TCTD), tạo ra môi trường cạnh tranh gay gắt Sự cạnh tranh này không thể tránh khỏi việc một số TCTD có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán hoặc phá sản Trong lịch sử, vấn đề phá sản đã được đề cập trong các văn bản pháp luật từ thời kỳ trước, nhưng trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa tập trung, phá sản không được thừa nhận Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luật Phá sản doanh nghiệp 1993 ra đời như văn bản pháp lý đầu tiên về phá sản, sau đó được thay thế bởi Luật Phá sản 2004, cả hai đều coi TCTD là doanh nghiệp đặc biệt cần quy định riêng Tuy nhiên, cho đến năm 2010, Nghị định số 05/2010/NĐ-CP mới được ban hành để áp dụng luật phá sản cho TCTD, nhưng vẫn chưa có vụ việc nào liên quan đến giải quyết phá sản TCTD theo các đạo luật này.

3 Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên khảo Luật kinh tế, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, trang 701-705

4 Phạm Duy Nghĩa (2003), Đi tìm triết lý của Luật Phá sản, Nghiên cứu Lập pháp số 11 (34), tr 35 – 46

Năm 2014, Quốc hội đã thông qua Luật Phá sản mới thay thế cho Luật Phá sản 2004, trong đó vấn đề phá sản của tổ chức tín dụng (TCTD) được quy định thành một chương riêng Mặc dù chỉ gồm 8 điều, Luật Phá sản 2014 đã thể hiện rõ quan điểm coi phá sản TCTD là một vấn đề đặc thù, đòi hỏi các quy định riêng biệt để xử lý hiệu quả.

Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đối mặt với sự suy giảm nghiêm trọng, đặc biệt là vấn đề nợ xấu, được xem như “cục máu đông” cản trở quá trình tái cơ cấu nền kinh tế Chính phủ đã khẳng định không ủng hộ việc áp dụng phá sản đối với các tổ chức tín dụng yếu kém, với mục tiêu duy trì sự ổn định và phát triển của ngành ngân hàng Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011-2015” nhấn mạnh việc không để xảy ra đổ vỡ ngoài tầm kiểm soát của Nhà nước Trong phiên chất vấn tại Quốc hội ngày 21/8/2012, Thống đốc NHNN Việt Nam đã tái khẳng định chủ trương của Chính phủ là “không để ngân hàng nào bị phá sản trong giai đoạn này”.

Chính phủ Việt Nam đang xem xét các chính sách nhằm ngăn chặn sự phá sản của ngân hàng, tuy nhiên, điều này có thể đi ngược lại với quy luật thị trường Để giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng (TCTD), cần có cơ chế hiệu quả nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến doanh nghiệp, người dân, hệ thống tài chính và nền kinh tế Đây chính là bối cảnh quan trọng mà tác giả lựa chọn để nghiên cứu.

“ Thủ tục phá sản các TCTD theo pháp luật Việt Nam ” để thực thực hiện đề tài Luận án tiến sĩ luật học

Từ bối cảnh nghiên cứu đó, Luận án tiến sĩ này của tác giả được thực hiện để trả lời những câu hỏi chính dưới đây:

Các tổ chức tín dụng (TCTD) có những đặc điểm đặc biệt so với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại thông thường, như cấu trúc tổ chức phức tạp và quy định quản lý chặt chẽ Những đặc điểm này khiến việc phá sản TCTD trở nên khó khăn hơn và không thể thực hiện theo cách thức giải quyết phá sản như các doanh nghiệp thông thường.

Việc giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng (TCTD) ở các quốc gia khác nhau được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau, với những điểm tương đồng và khác biệt rõ rệt Các quốc gia thường áp dụng các quy định pháp lý riêng để xử lý tình trạng này, dựa trên cơ sở lý luận và hệ thống pháp luật của từng nước Sự khác biệt trong quy trình xử lý phá sản TCTD có thể xuất phát từ các yếu tố như cấu trúc kinh tế, chính sách tài chính và mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng.

Pháp luật về giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng (TCTD) ở Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế và bất cập, không đáp ứng đầy đủ nhu cầu phát triển ổn định, lành mạnh và bền vững của hệ thống TCTD Để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, cần có những thay đổi trong khung pháp lý, dựa trên cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm cải thiện khả năng quản lý rủi ro và tăng cường sự minh bạch trong hoạt động của các TCTD.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận án

Nghiên cứu Luận án đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện cơ sở lý luận về quy định phá sản các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp nền tảng lý luận cho cơ quan lập pháp, nhà hoạch định chính sách và các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng, thực hiện và áp dụng pháp luật liên quan đến xử lý phá sản TCTD.

Nghiên cứu trong Luận án chỉ ra những hạn chế trong thủ tục phá sản của các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này.

Kết quả nghiên cứu của Luận án cung cấp nguồn tài liệu quý giá cho việc nghiên cứu và giảng dạy pháp luật về phá sản, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật về phá sản ngân hàng, tại các cơ sở đào tạo luật và kinh tế.

Tính mới của Luận án

Luận án này là nghiên cứu khoa học đầu tiên ở trình độ tiến sĩ về thủ tục phá sản các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam, góp phần quan trọng vào lĩnh vực khoa học pháp lý với những điểm mới đáng chú ý.

Luận án đã đóng góp vào hệ thống lý luận của khoa học luật phá sản và phá sản tổ chức tín dụng (TCTD) thông qua việc xây dựng và bổ sung các khái niệm như thủ tục phá sản và phá sản TCTD Đồng thời, luận án cũng phân tích và chứng minh tính chất đặc thù của các TCTD, từ đó nhấn mạnh sự cần thiết phải thiết lập các quy định đặc thù về phá sản TCTD.

Bằng cách phân tích kinh nghiệm xây dựng và hoàn thiện pháp luật tại một số quốc gia về xử lý các tổ chức tín dụng mất khả năng thanh toán, luận án đã chỉ ra những nguyên tắc phổ quát trong việc xây dựng pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng.

Luận án đã hệ thống hóa pháp luật Việt Nam và phân tích các quy định liên quan đến việc giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của các tổ chức tín dụng (TCTD) Qua đó, luận án chỉ ra những hạn chế trong việc áp dụng các quy định về phá sản TCTD trong thực tiễn.

Luận án đã xác định các luận cứ khoa học và đề xuất giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về phá sản các tổ chức tín dụng (TCTD) tại Việt Nam Mục tiêu là tạo ra hành lang pháp lý thuận lợi cho việc xử lý các TCTD gặp khó khăn tài chính Ngoài ra, luận án cũng phân tích và đưa ra các điều kiện cần thiết để đảm bảo việc thi hành pháp luật về phá sản của các TCTD được hiệu quả.

Luận án nghiên cứu hệ thống các vấn đề pháp lý liên quan đến thủ tục phá sản của các tổ chức tín dụng (TCTD) Những kiến nghị cụ thể trong luận án sẽ là cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục phá sản TCTD, từ đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật phá sản trong bối cảnh kinh tế thị trường Việt Nam Đồng thời, luận án cũng góp phần đảm bảo hoạt động an toàn và ổn định cho hệ thống TCTD, góp phần vào sự ổn định của nền kinh tế và phát triển đời sống người dân cũng như các doanh nghiệp.

Kết cấu của Luận án

Luận án được cấu trúc thành bốn chương, bao gồm phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các công trình công bố liên quan đến nội dung và phụ lục.

Chương 1: Tổng quan về những vấn đề nghiên cứu của Luận án

Chương 2: Những vấn đề lý luận về phá sản TCTD

Chương 3: Các quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết phá sản các TCTD

Chương 4: Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về thủ tục phá sản các TCTD.

TỔNG QUAN VỀ NHỮNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1.1 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển, hoạt động ngân hàng chịu nhiều áp lực của cạnh tranh Vì thế, vấn đề phá sản các ngân hàng đã được đặt ra khá sớm Thực tế cho thấy các cuộc khủng hoảng tài chính thường khởi phát bởi sự sụp đổ của một hoặc một số các tổ chức tài chính Vì vậy, để hạn chế việc lan truyền và suy sụp kinh tế, một cách ngầm định hay biểu lộ công khai bằng các chính sách, chính phủ các nước thường can thiệp giúp các các ngân hàng có nguy cơ sụp đổ để hỗ trợ các ngân hàng này tránh bị phá sản

Trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng (TCTD) được coi là đặc biệt và thường nhận được sự can thiệp từ Nhà nước để hạn chế phá sản Gerald Corrigan, trong bài viết "Are banks special?" năm 1983, đã chỉ ra ba đặc điểm chính khiến ngân hàng trở nên đặc biệt: (1) cung cấp giao dịch qua tài khoản, (2) là nguồn dự phòng thanh khoản cho các tổ chức tài chính và phi tài chính khác, và (3) là đầu mối thực hiện chính sách tiền tệ Ông định nghĩa ngân hàng là bất kỳ tổ chức nào đủ điều kiện cấp tài khoản giao dịch, và nếu đáp ứng định nghĩa này, tổ chức đó sẽ phải tuân thủ quy định của tổ chức BHTG, yêu cầu dự trữ bắt buộc, và có thể tham gia vào hệ thống thanh toán liên ngân hàng.

Trong bài viết “Sự thất bại của ngân hàng, rủi ro hệ thống và các điều tiết về ngân hàng” đăng trên Tạp chí, tác giả phân tích mối liên hệ giữa sự thất bại của ngân hàng và rủi ro hệ thống, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc điều tiết ngân hàng để ngăn ngừa khủng hoảng tài chính Bài viết cũng đề cập đến các biện pháp quản lý rủi ro và vai trò của các cơ quan quản lý trong việc duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.

6 E Gerald Corrigan (1983), Are Banks Special?, có thể tải về từ http://www.minneapolisfed.org/publications_papers/pub_display.cfm?idh4 (truy cập lần cuôi ngày 14.2.2015)

Trong bài viết của Carto Journal năm 1996, George G Kaufman đã chỉ ra rằng sụp đổ ngân hàng gây ra tổn hại lớn hơn so với sự sụp đổ của các tổ chức kinh doanh khác cùng quy mô Sự cố này không chỉ ảnh hưởng đến khách hàng và chủ nợ mà còn làm gián đoạn hệ thống thanh toán và tạo ra hiệu ứng domino trong hệ thống tài chính Nhiều ngân hàng được coi là "quá lớn để sụp đổ", nhưng Imad A Mosa trong cuốn sách "The myth of too big to fail" lại cho rằng quan niệm này chỉ là chủ quan và không dựa trên luận cứ khoa học rõ ràng Tác giả đã chỉ ra nhiều vấn đề liên quan đến chính sách cứu trợ cho các tổ chức lớn, bao gồm khó khăn trong việc xác định tổ chức nào là đủ lớn, chi phí cứu trợ cao, khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực tài chính mà không tạo ra hàng hóa, tạo ra rủi ro đạo đức, và gánh nặng nợ cho thế hệ tương lai.

7 George G Kaufman (1996), Bank failure, systemic risk, and bank regulation, Carto Journal,

8 Imad A Moosa (2010), The myth of too big to fail, Palgrave Macmillan, p.2

Moral hazard, hay còn gọi là "rủi ro đạo đức", là một khái niệm quan trọng trong kinh tế học, thể hiện những hành vi không chính đáng do sự bất cân xứng thông tin Tại Việt Nam, thuật ngữ này được dịch thành nhiều cách khác nhau, bao gồm "nguy cơ đạo đức", "hiểm nguy đạo đức", và "suy thoái đạo đức" Được giới thiệu lần đầu bởi George Akerlof trong tác phẩm "The Market for Lemons", lý thuyết về thông tin bất cân xứng cho thấy rằng khi một bên có thông tin hơn bên kia, điều này có thể dẫn đến những quyết định không hợp lý và gây thiệt hại cho bên yếu thế hơn.

Bài viết "Lemons: Quality Uncertainty and the Market Mechanism" năm 1970 đã chỉ ra rằng thông tin bất cân xứng xảy ra khi người bán nắm giữ nhiều thông tin hơn người mua Lý thuyết này đã được công nhận trong kinh tế học hiện đại khi ba nhà kinh tế học Mỹ, George Akerlof, Michael Spence và Joseph Stiglitz, nhận Giải Nobel Kinh tế 2001 Hệ quả của thông tin bất cân xứng bao gồm sự lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức Tác giả Mosa đề xuất các giải pháp cho các tổ chức tài chính lớn nhằm bãi bỏ chính sách "quá lớn không thể đổ vỡ" bằng cách hạn chế sự phát triển của chúng, áp dụng tỷ lệ an toàn và cho phép các tổ chức tài chính yếu kém được giải thể một cách có trật tự Để kiểm soát các tổ chức tài chính lớn, cần tư nhân hóa và chia nhỏ chúng để đạt quy mô vừa phải, đồng thời phân biệt giữa tổ chức tài chính tốt và xấu Nghiên cứu này đóng góp quan trọng cho chính sách tài chính ở nhiều quốc gia.

Bài viết "Mất khả năng thanh toán – tại sao cần một chế độ đặc biệt cho các ngân hàng?" của Eva Hüpkes giải thích sự cần thiết của một cơ chế đặc biệt để giải quyết vấn đề phá sản ngân hàng Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập quy trình thoát khỏi thị trường cho các ngân hàng, nhằm đảm bảo sự cân bằng và hài hòa giữa lợi ích của chủ nợ, cổ đông, công chúng và ổn định tài chính.

Bài viết "Khía cạnh kinh tế của phá sản ngân hàng" của Matej Marinic và Razvan Vlahu đề cập đến lý luận và thực tiễn giải quyết phá sản ngân hàng thương mại tại các nước phát triển từ góc nhìn kinh tế học pháp luật Các tác giả chỉ ra rằng luật phá sản cho doanh nghiệp thông thường không phù hợp với ngân hàng thương mại, do đó cần một khuôn khổ pháp lý riêng cho việc giải quyết phá sản ngân hàng Nghiên cứu cũng phân tích luật phá sản tại Mỹ, Anh và Đức, cùng với hai trường hợp điển hình từ cuộc khủng hoảng tài chính 2007-2009: sự phá sản của Lehman Brothers và Fortis Từ đó, tác giả khẳng định sự cần thiết của một cơ chế riêng biệt cho phá sản ngân hàng.

10 Hüpkes E, (2003), Insolvency – why a special regime for banks, Current Development in Monetary and

Financial Law, vol 3, Washington D.C., International Monetary Fund

Bài viết của Matej Marincˇ và Razvan Vlahu (2011) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết lập một khuôn khổ hiệu quả cho tái cấu trúc và thanh lý tài sản của ngân hàng mất khả năng thanh toán Khuôn khổ này không chỉ giúp ngăn chặn rủi ro đạo đức mà còn giảm chi phí ngân sách nhà nước trong việc xử lý các ngân hàng phá sản, đồng thời duy trì sự ổn định tài chính.

Bài viết “A comparison of U.S corporate and bank insolvency resolution” của Robert R Bliss và George G Kaufman phân tích sự khác biệt giữa quy trình giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán của các công ty thương mại và ngân hàng tại Hoa Kỳ Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về các thủ tục pháp lý và chính sách liên quan đến việc xử lý các trường hợp mất khả năng thanh toán trong hai lĩnh vực này.

Trong bài viết “Tại sao các ngân hàng không được phép phá sản” của Richard M Hynes và Steven D Walt, đăng trên tạp chí Washington and Lee Law Review số 67 năm 2010, các tác giả phân tích sự khác biệt giữa pháp luật về phá sản ngân hàng và pháp luật về phá sản doanh nghiệp tại Hoa Kỳ Trong khi phá sản doanh nghiệp được điều chỉnh bởi Bộ luật phá sản với sự giám sát của thẩm phán, thì phá sản ngân hàng lại tuân theo Luật BHTG liên bang, với FDIC đóng vai trò kiểm soát hoàn toàn quy trình Hai lý do về sự tồn tại của FDIC mà tác giả đưa ra đều không thuyết phục, do đó, họ đề xuất cần có một quy trình phá sản ngân hàng hiệu quả hơn để thay thế vai trò của FDIC.

Một số nghiên cứu đã tập trung vào việc dung hòa quyền lợi của các bên liên quan trong các vụ phá sản ngân hàng, như được trình bày trong bài viết “Chế độ giải quyết ngân hàng: cân bằng giữa quy định thận trọng và quyền lợi của cổ đông.”

(chế độ giải quyết ngân hàng: các quy định về sự cân bằng lợi ích và các quyền của

12 Bliss, Robert R và Kaufnan George G (2006), A Comparion of U.S Corporate and Bank Insolvency Reluation, Economic Perspective, FRB of Chicago Working Paper

13 Richard M Hynes and Steven D Walt (2010), Why Banks are Not Allowed in Bankruptcy, Wash & Lee Law Review, Volume 67, p 985

Sự ra đời của FDIC được lý giải bởi hai lý do chính Thứ nhất, FDIC góp phần kiểm soát tài sản và khả năng thanh toán của ngân hàng, qua đó duy trì niềm tin của người gửi tiền Thứ hai, FDIC giữ vai trò là chủ nợ lớn nhất, nỗ lực tối đa hóa khả năng thu hồi nợ cho các chủ nợ.

15 Kern Alexander (April 2009), resolution regimes: balancing prudential regulation and shareholder rights,

Trong bài viết "Journal of Corporate Law Studies, volume 9, part I, p62-93", tác giả Kern Alexander nhấn mạnh những điểm quan trọng về mối quan hệ giữa chủ nợ và quyền của cổ đông ngân hàng trong việc thiết lập các quy định về cơ chế giải quyết phá sản ngân hàng.

Ngoài những bài viết tiêu biểu đã được nêu, tác giả cũng đã sưu tầm và lựa chọn một số công trình nghiên cứu khác liên quan đến luật phá sản ngân hàng ở một số quốc gia cụ thể Một trong số đó là bài viết “Chế độ giải quyết đặc biệt cho các ngân hàng vỡ nợ ở Vương quốc Anh trong một bối cảnh quốc tế” của Peter Brierley, được đăng trên tạp chí Financial Stability Paper No 5 – tháng 7.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KINH NGHIỆM LẬP PHÁP VỀ PHÁ

SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở MỘT SỐ NƯỚC

2.1 TỔ CHỨC TÍN DỤNG VỚI TÍNH CHẤT LÀ DOANH NGHIỆP KINH DOANH TRONG NGÀNH ĐẶC BIỆT

2.1.1 Khái niệm tổ chức tín dụng Để tiến hành các hoạt động kinh doanh, chủ thể kinh doanh cần phải đầu tư vốn Nguồn vốn đầu tư một phần được hình thành từ vốn thuộc sở hữu của chủ thể kinh doanh Vì vậy, trong nhiều trường hợp, chủ thể kinh doanh muốn thực hiện hoạt động có quy mô kinh doanh lớn hơn khả năng vốn tự có của họ, họ cần tìm tới các nguồn tài trợ vốn Bên cạnh đó, trong xã hội lại có những nhóm chủ thể khác có các khoản tiền tiết kiệm được và chưa sử dụng lại có nhu cầu gia tăng về mức độ và số lượng tiết kiệm Vì vậy, dưới sức ép kinh tế, sự điều tiết vốn giữa các chủ thể này xuất hiện thông qua hoạt động vay mượn Ban đầu, sự điều tiết vốn giữa các chủ thể thừa vốn và chủ thể thiếu vốn được thực hiện trực tiếp, theo đó các chủ thể thừa vốn sẽ đáp ứng nhu cầu tài trợ vốn cho chủ thể thiếu vốn thông qua việc cho vay Về sau, nhu cầu này được đáp ứng bởi một số chủ thể trung gian chuyên nghiệp, chuyên đi vay của người khác để cho vay lại nhằm mục đích kiếm lời Những chủ thể như vậy chính là các định chế tài chính trung gian, thường được gọi là TCTD hay các ngân hàng trung gian (ngân hàng thương mại)

Trong nền kinh tế thị trường hiện đại, các tổ chức tín dụng (TCTD) như ngân hàng thương mại, công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính đóng vai trò quan trọng Chúng là những tổ chức kinh doanh chuyên về tiền tệ, với hoạt động chính bao gồm kinh doanh vốn, thu nhận tiền gửi và cho vay Tất cả những hoạt động này được gọi chung là hoạt động kinh doanh ngân hàng.

Việc xác định một tổ chức kinh doanh là Tổ chức tín dụng (TCTD) hiện nay chủ yếu dựa vào hoạt động ngân hàng của các tổ chức này.

Theo Bộ tổng luật Hoa Kỳ (The United States Code – USC), ngân hàng được định nghĩa là một ngân hàng hoặc công ty tín thác được thành lập và hoạt động theo luật pháp liên bang và các bang của Hoa Kỳ.

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG VÀ KINH NGHIỆM LẬP PHÁP VỀ PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở MỘT SỐ NƯỚC

THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỦ TỤC PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Ngày đăng: 01/08/2021, 10:24

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w