GIỚ I THI Ệ U ĐỀ TÀI NGHIÊN C Ứ U
Đặ t v ấn đề
Hiện nay, trên thế giới có 50 quốc gia và vùng lãnh thổ trồng cacao với tổng diện tích khoảng 50 triệu ha, sản lượng đạt 3,6 triệu tấn hạt cacao khô mỗi năm Tây Phi là khu vực sản xuất cacao lớn nhất, chiếm 68% sản lượng toàn cầu, trong đó Bờ Biển Ngà và Ghana là hai nước dẫn đầu Châu Á và khu vực Thái Bình Dương sản xuất khoảng 15,5%, với Indonesia và Papua New Guinea là các nước sản xuất chính Nam Mỹ, chủ yếu là Brazil và Ecuador, đóng góp khoảng 14,4% sản lượng cacao toàn cầu Các quốc gia có sản lượng cacao lớn (trên 100 ngàn tấn/năm) bao gồm Bờ Biển Ngà (1,24 triệu tấn), Ghana (632 ngàn tấn), và Indonesia (535 ngàn tấn) Hơn 80 quốc gia nhập khẩu cacao, chủ yếu là Hoa Kỳ, các nước châu Âu và Nhật Bản, chiếm 76,22% sản lượng cacao toàn cầu Tại Việt Nam, cây cacao mới được phát triển từ cuối những năm 90, với diện tích trồng cacao năm 2016 là 10.072 ha và sản lượng 7.372 tấn hạt khô, chủ yếu tập trung tại Đăk Lăk, Đăk Nông, và các tỉnh phía Nam khác.
Cần Thơ (27,8 ha), Trà Vinh (543,8 ha), Sóc Trăng (666 ha) và Gia Lai (9,6 ha) (Cục Trồng trọt, 2016)
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu hiện có diện tích trồng ca cao khoảng 281 ha, chủ yếu tập trung tại huyện Châu Đức (240 ha), Xuyên Mộc (10 ha) và Tân Thành (31 ha) Ca cao được trồng xen kẽ trong các vườn điều, tiêu, cà phê và cây ăn trái, với năng suất bình quân đạt 1,46 tấn/ha, tổng sản lượng đạt 381,06 tấn Thị trường xuất khẩu ca cao chủ yếu hướng đến Hàn Quốc, Nhật Bản và Bỉ, với sản lượng hạt ca cao lên men cung ứng khoảng 400 tấn/năm Trong đó, Hàn Quốc là thị trường tiêu thụ lớn nhất, với trung bình khoảng 720 tấn nguyên liệu xuất khẩu mỗi năm.
Nguồn: Bộ Nông nghiệp &PTNT, 2016
Hình 1.1 Diện tích trồng ca cao ở một sốđịa phương trongnước đến năm 2016
Bộ Nông nghiệp & PTNT đã quy hoạch phát triển ca cao ở các tỉnh phía Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, với mô hình trồng xen trong các vườn cây ăn quả, tiêu, dừa, cà phê và điều Quy hoạch chia thành 03 vùng trồng ca cao: Đồng Bằng Sông Cửu Long (Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Trà Vinh, Hậu Giang), Tây Nguyên (Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng) và Đông Nam Bộ (Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Thuận) Đến năm 2020, diện tích trồng ca cao đạt 50.000 ha, trong đó 38.500 ha là diện tích kinh doanh, năng suất bình quân đạt 1,19 tấn/ha, sản lượng hạt ca cao khô ủ lên men là 45.700 tấn, với tổng giá trị xuất khẩu đáng kể.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã được quy hoạch phát triển diện tích trồng ca cao lên tới 1.300 ha đến năm 2020, với mục tiêu sản xuất 1.188 tấn hạt ca cao khô ủ lên men Dự kiến, tổng đầu tư cho dự án này sẽ từ 65 - 75 triệu USD, theo Quyết định số 2015/QĐ-BNN-TT, ngày 23/8/2015 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Cây ca cao đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông nghiệp và kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Tỉnh đã đầu tư vào phát triển ca cao, hình thành hệ thống nhân giống, mạng lưới thu mua và cơ sở sơ chế hạt ca cao, cùng với việc thành lập Trung tâm nghiên cứu phát triển ca cao Theo các chuyên gia, Bà Rịa – Vũng Tàu có đủ điều kiện về đất đai, khí hậu và thổ nhưỡng để phát triển ca cao, mặc dù diện tích trồng còn khiêm tốn nhưng năng suất đứng thứ hai khu vực phía Nam Chất lượng hạt ca cao của tỉnh, đặc biệt ở các vùng Châu Đức, Tân Thành và Xuyên Mộc, được đánh giá cao, mang lại hương vị đặc trưng cho sản phẩm sô-cô-la, vượt trội hơn so với các sản phẩm từ các tỉnh khác trong nước và khu vực.
Diện tích trồng ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã giảm đáng kể trong những năm gần đây, từ 1.244 ha vào năm 2013 xuống còn 281 ha vào năm 2016 Nguyên nhân chính là do giá ca cao liên tục giảm, đầu ra sản phẩm không ổn định và người trồng không áp dụng quy trình canh tác hiệu quả Hệ quả là năng suất và chất lượng ca cao không đảm bảo, thiếu liên kết giữa sản xuất và tiêu thụ, cùng với sự cạnh tranh thấp so với các cây trồng khác như tiêu, cà phê và bưởi Bên cạnh đó, công tác quản lý chất lượng giống cây còn nhiều hạn chế, với sự xuất hiện ngày càng nhiều của sâu bệnh mà chưa được phòng trừ hiệu quả Hầu hết các doanh nghiệp chỉ tập trung vào thu mua mà không đầu tư vào sản xuất, dẫn đến thiếu mối liên kết chặt chẽ với nông dân.
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có tiềm năng lớn để phát triển cây ca cao nhờ vào lợi thế về đất đai, diện tích quy hoạch và điều kiện khí hậu thổ nhưỡng Tuy nhiên, hiện nay tỉnh chưa chú trọng phát triển sản xuất ca cao một cách đúng mức và thiếu các nghiên cứu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh Để khắc phục những điểm yếu này, cần có những định hướng chính sách cụ thể cho ngành ca cao trong thời gian tới Do đó, việc thực hiện Đề tài: “Giải pháp phát triển ngành ca cao tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” là rất cần thiết.
M ụ c tiêu và câu h ỏ i nghiên c ứ u
Mục tiêu của luận văn là khảo sát và đánh giá tình hình phát triển cây ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của cây ca cao trong khu vực này.
Mục tiêu 1: Đánh giá hiện trạng tình hình sản xuất, thu mua, chế biến và tiêu thụ ca cao ở tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu.
Mục tiêu 2: Đề xuất giải pháp để phát triển cây ca cao ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
Nội dung chính của đề tài là nghiên cứu để trả lời 02 câu hỏi:
Câu hỏi 1: Hiện trạng phát triển của cây ca cao tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu như thế nào?
Câu hỏi 2: Chính quyền tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu cần phải làm gì để tập trung phát triển cho cây ca cao trong thời gian tới?
Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài này bao gồm:
Các yếu tố sản xuất nông nghiệp bao gồm điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng, kỹ thuật canh tác, giống cây trồng, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, biện pháp phòng trừ sâu bệnh, nguồn lao động, hạ tầng giao thông, hệ thống thủy lợi, công nghệ thông tin và cung cấp điện nước Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp và đảm bảo sự phát triển bền vững.
- Những tác nhân, các nhà hỗ trợ và thúc đẩy phát triển cây ca cao tỉnh Bà
+ Nhà cung cấp đầu vào; nông hộ trồng ca cao; cơ sở thu gom, sơ chế, lên men; công ty mua hạt; công ty chế biến và xuất khẩu
Các cơ quan và tổ chức hỗ trợ phát triển ngành ca cao bao gồm Hội Nông dân, Trung tâm Khuyến nông, cùng nhiều chương trình và dự án khác Các cơ quan quản lý nhà nước như Sở Nông nghiệp & PTNT, Sở Công thương, Sở Kế hoạch & Đầu tư, Sở Khoa học và Công nghệ, và UBND các huyện, thành phố cũng đóng vai trò quan trọng Ngoài ra, Chi cục Trồng trọt & BVTV, Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Ban điều phối phát triển ca cao Việt Nam, các trường Đại học, viện nghiên cứu, và trung tâm chuyển giao kỹ thuật đều góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của ngành ca cao tại Việt Nam.
Dự án tập trung vào ba huyện trồng ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, bao gồm huyện Châu Đức, huyện Tân Thành và huyện Xuyên Mộc Các cơ quan và tổ chức cung cấp vốn, kỹ thuật cũng như ban hành chính sách sẽ được đặt tại thành phố Bà Rịa để hỗ trợ phát triển ngành ca cao trong khu vực.
- Phạm vi về thời gian:
Trong nghiên cứu này, số liệu thứ cấp được thu thập từ năm 2013 đến 2017, trong khi số liệu sơ cấp bao gồm thông tin từ các cuộc điều tra và phỏng vấn trực tiếp với các tác nhân, nhà hỗ trợ và chuyên gia, được thực hiện vào tháng 10 năm 2017.
+ Đềtài được thực hiện từtháng 8/2017 đến tháng 4/2018.
Phương pháp nghiên cứ u
Để trả lời hai câu hỏi nghiên cứu, tác giả áp dụng phương pháp mô tả định tính và thống kê mô tả, dựa trên dữ liệu khảo sát và phỏng vấn thực tế tại các hộ dân trồng ca cao Nghiên cứu cũng bao gồm phỏng vấn các chuyên gia cùng với các Sở, ngành và UBND của ba địa phương có diện tích trồng ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Châu Đức, Xuyên Mộc và Tân Thành là những địa phương mà các doanh nghiệp và cơ sở thu mua cần đánh giá thực trạng để đưa ra các kiến nghị phù hợp với tình hình địa phương.
Khung phân tích năng lực cạnh tranh địa phương theo mô hình kim cương của Michael E Porter được áp dụng để đánh giá ngành ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Mô hình này giúp xác định các yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự phát triển và cạnh tranh của ngành ca cao trong khu vực, từ đó đưa ra các chiến lược phù hợp để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Sử dụng nguồn thông tin thứ cấp từ Ban điều phối phát triển ca cao Việt Nam, Cục Trồng trọt, Cục Chế biến thương mại nông lâm thủy sản và Hiệp hội ca cao là rất quan trọng để nắm bắt xu hướng và thông tin mới nhất về ngành ca cao Những nguồn này cung cấp dữ liệu giá trị giúp cải thiện quy trình sản xuất và thương mại ca cao tại Việt Nam.
Việt Nam, thông qua Bộ Công Thương và các báo cáo từ Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, đã cung cấp thông tin quan trọng về quy hoạch, diện tích và sản lượng ca cao từ năm 2006 đến 2017 Các nguồn tài liệu như niên giám thống kê, sách báo và tạp chí cũng đã nêu rõ tình hình sản lượng, giá cả, thị trường xuất khẩu và tiêu thụ chế biến ca cao toàn cầu.
Nghiên cứu về ca cao cho thấy tầm quan trọng của các yếu tố đầu vào như đất đai, lao động, vườn ươm, cây giống, phân bón và thuốc trừ sâu, cũng như sự hỗ trợ kỹ thuật từ các nhà khoa học trong nước và tổ chức quốc tế Quy trình sản xuất ca cao bao gồm trồng, chăm sóc và thu hái, trong khi các dịch vụ đầu ra liên quan đến việc thu mua trái tươi, lên men, phơi và sấy Cuối cùng, việc nắm bắt thị trường tiêu thụ là yếu tố quyết định cho sự thành công của ngành ca cao.
- Sử dụng nguồn thông tin sơ cấp từ việc phỏng vấn 02 chuyên gia (Chi cục
Trồng trọt và bảo vệ thực vật là lĩnh vực quan trọng được Trung tâm Khuyến nông chú trọng Để thu thập thông tin, chúng tôi đã phỏng vấn đại diện từ 10 sở, ngành và địa phương, bao gồm Sở Nông nghiệp & PTNT, Sở Công thương, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân tỉnh, cùng với UBND huyện Châu Đức, Xuyên Mộc và Tân Thành Ngoài ra, phỏng vấn cũng được thực hiện với 01 đại diện Trường đại học, 01 Ngân hàng, 02 doanh nghiệp, cùng 49 hộ dân trồng ca cao tại các huyện Châu Đức, Xuyên Mộc và Tân Thành.
B ố c ụ c lu ận văn
Luận văn được cấu trúc thành 04 chương: Chương 1 giới thiệu đề tài nghiên cứu, bao gồm vấn đề, mục tiêu, câu hỏi nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, cũng như phương pháp và hình thức thu thập thông tin Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết về năng lực cạnh tranh và tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan đến cây ca cao Chương 3 áp dụng lý thuyết và thông tin đã thu thập để phân tích năng lực cạnh tranh của tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu trong ngành ca cao Cuối cùng, chương 4 đưa ra kết luận, trả lời hai câu hỏi nghiên cứu và đề xuất giải pháp phát triển cây ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
CƠ SỞ LÝ THUY Ế T VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN C Ứ U
Cơ sở lý thuy ế t
Cạnh tranh, ở cấp độ doanh nghiệp, là cuộc đấu tranh giành khách hàng, thị phần và nguồn lực, nhưng ngày nay, bản chất của cạnh tranh không chỉ là tiêu diệt đối thủ mà là tạo ra giá trị gia tăng cho khách hàng Các lý thuyết về cạnh tranh thường đề cập đến năng lực cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh, giải thích sự khác biệt trong thành quả của các thực thể kinh tế Để xác định tính cạnh tranh, cần xem xét khả năng sản xuất hàng hóa hoặc dịch vụ với mức giá cạnh tranh mà không cần trợ cấp Cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển sản xuất, khuyến khích đổi mới và cải tiến kỹ thuật Tuy nhiên, cạnh tranh cũng có thể dẫn đến những tác động tiêu cực như hành vi không lành mạnh, vi phạm pháp luật và tổn hại đến môi trường.
Theo Michael Porter, năng lực cạnh tranh (NLCT) được xác định qua năng suất, là giá trị gia tăng do một đơn vị lao động hoặc vốn tạo ra trong thời gian nhất định Năng suất là yếu tố quyết định mức sống lâu dài và ảnh hưởng đến thu nhập bình quân đầu người Để đạt được tăng trưởng năng suất bền vững, nền kinh tế cần được nâng cấp liên tục Trong phân tích của Porter, năng suất sử dụng các nguồn lực như vốn, lao động, đất đai là trung tâm, không chỉ là thước đo NLCT chính xác mà còn là yếu tố quan trọng cho sự thịnh vượng địa phương NLCT của một quốc gia phụ thuộc vào ba nhóm nhân tố: (i) lợi thế tự nhiên, (ii) NLCT vĩ mô, và (iii) NLCT vi mô Các yếu tố quyết định năng suất địa phương được chia thành ba nhóm: “các yếu tố lợi thế sẵn có”, “NLCT ở cấp độ địa phương”, và “NLCT ở cấp độ doanh nghiệp”.
Các yếu tố lợi thế sẵn có của địa phương bao gồm tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý và quy mô Những yếu tố này không chỉ liên quan đến số lượng mà còn đến sự phong phú, chất lượng và khả năng sử dụng Ngoài ra, chi phí đất đai, điều kiện khí hậu, diện tích, địa thế vùng, nguồn khoáng sản, nguồn nước và các nguồn lợi như ngư trường cũng đóng vai trò quan trọng trong việc xác định lợi thế cạnh tranh của một địa phương.
Năng lực cạnh tranh ở cấp độ địa phương được hình thành từ các yếu tố cấu thành môi trường hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm tư duy, quan điểm, thái độ, hành vi, sự sáng tạo và tinh thần kinh doanh Các yếu tố này có thể chia thành hai nhóm chính: (i) chất lượng hạ tầng xã hội và các thể chế chính trị, pháp luật, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế; (ii) các thể chế và chính sách kinh tế như chính sách tài khoá, tín dụng và cơ cấu kinh tế.
NLCT ở cấp độ doanh nghiệp là các yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, bao gồm chất lượng môi trường kinh doanh, cơ sở hạ tầng kỹ thuật, và trình độ phát triển của cụm ngành Môi trường kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao năng suất và khả năng đổi mới của doanh nghiệp Theo Michael Porter (2008), chất lượng môi trường kinh doanh được đánh giá qua bốn đặc tính: (i) điều kiện về nhân tố đầu vào, (ii) điều kiện cầu, (iii) ngành công nghiệp phụ trợ và liên quan, và (iv) chiến lược công ty cùng cấu trúc cạnh tranh nội địa Bốn đặc tính này được mô tả qua hình thoi, được gọi là Mô hình Kim cương Porter.
2.2.2 Mô hình kim cương vềnăng lực cạnh tranh của Michael Porter
Nguồn: Porter (2008, tr 227) Hình 2.1 Mô hình kim cương về năng lực cạnh tranh của Michael Porter
Những điều kiện nhân tố đầu vào
● Môi trường nội địa khuyến khích các dạng đầu tư và nâng cấp bền vững thích hợp
● Cạnh tranh quyết liệt giữa các đối thủ tại địa phương.
Sốlượng và chi phí của nhân tố(đầu vào)
● Cơ sở hạ tầng vật chất
● Cơ sở hạ tầng quản lý
● Cơ sở hạ tầng thông tin ● Cơ sở hạ tầng khoa học
Những khách hàng nội địa sành sỏi và đòi hỏi khắt khe
● Nhu cầu của khách hàng
(nội địa) dự báo nhu cầu ở những nơi khác
● Nhu cầu nội địa bất thường ở những phân khúc chuyên biệt hóa có thể được đáp ứng trên toàn cầu
- Sự hiện hữu của các nhà cung cấp nội địa có năng lực
- Sự hiện hữu của ngành công nghiệp cạnh tranh có liên quan
● Nhân tố chuyên môn hóa
Môi trường chính sách giúp phát huy chiến lược kinh doanh và cạnh tranh
Mô hình kim cương của Michael Porter nhấn mạnh bốn yếu tố chính tạo nên lợi thế cạnh tranh địa phương: (i) Các điều kiện về nhân tố sản xuất như lao động có kỹ năng, công nghệ và hạ tầng; (ii) Các điều kiện về cầu, bao gồm nhu cầu trong và ngoài nước đối với sản phẩm và dịch vụ; (iii) Các ngành công nghiệp hỗ trợ, bao gồm nhà cung cấp và phân phối; và (iv) Bối cảnh chiến lược và cạnh tranh của doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc thành lập và quản lý doanh nghiệp cùng với đặc điểm của đối thủ trong nước Qua mô hình này, Porter đề xuất một phương pháp nghiên cứu cho ngành ca cao tại tỉnh.
Bà Rịa –Vũng Tàu như sau:
Những điều kiện nhân tố đầu vào
- Vai trò của nhà nước trong việc quy hoạch, thúc đẩy phát triển cây ca cao
- Vai trò của hiệp hội để hỗ trợ thúc đẩy sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ca cao
- Dịch vụ cung cấp cây giống và chuyển giao khoa học kỹ thuật
- Thông tin thịtrường, giá cả
- Vị trí địa lý tỉnh Bà Rịa
- Địa hình, thổ nhưỡng, tài nguyên đất, khí hậu thời tiết cho phát triển cây cacao
- Nguồn vốn đầu tư, hỗ trợ cho phát triển cây ca cao
- Hạ tầng giao thông, điện, nước
- Hỗ trợ về mặt khoa học công nghệ để phát triển cây ca cao
- Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển, quy hoạch vùng trồng cây cacao
- Công nghiệp chế biến ca cao
- Sự tham gia chế biến xuất khẩu của các doanh nghiệp
- Tính liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ
Môi trường chính sách giúp phát huy chiến lược kinh doanh và cạnh tranh ngành ca cao tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
Các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan
T ổ ng quan các nghiên c ứu trướ c
2.2.1 T ổ ng quan các nghiên c ứu nướ c ngoài
Nghiên cứu của Coulter và Abena (2010) về hiệu quả sản xuất cây ca cao ở Cameroon cho thấy đất đai, khí hậu và thổ nhưỡng tại đây rất phù hợp cho việc trồng ca cao Bên cạnh đó, thị trường tiêu thụ nội địa có tiềm năng lớn Tuy nhiên, sản phẩm ca cao chưa đảm bảo chất lượng xuất khẩu và không kiểm soát được giá thị trường thế giới Chính phủ Cameroon đang hỗ trợ vốn để cải thiện chất lượng sản phẩm, nhưng giá cả không ổn định và mối liên kết giữa nông dân, thương lái, doanh nghiệp chế biến và cơ sở phân phối còn yếu kém.
Nghiên cứu của Rifin et al (2015) đã xác định các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn kênh phân phối của nông dân trồng ca cao thông qua việc phỏng vấn trực tiếp 109 hộ nông dân và 20 thương lái tại Miền Đông Java Kết quả cho thấy rằng tuổi tác và kinh nghiệm của người trồng ca cao có tác động đáng kể đến quyết định lựa chọn thương lái trong việc tiêu thụ sản phẩm.
2.2.2 T ổ ng quan các nghiên c ứu trong nướ c
Nghiên cứu của Agrifood Consulting International (2008) về phát triển bền vững cây ca cao tại Việt Nam đã chỉ ra rằng ca cao là loại cây trồng có nguy cơ sâu hại và dịch bệnh cao, dẫn đến việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật là khó tránh khỏi Nghiên cứu cũng đặt ra nhiều câu hỏi về lợi ích kinh tế xã hội trong chuỗi giá trị ca cao, như ai sẽ là người hưởng lợi từ sự phát triển của ngành và tác động kinh tế xã hội đến các nhóm dân cư khác nhau Bên cạnh đó, chiến lược quản lý nào sẽ hiệu quả trong việc giảm thiểu rủi ro môi trường, nông học, kinh tế và xã hội liên quan đến sản xuất ca cao cũng được thảo luận Cuối cùng, khả năng hợp tác giữa khu vực nhà nước và tư nhân để hỗ trợ phát triển bền vững ngành ca cao và giảm thiểu rủi ro cũng được xem xét.
Các tác giả Đào Thị Lam Hương, Lê Văn Bốn và Phạm Văn Thao (2010) đã tiến hành nghiên cứu chọn tạo giống ca cao và áp dụng các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến tại một số vùng trồng ca cao ở các tỉnh Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng, Bến Tre và Đồng Nai Nghiên cứu đã thành công trong việc chọn ra hai giống ca cao PBC 157 và PBC 159, được công nhận cho sản xuất thử nghiệm với năng suất trên 2 tấn/ha, chất lượng tốt và khả năng chống chịu bệnh thối quả do nấm Phytophthora Bên cạnh đó, quy trình trồng và chăm sóc ca cao bền vững, quy trình lên men hạt ca cao và quy trình phòng trừ bệnh thối quả cũng đã được xây dựng.
Nghiên cứu của nhóm tác giả Lê Quang Bình và các cộng sự (2012) chỉ ra rằng cây ca cao ở Đăk Lăk đang đối mặt với nhiều rào cản trong phát triển, đặc biệt trong các tộc người thiểu số Mặc dù được du nhập từ những năm 1980, ca cao chỉ thực sự được quan tâm từ đầu những năm 2000 Phân tích cho thấy lợi ích kinh tế của ca cao không vượt trội hơn các cây công nghiệp khác như cà phê hay điều, và không thể thay thế cây lương thực ngắn ngày Tuy nhiên, cây ca cao có thể là sự thay thế hợp lý ở những vùng đất kém hiệu quả Người nông dân gặp khó khăn trong việc trồng ca cao do thiếu thông tin, đặc biệt là về đầu ra sản phẩm, dẫn đến sự thận trọng trong phát triển Để khắc phục tình trạng này, nhóm tác giả đề xuất tỉnh Đăk Lăk cần quy hoạch lại đất đai, triển khai thực hiện quy hoạch hiệu quả, và tạo ra môi trường thị trường cạnh tranh lành mạnh Doanh nghiệp cũng cần có chiến lược phù hợp và nhà nước phải hỗ trợ hợp lý để khuyến khích phát triển ca cao.
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Tâm và Lưu Thanh Đức Hải (2016) về chuỗi giá trị sản phẩm ca cao tại tỉnh Bến Tre cho thấy có 268 tác nhân tham gia tại 4 huyện Châu Thành, Giồng Trôm, Mỏ Cày Bắc và Mỏ Cày Nam Kết quả cho thấy chuỗi giá trị hiện tại chủ yếu dựa vào 03 kênh phân phối, trong đó 85,92% sản phẩm ca cao được xuất khẩu ra nước ngoài, trong khi 14,08% tiêu thụ nội địa, đặc biệt là sản phẩm bơ sô-cô-la, sô-cô-la và bột sô-cô-la Bến Tre sở hữu điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc trồng ca cao dưới tán dừa, nhưng nông hộ gặp nhiều khó khăn như sâu bệnh và xâm nhập mặn vào mùa khô, cùng với việc chưa chú trọng chăm sóc do cây ca cao được coi là cây trồng phụ và sự cạnh tranh từ các loại cây trồng khác.
Từ năm 2012 đến 2016, diện tích trồng ca cao tại Bến Tre đã giảm mạnh từ 8.243 ha xuống chỉ còn 1.585 ha Để khắc phục tình trạng này, nghiên cứu đã đề xuất 09 giải pháp chiến lược và 6 nhóm hoạt động, nhấn mạnh vai trò quan trọng của chính quyền địa phương trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành ca cao trong tỉnh.
PHÂN TÍCH NĂNG LỰ C C Ạ NH TRANH
Các nhân t ố điề u ki ệ n cung
Các điều kiện phát triển cây ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bao gồm các yếu tố tự nhiên như vị trí địa lý, khí hậu, địa hình, tài nguyên đất và nước, cùng với chế độ nắng gió Bên cạnh đó, nguồn nhân lực và vốn đầu tư cũng đóng vai trò quan trọng, cùng với hệ thống hạ tầng kỹ thuật như giao thông đường bộ và thủy, cảng biển, vận chuyển hàng không, cung cấp điện, thủy lợi, cấp thoát nước và thông tin Ngoài ra, các thể chế như trung tâm nghiên cứu, chuyển giao công nghệ và cơ sở đào tạo nghề cũng góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành ca cao.
3.1.1 Các điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu nằm trong vùng Đông Nam Bộ, thuộc khu vực Kinh tế trọng điểm phía Nam Tỉnh này giáp thành phố Hồ Chí Minh ở phía Tây, tỉnh Đồng Nai ở phía Bắc, tỉnh Bình Thuận ở phía Đông và biển Đông ở phía Nam Với diện tích 1.989,51 km², Bà Rịa – Vũng Tàu chiếm 0,6% tổng diện tích tự nhiên của cả nước và 8,6% diện tích vùng Đông Nam Bộ.
Theo Dự án ứng phó biến đổi khí hậu tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đến 2020, địa hình tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu bao gồm 4 dạng chính: núi cao, đồng bằng, đồng bằng ngập mặn và đặc biệt là núi thấp lượn sóng Địa hình này mang đặc điểm của các đồi đất bazan, đất xám trên phù sa cổ và đất xám trên Granít, với độ cao biến đổi từ +5 đến +120 m Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng cây lâu năm như cà phê, tiêu, cây công nghiệp và đặc biệt là cây cacao.
Nguồn: UBND tỉnh BR-VT Hình 3.1 Bản đồ hành chính tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu
Khí hậu Bà Rịa – Vũng Tàu mang đặc trưng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, tương tự như các tỉnh khác ở Đông Nam Bộ Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cây ca cao theo hướng thâm canh, tăng vụ, xen canh và gối vụ Hơn nữa, việc ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp chuyên canh sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp tại địa phương.
Bà Rịa – Vũng Tàu có khí hậu ôn hòa nhờ vị trí địa lý thấp, nhận nhiều năng lượng bức xạ mặt trời và ít bị ảnh hưởng bởi gió mùa phương Bắc Nhiệt độ trung bình quanh năm cao, dao động từ 27°C đến 28°C, với độ ẩm trung bình khoảng 80% Mùa khô kéo dài từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau, với lượng mưa nhỏ, trong khi mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 chiếm 90% lượng mưa cả năm Độ chênh lệch độ ẩm giữa mùa khô và mùa mưa không nhiều, khoảng 10%, và độ ẩm mùa khô thường cao hơn Khí hậu thuận lợi này tạo điều kiện lý tưởng cho cây cacao phát triển.
Theo Niên giám thống kê năm 2017, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có tổng diện tích đất nông nghiệp là 145.577 ha, trong đó đất sản xuất nông nghiệp chiếm 105.402 ha, bao gồm 31.048 ha đất cây hàng năm và 74.355 ha đất cây lâu năm Diện tích đất lâm nghiệp là 32.351 ha, đất nuôi trồng thủy sản 5.971 ha, và đất làm muối 1.129 ha Hơn 45% diện tích đất là phù sa và bazan, với trên 70% có địa hình bằng phẳng và độ dốc cấp 3 Đặc biệt, 88% diện tích đất có độ dày tầng canh tác lớn hơn 50 cm, rất thích hợp cho cây trồng như ca cao Tỉnh có khoảng 41.168,51 ha đất trồng cây lâu năm, chủ yếu là cao su, điều, cà phê, tiêu và cây ăn quả khác Cây ca cao, với giá trị kinh tế cao và khả năng phát triển tốt trên nhiều loại đất, có thể trồng xen với các loại cây lâu năm khác, với diện tích trồng xen lên đến 20.000 ha.
Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh sở hữu nguồn nước mặt phong phú với 04 con sông chính: sông Thị Vải – Cái Mép, sông Dinh, sông Đu Đủ và sông Ray Trong số đó, sông Đu Đủ và sông Ray cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp Tỉnh cũng có 23 hồ chứa nước ngọt, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước cho nông nghiệp, sinh hoạt, công nghiệp và dịch vụ.
Các hồ chứa được xây dựng trên địa hình cao giúp nguồn nước giữ được chất lượng tốt, không bị nhiễm phèn hay mặn Nguồn nước ngầm có thể khai thác lên đến 70.000 m3/ngày Với hệ thống kênh dẫn thủy lợi rộng khắp, tỉnh đảm bảo cung cấp đủ nước tưới cho diện tích trồng cây công nghiệp, cây ăn quả và quy hoạch trồng ca cao hiện tại.
Theo Niên giám thống kê tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu năm 2017, dân số trung bình toàn tỉnh đạt 1.091.959 người, với mật độ dân số 551 người/km² Trong đó, dân số nông thôn chiếm 48,57% và dân số thành thị chiếm 51,43% Tỷ lệ nam giới là 50,04% và nữ giới là 49,96% Cơ cấu dân số đa dạng với nhiều thành phần dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 97,53%, còn lại là người Hoa, Chơ Ro, Khmer, Tày và một số dân tộc ít người khác.
Nguồn lao động tại tỉnh BR-VT khá dồi dào và ổn định, với 584.485 người trong độ tuổi lao động, chiếm 55% dân số Tuy nhiên, lao động trong ngành nông nghiệp đang giảm nhanh, đặc biệt là lao động trẻ, dẫn đến nguy cơ "già hóa" lực lượng lao động trong lĩnh vực này Để đối phó với tình trạng này, ngành nông nghiệp cần nhanh chóng chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi Mặc dù chất lượng lao động trong nông nghiệp được đánh giá ở mức trung bình khá so với các tỉnh phía Nam, nhưng vẫn còn nhiều lao động thiếu kiến thức cơ bản về kỹ thuật trồng trọt và chăn nuôi Sự thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn sâu gây khó khăn trong việc tổ chức và quản lý phát triển bền vững, do đó, đây là vấn đề cần được ưu tiên giải quyết trong thời gian tới.
Nguồn vốn đầu tư cho vườn trồng ca cao của nông dân chủ yếu đến từ vay vốn và vốn tự có Các hộ dân thường vay từ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn theo chính sách tín dụng phát triển nông nghiệp (Nghị định 55/2015/NĐ-CP) Lãi suất cho vay dao động từ 6,5-8%/năm, thấp hơn lãi suất thông thường, với lãi suất cho vay ngắn hạn dưới 7%/năm Một số hộ thuộc đối tượng chính sách còn được hưởng lãi suất chỉ khoảng 5-6%/năm từ Ngân hàng chính sách xã hội.
Ngân sách nhà nước hỗ trợ thông qua chương trình Khuyến nông, cung cấp 100% cây giống và 30% vật tư, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật cho năm đầu, cùng với đào tạo kỹ thuật trồng cacao cho nông dân Theo Quyết định số 2194/QĐ-TTg ngày 25/12/2009 của Thủ tướng Chính phủ, ngân sách cũng hỗ trợ sản xuất giống đầu dòng cho các tổ chức, cá nhân Bên cạnh đó, ngân sách nhà nước còn hỗ trợ nông dân phục hồi sản xuất trong trường hợp thiên tai, dịch bệnh theo Quyết định số 142/2009/QĐ-TTg ngày 31/12/2009.
- Theo Ông Trần Văn Cường, Giám đốc Sở Nông nghiệp &PTNT tỉnh Bà
Tỉnh Rịa – Vũng Tàu đã thành lập các Quỹ đầu tư phát triển, Quỹ khoa học công nghệ và Quỹ bảo vệ môi trường nhằm hỗ trợ người dân và doanh nghiệp vay vốn với lãi suất thấp từ 5-5,5%/năm Mục tiêu là thúc đẩy đầu tư sản xuất, tái đầu tư, đặc biệt ưu tiên cho các cơ sở và doanh nghiệp cải tiến khoa học kỹ thuật, quy trình sản xuất và ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp Tuy nhiên, qua phỏng vấn, nhiều nông hộ trồng ca cao và các doanh nghiệp thu mua, sơ chế, chế biến ca cao vẫn chưa nắm bắt thông tin về các nguồn Quỹ này và chưa từng tiếp cận để vay vốn ưu đãi phục vụ sản xuất.
Hệ thống giao thông tỉnh phát triển nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu các ngành kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp và ca cao Điều này tạo lợi thế cạnh tranh, giúp vận chuyển vật tư nông nghiệp và sản phẩm ca cao nhanh chóng, đảm bảo thời vụ và chất lượng Các tuyến đường giao thông chủ lực như quốc lộ 51, 55, 56 và tuyến đường ven biển từ Vũng Tàu đến Bình Châu huyện Xuyên đóng vai trò quan trọng trong việc này.
Hệ thống giao thông tại Xuyên Mộc, bao gồm các tuyến đường tỉnh lộ 44, 52 và đường 328, đã kết nối tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu với TP Hồ Chí Minh, Đồng bằng Sông Cửu Long và các tỉnh phía Nam Đường giao thông nông thôn trong tỉnh cũng đã được đầu tư hoàn chỉnh, đảm bảo kết nối tới các vùng quy hoạch sản xuất ca cao Ngoài ra, hệ thống cảng biển quy mô lớn với 52 cảng được quy hoạch, trong đó 24 cảng đã được xây dựng và đưa vào hoạt động, có tổng công suất khoảng 67,5 triệu tấn/năm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển và xuất khẩu sản phẩm ca cao.
* Hệ thống cung cấp điện:
Trên địa bàn tỉnh có Trung tâm nhiệt điện Phú Mỹ và Nhà máy nhiệt điện
Phân tích Tình hình cung – c ầ u và th ị trườ ng ca cao th ế gi ớ i 1 8
Sản phẩm ca cao của Bà Rịa – Vũng Tàu chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu, chiếm 82%, trong khi chỉ 18% được tiêu thụ trong nước Thị trường nội địa cho ca cao Bà Rịa – Vũng Tàu rất tiềm năng, nhờ vào hương vị đặc trưng của sản phẩm sô-cô-la, tạo ra sức cạnh tranh cao Vùng đất này được thiên nhiên ưu đãi, là vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cửa ngõ vào TP Hồ Chí Minh, với nhiều ngành công nghiệp phát triển và khu công nghiệp, thu hút lao động và chuyên gia trong và ngoài nước.
Từ năm 2010 đến nay, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hút hơn 5,3 triệu lượt khách du lịch mỗi năm, trong đó có khoảng 650.000 lượt khách quốc tế Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ các sản phẩm địa phương như bánh kẹo, sô-cô-la, nước uống, và các loại rượu lên men từ ca cao, cùng với những sản phẩm đặc trưng chế biến từ ca cao trồng tại tỉnh.
Theo Cục Trồng trọt (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Việt Nam đã được Hội đồng Ca cao quốc tế (ICC) xếp vào nhóm 1/23 nước trồng ca cao có sản phẩm đạt hương vị tốt, với 40% sản lượng ca cao đạt tiêu chuẩn này Tỷ lệ này tương đương với một số quốc gia như Cộng hòa Dominica, Honduras, Panama và Guatemala, nhưng vẫn còn thấp so với nhiều nước khác có tỷ lệ đạt từ 75% đến 100% Ở châu Á, ngoài Việt Nam, Indonesia cũng có mặt trong danh sách nhưng chỉ có 1% sản phẩm ca cao đạt hương vị tốt.
* Nhu cầu nhập khẩu ca cao trên thế giới:
Theo Báo cáo của Cục Chế biến Nông lâm thủy sản và nghề muối, Bộ Nông nghiệp &PTNT năm 2016, nhu cầu về ca cao đã tăng lên 4 lần trong nửa thế kỷ qua, từ 800.000 tấn/năm lên gần 4 triệu tấn/năm Sự gia tăng này chủ yếu đến từ các nước phát triển có thu nhập cao, nơi ca cao được xem là thực phẩm bổ dưỡng cao cấp và có tác dụng chữa trị các căn bệnh nguy hiểm như bệnh động mạch vành, ung thư và chống lão hóa nhờ chứa chất Flavonoids Thị trường xuất khẩu hạt ca cao hàng năm khoảng trên dưới 2,5 triệu tấn, với hơn 80 quốc gia nhập khẩu, trong đó có Hoa Kỳ và 10 nước Châu Âu như Pháp, Đức, Anh, Canada, Thụy sỹ.
Hà Lan, Nga, Tây Ban Nha, Chi lê, Đan Mạch) và Nhật Bản (chiếm 76,22% tổng sản lượng hạt ca cao trên thế giới)
Theo dự báo của ICCO, đến năm 2020, thế giới sẽ thiếu khoảng 1 triệu tấn hạt ca cao do nhu cầu tiêu thụ sản phẩm chế biến từ hạt ca cao gia tăng, cùng với sự sụt giảm sản lượng ở các quốc gia có thế mạnh trồng cacao.
Bờ Biển Ngà, Ghana, và các nước trồng ca cao ở Châu Á, đặc biệt là Indonesia cũng giảm sản lượng và chất lượng
* Thị trường ca cao thế giới:
Theo Cục Trồng trọt, sản lượng hạt ca cao toàn cầu đạt đỉnh 4,65 triệu tấn hạt khô vào năm 2012, nhưng cũng ghi nhận mức thấp nhất trong những năm sau đó.
Năm 2007, sản lượng hạt ca cao khô đạt 3,9 triệu tấn Sản lượng nhập khẩu hạt ca cao khô cao nhất vào năm 2011 với 3,32 triệu tấn, trong khi năm 2013 ghi nhận mức thấp nhất là 2,94 triệu tấn.
2011 là 4,84 triệu tấn hạt khô, và đạt thấp nhất vào năm 2005 là 2,47 triệu tấn hạt ca cao khô
Bảng 3.1 Tình hình thịtrường cacao thế giới từ 2005 -2013 Đơn vị: Triệu tấn hạt khô
Theo ICCO-Giá sàn London, giá ca cao từnăm 2005 đến nay biến động theo xu hướng tăng qua các năm, giá ca cao bình quân 11 tháng năm 2015 là 3.101,40
Giá ca cao hiện tại đạt 3.360,84 USD/tấn, phản ánh sự tăng trưởng mạnh mẽ của giá ca cao toàn cầu từ năm 2015, đồng thời kéo theo sự tăng giá ca cao tại Việt Nam từ cuối năm 2015 đến nay Qua khảo sát tại ba điểm thu mua và sơ chế hạt ca cao, cùng với ba công ty chế biến ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cho thấy xu hướng tích cực trong ngành ca cao.
Tàu, cho thấy giá thu mua hạt ca cao ở Việt Nam hiện nay đang ở mức cao từ
Giá hạt ca cao khô tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu dao động từ 60.000 đến 70.000 đồng/kg, có thời điểm tăng lên 75.000 đồng/kg Đây là tín hiệu tích cực cho người trồng ca cao trong thời gian tới.
Hình 3.2 Giá ca cao thế giới 2005-2015 (Theo ICCO-Giá sàn LonDon) Đơn giá (USD/Tấn)
Hình 3.3 Diễn biến giá ca cao thế giới năm 2015 (theo ICCO, Giá sàn London)
Theo báo nông nghiệp Việt Nam, Giám đốc điều hành Tập đoàn Puratos Grand-Place Việt Nam cho biết, hàng năm, Tập đoàn xuất khẩu hàng trăm tấn hạt ca cao ra thị trường quốc tế, bao gồm cả Nhật Bản, và dự kiến sẽ đầu tư khoảng 3 triệu USD cho ngành ca cao Việt Nam vào năm 2016 Lý do cho việc đầu tư này là ca cao là cây trồng chủ lực tại nhiều tỉnh thành, cùng với nhu cầu cao từ thị trường trong nước và quốc tế Giá ca cao đang tăng nhanh, hiện đạt gần 3.360 USD/tấn, với giá thu mua trong niên vụ 2015-2016 đạt kỷ lục 70-75 ngàn đồng/kg Chất lượng ca cao Việt Nam đang dần được khẳng định, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển trong tương lai Công ty Vina Ca cao kỳ vọng sẽ mở rộng thị trường sang Thái Lan, Singapore và Malaysia với các sản phẩm sô-cô-la và ca cao bột mang thương hiệu riêng Dự báo, thế giới sẽ thiếu khoảng 1 triệu tấn ca cao vào năm 2020, trong khi châu Á, đặc biệt là Đông Nam Á, được xem là khu vực tiềm năng cho ngành ca cao phát triển.
Các ngành h ỗ tr ợ và liên quan
Vào ngày 11/4/2005, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã ban hành Quyết định số 803/QĐ-BNN-NN, thành lập Ban Điều phối phát triển cacao Việt Nam (VCC), nhằm xác định tầm quan trọng của sản xuất cacao đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam Ban VCC do giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia làm Trưởng ban, với sự tham gia của các thành viên gồm đại diện cơ quan quản lý nhà nước, nhà khoa học, doanh nghiệp trong và ngoài nước, cùng các tổ chức phi Chính phủ.
VCC, tổ chức chứng nhận sản phẩm ca cao, là thành viên chính thức của câu lạc bộ ca cao Đông Nam Á (ACC) và có mối quan hệ với các tổ chức phát triển cacao toàn cầu Theo Ông Trịnh Văn Thành, Giám đốc Công ty Cacao Thành Đạt, VCC đã phổ biến nhiều nghiên cứu cho nông dân trồng ca cao tại Châu Đức, Bà Rịa – Vũng Tàu, tạo sự liên kết giữa cơ quan quản lý, đơn vị nghiên cứu, tổ chức quốc tế, doanh nghiệp và nông dân Điều này đã giúp hình thành tổ chức sản xuất và tiêu thụ cacao, xây dựng quy trình nhân giống, chuyển giao kỹ thuật chăm sóc và đặc biệt là kỹ thuật lên men hạt ca cao VCC cũng đã thiết lập mạng lưới thu mua và sơ chế lên men rộng khắp các vùng trồng cacao tại Bà Rịa – Vũng Tàu.
Vai trò của VCC trong phát triển ca cao là rất lớn, nhưng kết quả điều phối của Ban Điều phối lại chưa rõ ràng do trụ sở đặt tại Hà Nội, thiếu sự hiện diện tại các địa phương Điều này dẫn đến các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và dự án đầu tư chưa được gắn kết và phối hợp hiệu quả Việc tư vấn cho Bộ Nông nghiệp & PTNT trong việc ban hành chính sách hỗ trợ phát triển ca cao bền vững diễn ra chậm chạp Phỏng vấn 49 hộ nông dân cho thấy Ban Điều phối và Hiệp hội ca cao chưa thực sự gần gũi với nông dân, khiến họ cảm thấy tiếng nói của mình không được lắng nghe Sự thiếu liên kết giữa chính quyền địa phương, Hội Nông dân và các cơ quan khoa học đã dẫn đến tình trạng người dân không nắm bắt kịp thời thông tin về quy hoạch, giống cây và thị trường, từ đó họ xem ca cao chỉ là cây trồng phụ để tăng thêm thu nhập.
3.3.2 Các dịch vụ hỗ trợ
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã công nhận 08 dòng ca cao vô tính cho sản xuất, bao gồm TD1, TD2, TD3, TD5, TD6, TD8, TD10, TD14, cùng với 02 dòng thử nghiệm TD7 và TD9 Những dòng này nổi bật với năng suất cao, hàm lượng bơ tốt và khả năng thích nghi Tuy nhiên, một số dòng như TD1 và TD14 gặp phải vấn đề về nảy mầm và bệnh thối trái, trong khi dòng TD6 có năng suất cao nhưng trái nhỏ Kết quả khảo sát tại các vườn ca cao Bà Rịa – Vũng Tàu cho thấy dòng TD3, TD5, TD8 và TD9 đang sản xuất hiệu quả, với dòng TD11 hứa hẹn có tiềm năng phát triển vượt trội.
Theo bà Nguyễn Thị Túy Hương, Phó Trưởng phòng kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Trung tâm đang phối hợp với UBND các huyện có diện tích trồng ca cao để theo dõi và đánh giá các giống ca cao hiện có, nhằm khuyến cáo giống phù hợp cho từng vùng trồng Tuy nhiên, một hạn chế lớn là tỉnh chưa có cơ sở cung cấp cây giống đảm bảo chất lượng và nguồn gốc rõ ràng, khiến nông dân phải tự tìm kiếm giống từ các tỉnh khác hoặc qua thương lái, dẫn đến rủi ro về chất lượng giống.
Qua khảo sát, các hộ nông dân chú trọng đến kỹ thuật canh tác và đầu tư chăm sóc đúng mức, giúp cây ca cao sinh trưởng tốt, ít sâu bệnh, đạt năng suất và hiệu quả kinh tế cao Ngược lại, những hộ trồng ca cao với diện tích nhỏ và xem đây là cây trồng phụ thường không đầu tư chăm sóc, dẫn đến nhiều sâu bệnh, hiệu quả thấp và cuối cùng là quyết định đốn bỏ cây ca cao để trồng cây khác.
Công tác khuyến nông và bảo vệ thực vật cho cây ca cao hiện nay còn bị xem nhẹ, với cán bộ kỹ thuật tập trung chủ yếu vào vườn cây ăn trái có giá trị cao, trong khi hỗ trợ cho nông hộ trồng ca cao lại hạn chế Một số cán bộ kỹ thuật và nông dân vẫn xem ca cao chỉ là cây trồng phụ để tăng thu nhập, dẫn đến việc nông dân tự phát triển mà không có sự hướng dẫn đầy đủ Hơn nữa, nhiều hộ trồng ca cao gặp khó khăn về kỹ thuật, thiếu vốn và thông tin về khoa học kỹ thuật cũng như thị trường Theo đánh giá sơ bộ tại Bà Rịa – Vũng Tàu, chỉ khoảng 35% diện tích ca cao được chăm bón tương đối tốt, trong khi 35% chưa đáp ứng yêu cầu và 30% gần như không được đầu tư chăm sóc.
B ố i c ả nh chi ến lượ c và s ự c ạ nh tranh c ủ a doanh nghi ệ p ngành ca cao
Từ năm 2005, nhiều doanh nghiệp đã thiết lập các điểm thu mua trái và hạt ca cao tại các huyện Châu Đức, Tân Thành, và Xuyên Mộc Đến nay, hầu hết sản phẩm ca cao, bao gồm trái tươi và hạt, đã được thu mua và tiêu thụ Hiện tại, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu có bốn doanh nghiệp lớn chuyên thu mua ca cao, bao gồm Công ty Cagill, Công ty thu mua cacao Thành Đạt, Công ty Armajaro, và Doanh nghiệp tư nhân Lý Hồng Hải.
Công ty Cagill là đơn vị chủ lực trong việc thu mua ca cao tại tỉnh, chiếm tới 80% thị phần Họ thường xuyên thông báo giá cả qua đài truyền hình và các phương tiện truyền thông khác, đồng thời hỗ trợ kỹ thuật lên men cho nông dân Cagill cũng đầu tư vào việc chăm sóc cây ca cao, tổ chức tiếp thị và tạo điều kiện cho nông dân tham quan, học hỏi các mô hình trồng ca cao trong và ngoài tỉnh, từ đó xây dựng niềm tin và khuyến khích nông dân tích cực đầu tư vào cây ca cao.
Hiện nay, nhiều công ty từ thành phố Hồ Chí Minh đã thiết lập các điểm thu mua và sơ chế hạt ca cao tại Bà Rịa – Vũng Tàu, tạo ra một thị trường tiêu thụ hạt ca cao nguyên liệu phong phú, giúp nông dân yên tâm sản xuất Chất lượng hạt ca cao lên men tại đây được đánh giá cao, với kích thước lớn, trung bình chỉ 80-100 hạt/100 gram, và phần lớn được xuất khẩu Một số công ty chế biến thành phẩm như bột nhão, bột, bơ ca cao (công ty Thành Đạt) và sản phẩm tiêu dùng nội địa như rượu, bột ca cao, bánh kẹo (công ty Trọng Đức, Vina ca cao) Công ty Grand Place cũng đã xây dựng nhà máy chế biến sô cô-la tại Việt Nam và điểm thu mua tại huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Giá thu mua hạt ca cao đã tăng đều và ổn định qua các năm, từ 15.000 đồng/kg vào năm 2005 lên 60.000 đồng/kg hiện nay, với một số thời điểm giá dao động từ 65.000 đến 70.000 đồng/kg.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm ca cao tại tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu tương tự như nhiều địa phương khác, bắt đầu từ việc nông hộ thu hoạch và bán quả ca cao tươi cho các điểm thu gom và sơ chế (75%) cùng với một số thương lái (25%) Sau đó, các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu mua hạt ca cao đã được lên men và sơ chế dưới dạng hạt khô để sản xuất các sản phẩm tiêu dùng như bột sô-cô-la, rượu ca cao và thanh sô-cô-la Sản phẩm sau đó được tiêu thụ trên thị trường nội địa (18%) và xuất khẩu (82%).
Hnh 3.4 Sơ đồ phân phối sản phẩm ca cao tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
* Hoạt động sơ chế, chế biến
Theo khảo sát, tỉnh có 13 cơ sở chế biến và lên men ca cao đang hoạt động, bao gồm 1 doanh nghiệp tư nhân và 12 cơ sở chủ yếu là hộ gia đình.
Các điểm thu mua và sơ chế nông hộ hoặc công ty chế biến thực hiện quy trình để sản xuất hạt ca cao khô lên men phục vụ cho chế biến và xuất khẩu Khảo sát cho thấy, nếu được đầu tư và chăm sóc đúng quy trình kỹ thuật, cây ca cao bắt đầu cho quả sau 2 năm trồng, với tỉ lệ đậu quả cao và hầu hết giống cây cho quả to, hạt lớn, trung bình dưới 100 hạt khô/gram Hàm lượng bơ trong hạt ca cao cao, năng suất bình quân đạt trên 2 kg/cây Sau khi thu hoạch, toàn bộ hạt ca cao được ủ lên men theo quy trình chuẩn.
Công ty TNHH TM – DV ca cao Thành Đạt tại xã Xà Bang, huyện Châu Đức, đã đầu tư dây chuyền và thiết bị chế biến ca cao với công suất 100 tấn/năm, tổng vốn đầu tư 30 tỷ đồng Toàn bộ dây chuyền này được nhập khẩu từ Đức, đảm bảo chất lượng cao cho sản phẩm ca cao bán thành phẩm.
Nông hộ trồng ca cao Điểm thu gom, sơ chế, lên men
Công ty thu mua, chế biến ca cao
Công ty Thành Đạt mỗi năm thu mua khoảng 700 tấn ca cao từ nông dân trong tỉnh, trong đó huyện Châu Đức đóng góp gần 400 tấn Công ty không chỉ sản xuất hạt lên men, bột nhão, bột, bơ ca cao và bánh sô-cô-la thô để xuất khẩu cho các doanh nghiệp nước ngoài, mà còn thử nghiệm nghiền vỏ ca cao làm phân vi sinh và chế biến rượu vang ca cao từ “cơm” trái ca cao Khoảng 40% lượng hạt được sử dụng để chế biến sản phẩm xuất khẩu, trong khi hơn 60% còn lại được đóng gói để cung cấp trực tiếp cho các cơ sở chế biến sô-cô-la và bánh kẹo tại Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ.
3.4.2.1 Cạnh tranh giữa cây ca cao với cây trồng khác
Theo dự thảo Báo cáo rà soát, điều chỉnh Quy hoạch nông lâm thủy sản tỉnh
Bà Rịa – Vũng Tàu, năm 2017, ghi nhận sự phát triển mạnh mẽ về diện tích và sản lượng một số loại cây trồng chủ lực Cụ thể, cây lúa được gieo trồng trên 24.547 ha với sản lượng đạt 116 nghìn tấn; ngô chiếm 15 nghìn ha, sản lượng 72 nghìn tấn; rau thực phẩm có diện tích 9.458 ha và sản lượng 140 nghìn tấn Ngoài ra, khoai mì đạt 8.578 ha, sản lượng 218 nghìn tấn; cao su với 23.114 ha, sản lượng 14 nghìn tấn; hồ tiêu 10.525 ha, sản lượng 16 nghìn tấn (vượt quy hoạch 3.000 ha); cây điều 9.825 ha, sản lượng 12.909 tấn; cà phê 6.135 ha, sản lượng 11 nghìn tấn; cây ăn quả 7.561 ha, sản lượng 56 nghìn tấn; và cây ca cao chỉ khoảng 281 ha với sản lượng 320 tấn/năm.
Kết quả khảo sát cho thấy việc trồng xen ca cao với các loại cây khác có thể tăng lợi nhuận đáng kể Cụ thể, nếu trồng xen ca cao với cây điều trên cùng 1 ha đất canh tác, lợi nhuận trung bình tăng thêm khoảng 60-70 triệu đồng/ha, cao hơn so với lợi nhuận trung bình của 1 ha điều chỉ từ 40-50 triệu đồng/ha Trong khi đó, trồng xen ca cao với cây tiêu có thể tăng lợi nhuận trung bình thêm 55-60 triệu đồng/ha, với tổng lợi nhuận đạt từ 190-220 triệu đồng/ha Điều đáng chú ý là giá trị của cây ca cao mang lại thu nhập cao hơn cây điều khi trồng xen trong vườn điều, giúp tăng thu nhập gần gấp đôi trên cùng 1 diện tích đất canh tác.
3.4.2.2 Cạnh tranh giữa các địa phương trồng ca cao
Theo Bộ NN & PTNT, tỉnh Đắk Lắk dẫn đầu cả nước về diện tích trồng ca cao với 2.078 ha, sản lượng trung bình đạt 1.978 tấn/năm Tiếp theo là Bến Tre với 1.585 ha và sản lượng 1.000 tấn/năm, và Vĩnh Long đứng thứ ba với 1.200 ha nhưng chỉ đạt 224 tấn/năm Đồng Nai có diện tích 704 ha nhưng sản lượng cao đạt 882 tấn/năm, trong khi Sóc Trăng với 666 ha chỉ sản xuất 18 tấn/năm Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh trồng ca cao mới, với diện tích 281 ha, nhưng năng suất đứng thứ hai trong khu vực, đạt 320 tấn/năm.
Hình 3.5 Diện tích và sản lượng cacao các tỉnh năm 2016, Bộ NN &PTNT
* Sản xuất ca cao tại một sốđịa phương
- Sản xuất ca cao tại Tiền Giang:
Theo Báo cáo của Sở Nông nghiệp &PTNT tỉnh Tiền Giang, năm 2016 Tỉnh
Tiền Giang hiện có khoảng 72.538 ha cây ăn quả và 16.005 ha cây dừa, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng xen ca cao Kể từ năm 2010, tỉnh đã triển khai Dự án ca cao hữu cơ, với hơn 600 ha ca cao đạt chuẩn UTZ được chứng nhận và hiện đang được duy trì và mở rộng sản xuất Mạng lưới thu mua ca cao tại Tiền Giang rất phát triển, với huyện Chợ Gạo là điểm thu mua chính, bao gồm 41 điểm thu mua và 31 điểm ủ lên men Công ty TNHH socola Marou từ Pháp cũng đã tham gia vào thị trường ca cao tại Tiền Giang.
- Sản xuất ca cao tại Bến Tre:
Tính đến năm 2016, tỉnh Bến Tre có diện tích 1.017 ha trồng ca cao, với năng suất trung bình đạt 5,3 tạ hạt cacao khô/ha và sản lượng khoảng 1.000 tất/năm Tỉnh này sở hữu 52 cơ sở chế biến ca cao, tập trung chủ yếu ở các khu vực có diện tích trồng ca cao lớn Đặc biệt, Bến Tre còn có nhiều câu lạc bộ và nhóm chuyên đề ca cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển giao kỹ thuật và chia sẻ kinh nghiệm trong sản xuất.
- Sản xuất ca cao tỉnh Bình Phước:
Bình Phước, theo Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh, sở hữu điều kiện tự nhiên lý tưởng cho việc phát triển cây ca cao, với tổng diện tích trồng cây điều đạt 134.014 ha, cà phê 15.878 ha và cây ăn trái 17.875 ha Tính đến cuối năm 2016, diện tích ca cao tại Bình Phước khoảng 675 ha, với năng suất trung bình đạt 15 tạ hạt khô/ha, sản lượng hàng năm đạt 975 tấn Tỉnh cũng đang triển khai các dự án và chương trình đầu tư, như Dự án phát triển ca cao cho các nông hộ nhỏ ở Việt Nam do Chính phủ Hoa Kỳ tài trợ từ năm 2005, nhằm nâng cao năng lực sản xuất ca cao và tăng cường lợi thế cạnh tranh với các cây trồng khác.
Ho ạt độ ng c ủ a Chính ph ủ và chính quy ền địa phương
3.5.1 Chính sách khuyến khích đầu tư trồng và chế biến ca cao
Thông qua chương trình Kế hoạch phát triển kinh tế dịch vụ giai đoạn 2010-2015, Chi cục Phát triển nông thôn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đã hỗ trợ Công ty TNHH TM-DV-SX ca cao Thành Đạt thực hiện dự án đầu tư máy móc chế biến ca cao UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 31/2014/QĐ-UBND, trong đó ca cao được ưu tiên hưởng chính sách hỗ trợ nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm giai đoạn 2014-2020 Năm 2015, Sở Nông nghiệp & PTNT phối hợp với Sở Khoa học công nghệ hỗ trợ hơn 120 nông hộ trồng ca cao ở Châu Đức xây dựng chương trình VietGap, đồng thời hỗ trợ Công ty Ca cao Thành Đạt trong việc quảng bá sản phẩm qua website, chứng nhận ISO và cải tiến dây chuyền sản xuất.
3.5.2 Quy hoạch vùng trồng cacao tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đã quy hoạch phát triển ca cao tại các tỉnh phía Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, với hình thức trồng xen trong các vườn cây ăn quả, vườn tiêu, dừa, cà phê, điều Quy hoạch này chia thành ba vùng trồng ca cao: Vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long (gồm Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, TP Cần Thơ, Trà Vinh, Hậu Giang), Vùng Tây Nguyên (gồm Đăk Lăk, Đăk Nông, Lâm Đồng) và Vùng Đông Nam Bộ (gồm Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu và Bình Thuận) Đặc biệt, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được quy hoạch phát triển diện tích trồng ca cao lên tới 1.300 ha theo Quyết định số 2015/QĐ-BNN-TT, ngày 23/8/2015.
Dựa trên tình hình năm 2011 và quỹ đất phù hợp cho việc phát triển cây ca cao, tỉnh đã thực hiện quy hoạch tổng thể nông lâm nghiệp đến năm 2020 theo Quyết định số.
Theo Quyết định 94/QĐ-UBND ngày 16/01/2012 của UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, quy hoạch phát triển nông lâm nghiệp đến năm 2020 đặt mục tiêu mở rộng diện tích cây ca cao lên 1.300 ha Các khu vực đất đỏ Bazan tại các huyện Châu Đức, Xuyên Mộc và Tân Thành được xác định là phù hợp cho việc phát triển sản xuất ca cao, chủ yếu thông qua hình thức trồng xen trong các vườn cây ăn quả, tiêu, cà phê, điều và cao su.
Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu ban hành Đề án 04-ĐA/TU ngày 28/7/2017 về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
Năm 2025, UBND tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu sẽ thực hiện kế hoạch hành động theo Đề án 04-ĐA/TU của Tỉnh ủy, tập trung vào phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao Mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị thu nhập trên diện tích đất nông nghiệp, với mục tiêu tăng 1,3 lần đến năm 2020 và 1,5 lần đến năm 2025 Đề án cũng đặt ra lộ trình chuyển đổi 5.100 ha cây cao su sang trồng rau công nghệ cao, phát triển vùng cây ăn quả đặc sản và các loại cây trồng ưu thế, đặc biệt là cà phê, tiêu và ca cao Huyện Châu Đức được xác định có thế mạnh về cây ca cao, với chất lượng hạt ca cao được thị trường đánh giá cao và có cơ sở chế biến nguyên liệu ca cao với công suất trung bình.
Sản lượng ca cao của huyện Châu Đức hiện chỉ đạt 50% công suất chế biến, với tổng sản lượng 700 tấn/năm Để nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững ngành nông nghiệp, UBND huyện đã ban hành Quyết định số 4214/QĐ-UBND vào ngày 23/8/2017, nhằm thực hiện kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp đến năm 2020, với tầm nhìn đến năm 2030, trong đó bao gồm quy hoạch phát triển cây ca cao trên địa bàn huyện.
Năm 2020, tổng diện tích trồng ca cao tại Việt Nam đạt 650 ha Cụ thể, trong năm 2017, diện tích trồng ca cao là 260 ha, trong đó có 230 ha cho thu hoạch với năng suất bình quân 17 tạ hạt khô/ha Đến năm 2018, tổng diện tích tăng lên 430 ha, cho thấy sự phát triển đáng kể trong ngành trồng ca cao.
180 ha, diện tích cho thu hoạch 240 ha, năng suất bình quân 18 tạ hạt khô/ha; năm
2019 tổng diện tích đạt 550 ha, diện tích trồng mới 125 ha, diện tích cho thu hoạch
250 ha, năng suất bình quân 20 tạ hạt khô/ha; năm 2020 trồng mới 125 ha, diện tích cho thu hoạch 330 ha, năng suất bình quân 22 tạ hạt khô/ha)
3.5.3 Hỗ trợ hoạt động chứng nhận tiêu chuẩn UTZ (hay UTZ Certified) cho canh tác ca cao trên địa bàn tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
Chương trình UTZ Certified là một chứng nhận toàn cầu cho nông sản bền vững, nhằm thúc đẩy sản xuất các sản phẩm có trách nhiệm với môi trường, kinh tế và xã hội.
Chứng nhận UTZ mang lại nhiều lợi thế cho nông dân trồng ca cao, bao gồm việc nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng sản phẩm thông qua việc tập huấn kỹ thuật và kiểm tra quản lý hàng năm UTZ cũng giúp bảo vệ môi trường và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu, yêu cầu nông dân và doanh nghiệp tham gia bảo vệ đất, nước, không khí và tiết kiệm năng lượng Bên cạnh đó, chứng nhận này đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho sản phẩm ca cao bằng cách kiểm soát hóa chất và duy trì quy trình vệ sinh trong chế biến Cuối cùng, UTZ là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp tập hợp nông dân, tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường thông qua việc xây dựng hệ thống quản lý nội bộ, ghi chép sổ sách, phân tích rủi ro hàng năm và hỗ trợ marketing trực tuyến.
Ông Nguyễn Văn Thiết, Trưởng đại diện Chương trình UTZ tại Việt Nam, cho biết Bà Rịa – Vũng Tàu, cùng với Đắc Lắk và Tiền Giang, là ba tỉnh đầu tiên tham gia chương trình tiêu chuẩn UTZ và được cấp giấy chứng nhận sớm nhất Tại Bà Rịa – Vũng Tàu, hơn 250 ha đã được Tổ chức chứng nhận ca cao toàn cầu (Solidaridad) cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn UTZ Sản phẩm ca cao đạt chứng nhận UTZ chứng minh rằng người sản xuất đã thực hành nông nghiệp bền vững, quản lý trang trại hiệu quả và sản xuất ca cao có trách nhiệm, từ đó tạo sự tin tưởng cho các cơ sở và doanh nghiệp chế biến ca cao trong việc thu mua sản phẩm.
Theo ông Bùi Phát Minh, trưởng phòng Quản lý nông nghiệp Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, ca cao đóng vai trò quan trọng trong chuỗi liên kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm với sự hỗ trợ của doanh nghiệp Doanh nghiệp tham gia từ khâu tổ chức sản xuất đến việc chứng nhận sản phẩm đạt tiêu chuẩn UTZ và bao tiêu sản phẩm Chương trình ca cao UTZ đã được triển khai từ tháng 6/2010 và hàng năm thu hút khoảng 195 hộ nông dân tham gia.
250 hộ với diện tích 121-180ha ca cao được chứng nhận UTZ (sản lượng chứng nhận khoảng từ 240-300 tấn)
3.5.4 Xây dựng thương hiệu ca cao tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
Tổ chức Ca cao thế giới đã công nhận ca cao Việt Nam với hương vị chất lượng cao, xếp hạng trong “top” các quốc gia sở hữu sản phẩm ca cao có hương vị trái cây tự nhiên đặc trưng.
Ông Trần Duy Tâm Thanh, Chi cục trưởng Chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng, Sở Khoa học Công nghệ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, cho biết rằng Sở đang triển khai Chương trình Khoa học và Công nghệ hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm giai đoạn 2014-2020 Đặc biệt, kinh phí từ ngân sách tỉnh đã được sử dụng để xây dựng thương hiệu cho ca cao Bà Rịa – Vũng Tàu, với hồ sơ đang được hoàn tất để trình Cục Sở hữu trí tuệ công nhận Việc xây dựng chứng chỉ UTZ cho ca cao là điều kiện quan trọng để tạo dựng thương hiệu uy tín, với chất lượng sản phẩm được đánh giá cao tại các thị trường khó tính như Nhật Bản và Pháp Điều này khẳng định rằng ca cao Bà Rịa – Vũng Tàu có tiềm năng phát triển mạnh mẽ và có thể tạo dựng thương hiệu đặc trưng trên thị trường thế giới.
K ế t qu ả phân tích mô hình kim cương
(-) Môi trường kinh doanh còn nhỏ lẻ, manh mún, chưa được chuyên môn hóa cao
Chính sách khuyến khích đầu tư phát triển và quy hoạch diện tích trồng cacao đã được thực hiện, nhưng tiến độ triển khai còn chậm do tâm lý xem cacao chỉ là cây trồng phụ để tăng thu nhập.
(-) Công nghiệp chế biến cacao tại tỉnh chưa được phát triển, chỉ mới chế biến thô, bán thành phẩm
(-) Sự tham gia chế biến xuất khẩu của các doanh nghiệp chưa nhiều
(-) Tính liên kết giữa nông dân, doanh nghiệp, hợp tác xã trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ còn hạn chế
Môi trường chính sách giúp phát huy chiến lược kinh doanh và cạnh tranh
(-) Chủng loại sản phẩm đơn giản, chưa có sự đa dạng, chưa có tính cạnh tranh cao
Những điều kiện nhân tốđầu vào
Các ngành công nghiệp hỗ trợ liên quan
(+) Vịtrí địa lý: Nằm ở khu vực kinh tế năng động Phía Nam, khả năng tiếp cận dễ dàng các nguồn lực, tiếp cân thịtrường rộng lớn
(+) Địa hình, thổ nhưỡng, tài nguyên đất, khí hậu thời tiết: Thích hợp cho phát triển cây cacao
(+) Tài nguyên nước phong phú, có hệ thống hồ chứa, kênh dẫn cung cấp nước tưới quanh năm.
(-) Nguồn nhân lực: Đa phần lao động trong lĩnh vực sản xuất ca cao còn hạn chế vềtrình độ chuyên môn và thiếu kinh nghiệm
Nguồn vốn đầu tư cho phát triển cây ca cao chưa được chú trọng, thiếu chính sách hỗ trợ rõ ràng từ nhà nước Nông dân gặp khó khăn trong việc tiếp cận vốn vay để đầu tư và tái đầu tư Các hộ trồng ca cao và cơ sở thu mua, sơ chế cacao chủ yếu vay vốn từ Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp & PTNT các huyện, nhưng mức vay thấp do khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu tài sản thế chấp từ ngân hàng.
Hạ tầng giao thông, điện và nước được đầu tư mạnh mẽ nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển cây ca cao, hỗ trợ hiệu quả cho việc vận chuyển, chế biến và tiêu thụ sản phẩm ca cao, từ đó nâng cao hiệu quả đầu tư và giảm chi phí sản xuất.
UBND tỉnh và các sở, ngành đã chú trọng đến khoa học công nghệ, ban hành nhiều chủ trương và chính sách hỗ trợ nhằm phát triển cây ca cao.
(±) Vai trò của nhà nước: Chưa tập trung các nguồn lực để phát huy lợi thế cho cây trồng ca cao
Hiệp hội hiện tại vẫn chưa phát huy hết vai trò của mình, chưa xây dựng được cầu nối vững chắc giữa nông dân trồng ca cao và doanh nghiệp, dẫn đến việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm chưa hiệu quả.
(-) Dịch vụ cung cấp cây giống và chuyển giao khoa học kỹ thuật còn xem nhẹ và còn yếu
(-) Thông tin thị trường, giá cả còn hạn chế, chưa đáp ứng được tình hình hội nhập quốc tế hiện nay
3.7 Nhận dạng sơ đồ cụm ngành ca cao tỉnh Bà Rịa –Vũng Tàu
CÁC NGÀNH CÓ LIÊN QUAN (Công nghiệp- Du lịch – Dịch vụ -
Xây dựng chỉ dẫn địa lý
Hệ thống quản lý chất lượng
Quy hoạch, đất đai, điện, nước
Cây giống, vật tư nông nghiệp
Nhà xưởng, máy móc, công nghệ Đóng gói, bảo quản
Phương tiện, thiết bị, dụng cụ
CÁC THỂ CHẾ HỖ TRỢ
- Liên Minh Hợp tác xã tỉnh
- Câu lạc bộ sản xuất
- Ban điều phối cacao Việt Nam;
- Trường Đại học BR-VT;
- Trường Cao đẳng nghề BR-VT;
- Trung tâm nghiên cứu cây ăn quả Miền Nam
Chú thích: Yếu Trung bình Khá M ạnh