Tính cấp thiết của đề tài
Đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đúng đắn đã mang lại nhiều thành tựu cho Việt Nam, như được khẳng định trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, với mục tiêu đưa đất nước trở thành nước công nghiệp hiện đại Chính sách này nhấn mạnh việc thực hiện mô hình công nghiệp hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, kết hợp với phát triển kinh tế tri thức, trong đó khoa học, công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao là động lực chủ yếu Sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam đã dẫn đến sự gia tăng số lượng doanh nghiệp và tập đoàn, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động Tuy nhiên, sự phát triển này cũng tạo ra những mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các bên tham gia quan hệ lao động.
Pháp luật nhằm bảo vệ quyền lợi và nghĩa vụ của người dân, đặc biệt trong mối quan hệ lao động, nơi Bộ luật Lao động quy định Thỏa ước lao động tập thể như công cụ đảm bảo quyền lợi cho cả người lao động và người sử dụng lao động Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, Hà Nội có 5.263 doanh nghiệp có Công đoàn cơ sở, nhưng tỷ lệ thỏa ước lao động chỉ đạt hơn 50% Nhiều vấn đề quan trọng như tiền lương, thưởng, thời gian làm việc, nghỉ ngơi, chất lượng bữa ăn và an toàn vệ sinh lao động đã được thương lượng và đưa vào thỏa ước, tạo hành lang pháp lý giúp người lao động yên tâm làm việc.
Công văn số 296/LĐLĐ, ban hành ngày 20 tháng 5 năm 2020, của Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội, nhấn mạnh việc tăng cường hoạt động thương lượng và ký kết Thỏa ước lao động tập thể nhằm nâng cao quyền lợi cho người lao động.
Tỷ lệ công đoàn cơ sở có thỏa ước lao động còn thấp, nhiều doanh nghiệp chưa áp dụng thỏa ước theo Bộ Luật Lao động để giải quyết các vấn đề quan hệ lao động Một số doanh nghiệp không thực hiện đúng cam kết trong thỏa ước và thường đổ lỗi cho lý do khách quan, trong khi tổ chức Công đoàn và người lao động không có phản ứng hoặc đấu tranh quyết liệt Ví dụ điển hình là Công ty TNHH Hicel Vina, vào đầu năm 2019, đã không thực hiện các nội dung trong thỏa ước lao động tập thể, dẫn đến nhiều lần người lao động ngừng việc tập thể, ảnh hưởng đến tâm lý và sự ổn định trật tự tại doanh nghiệp, cũng như gây thiệt hại về kinh tế.
Mặc dù số lượng thỏa ước lao động tập thể đã tăng lên, nhưng nhiều bản thỏa ước vẫn mang tính hình thức và chưa thực sự đi vào chất lượng Các nội dung có lợi cho người lao động như tiền lương, thời gian làm việc và nghỉ ngơi vẫn còn hạn chế, chủ yếu chỉ tập trung vào phúc lợi Hơn nữa, một số doanh nghiệp chỉ lập thỏa ước lao động tập thể để hợp thức hóa và đối phó với yêu cầu pháp lý Nguyên nhân chính của tình trạng này là do nhận thức chưa đầy đủ về tầm quan trọng của thỏa ước lao động tập thể, dẫn đến việc các doanh nghiệp chưa khai thác hiệu quả để giải quyết các vấn đề quan hệ lao động.
Nhiều doanh nghiệp không thực hiện đầy đủ cam kết trong thỏa ước lao động, thường đổ lỗi cho các yếu tố khách quan, trong khi tổ chức Công đoàn và người lao động lại thiếu sự phản ứng mạnh mẽ Một nguyên nhân khác là cán bộ Công đoàn cơ sở, những người trực tiếp tham gia thương lượng và ký kết thỏa ước, chưa nắm vững quy định pháp luật và quy trình thực hiện Để đạt được hiệu quả trong thương lượng, họ cần có kiến thức sâu về doanh nghiệp và trình độ chuyên môn cao.
2 Trích báo cáo giải quyết vụ ngừng việc tập thể tại Công ty TNHH Hicel Vina ngày 21 tháng 1 năm 2019 của Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội
Chương trình số 06/Ctr-LĐLĐ của Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội, được ban hành ngày 13 tháng 8 năm 2019, nhằm nâng cao năng lực đối thoại và thương lượng tập thể trong giai đoạn 2019 - 2023 Mục tiêu của chương trình là cải thiện mối quan hệ lao động, thúc đẩy sự hợp tác giữa các bên liên quan, và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động Chương trình này sẽ góp phần xây dựng môi trường làm việc công bằng, ổn định và phát triển bền vững cho toàn thể cán bộ, công nhân viên chức.
Ba đề xuất nhằm yêu cầu hoặc đồng ý các thỏa thuận mang lại lợi ích cho người lao động, đồng thời phù hợp với thực tế và khả năng của doanh nghiệp.
Việc nghiên cứu nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục những hạn chế trong việc ký kết và áp dụng thỏa ước lao động tập thể là rất quan trọng Do đó, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể và thực tiễn thực hiện ở thành phố Hà Nội” cho luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
Tình hình nghiên cứu của đề tài
Tại Việt Nam, hiện có nhiều công trình nghiên cứu về thỏa ước lao động tập thể với các mức độ và phạm vi khác nhau.
* Nhóm các công trình sách chuyên khảo, giáo trình:
- Giáo trình “Luật Lao động Việt Nam” của Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
- Giáo trình “Luật Lao động” Hội Luật gia Việt Nam; Nxb Hồng Đức năm
- Sách chuyên khảo “Quan hệ lao động và môi trường kinh doanh Việt Nam” của TS Nguyễn Bá Ngọc chủ biên, Th.S Nguyễn Duy Phúc, Th.S Trần Phương, Nxb
Sách chuyên khảo "Nâng cao năng lực hoạt động của Liên đoàn lao động huyện, công đoàn khu công nghiệp đáp ứng yêu cầu mới" được biên soạn bởi TS Vũ Minh Tiến và xuất bản bởi Nxb Tư pháp vào năm 2016, cung cấp cái nhìn sâu sắc về việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức công đoàn trong bối cảnh phát triển mới.
- Sách chuyên khảo “Thương lượng thoả ước lao động tập thể: thực trạng, giải pháp và kỹ năng” do Tiến sĩ Đặng Quang Điều chủ biên, xuất bản năm 2011
Sách chuyên khảo “Hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động theo quy định của pháp luật Việt Nam” của tác giả Phan Thị cung cấp cái nhìn sâu sắc về các quy định pháp lý liên quan đến hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể Tác phẩm này không chỉ phân tích các điều khoản pháp luật mà còn hướng dẫn cách giải quyết tranh chấp lao động hiệu quả, giúp người lao động và người sử dụng lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình Đây là tài liệu hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực lao động tại Việt Nam.
Thanh Huyền chủ biên, Nxb Tư pháp năm 2014;
Các công trình đã nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến sự hình thành và phát triển của chế định hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, cũng như chế định tranh chấp lao động trong pháp luật Việt Nam Bên cạnh đó, các tác giả cũng đã trình bày và phân tích những khía cạnh quan trọng của các chế định này.
4 quy định của pháp luật hiện hành về hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể và giải quyết tranh chấp lao động
* Nhóm công trình luận án, luận văn thạc sỹ:
Luận văn thạc sĩ luật học của Phạm Chí Tâm năm 2016 nghiên cứu về "Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể ngành ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp" Tác phẩm này phân tích thực trạng pháp luật hiện hành liên quan đến thỏa ước lao động tập thể, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện và hoàn thiện hệ thống pháp lý trong lĩnh vực lao động tại Việt Nam.
Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Bích Huệ, được hoàn thành vào năm 2017, tập trung vào chủ đề "Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể và thực tiễn thực hiện tại tỉnh Phú Thọ" Nghiên cứu này phân tích các quy định pháp lý liên quan đến thỏa ước lao động tập thể và đánh giá tình hình áp dụng chúng trong thực tế tại địa phương.
- Luận văn thạc sĩ luật học “Pháp luật về thảo ước lao động tập thể từ thực tiễn tỉnh Tiền Giang” của tác giả Phạm Thị Mai Tiên năm 2017;
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Thỏa ước lao động tập thể theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay từ thục tiễn tỉnh Bắc Ninh” năm 2016;
Luận văn "Thỏa ước lao động tập thể trong nền kinh tế thị trường - Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng" của tác giả Trần Thị Thúy Lâm, xuất bản năm 2001, nghiên cứu sâu về khái niệm và vai trò của thỏa ước lao động tập thể trong bối cảnh nền kinh tế thị trường Tác phẩm không chỉ phân tích các vấn đề lý luận liên quan mà còn đề cập đến thực tiễn áp dụng, góp phần làm rõ sự cần thiết của thỏa ước lao động tập thể trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động và nâng cao hiệu quả sản xuất.
- Luận văn thạc sĩ “Pháp luật về Thương lượng tập thể trong lao động ở Việt
Nam” của tác giả Nhân Thị Lệ Quyên, năm 2009;
- Luận án “Thỏa ước lao động tập thể - Nghiên cứu so sánh giữa pháp luật lao động Việt Nam và Thụy Điển” của tác giả Hoàng Thị Minh, năm 2011;
Luận văn "Pháp luật về Thỏa ước lao động tập thể qua thực tiễn thi hành tại thành phố Hồ Chí Minh" của tác giả Phạm Chí Tâm (2016) nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan đến thỏa ước lao động tập thể, khái quát lịch sử hình thành và lập pháp về thỏa ước này Bên cạnh đó, tác giả cũng phân tích thực tiễn thi hành pháp luật về thỏa ước lao động tập thể, sử dụng minh chứng từ địa phương mà mình chọn làm cơ sở thực tiễn.
* Nhóm các công trình là các bài viết tạp chí, hội thảo:
Bài viết của Tiến sĩ Đặng Quang Điều trên trang 6 Tạp chí Lao động và Công đoàn số 411, kỳ 1 tháng 9 năm 2008, mang tiêu đề “Khắc phục bệnh hình thức trong ký kết thoả ước lao động tập thể”, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải thiện quy trình ký kết thoả ước lao động tập thể để tránh tình trạng hình thức, từ đó nâng cao hiệu quả và quyền lợi của người lao động.
Bài viết của Thạc sĩ Nguyễn Duy Phúc, đăng trên trang 36 Tạp chí Lao động và Công đoàn số 466 kỳ 2 tháng 12 năm 2010, mang tiêu đề “Phân tích khả năng áp dụng một số mô hình thương lượng lao động tập thể đa doanh nghiệp ở Việt Nam.” Tác phẩm này tập trung vào việc đánh giá và phân tích các mô hình thương lượng lao động tập thể có thể áp dụng cho nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam, nhằm nâng cao hiệu quả trong quá trình thương lượng và bảo vệ quyền lợi của người lao động.
- Tiến sĩ Hoàng Thị Minh trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 8/2011 với nhan đề “Điều kiện để phát triển thương lượng tập thể”;
- Tiến sĩ Hoàng Thị Minh, Phan Thanh Huyền, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 19/2011 với nhan đề “Sử dụng hành động công nghiệp trong thương lượng tập thể ở
Thụy Điển và việc sử dụng đình công ở Việt Nam”;
Tác giả Hoàng Thị Minh đã có những đóng góp đáng chú ý với bài viết “Hiệu lực của thỏa ước lao động tập thể - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, được đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số Bài viết này phân tích sâu sắc về các khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến thỏa ước lao động tập thể, góp phần làm rõ hiệu lực và vai trò của nó trong hệ thống pháp luật hiện hành.
Nhóm công trình trong bài viết tạp chí này tập trung phân tích sâu về các vấn đề liên quan đến thỏa ước lao động tập thể (TƯLĐTT), bao gồm hiệu lực của thỏa ước và các điều kiện cần thiết để phát triển thương lượng tập thể Bài viết chỉ ra những khó khăn khiến TƯLĐTT trở nên mang tính hình thức và đề xuất các giải pháp khắc phục Nhóm công trình này cung cấp cái nhìn cô đọng và súc tích về lý luận cũng như thực tiễn liên quan đến TƯLĐTT.
* Nhóm các công trình là kỷ yếu hội thảo, tọa đàm khoa học, các báo cáo tổng kết của các cơ quan chuyên môn:
Có thể kể tên một số hoạt động nổi bật như:
Ngày 19/11/2018, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Văn phòng ILO tổ chức hội thảo mang tên “Cam kết lao động trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới” tại Hà Nội.
Báo cáo đánh giá sự phù hợp giữa quy định của Công ước số 98 của ILO và pháp luật Việt Nam được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội thực hiện vào năm 2018 Nội dung báo cáo tập trung vào việc phân tích và so sánh các điều khoản của Công ước với các quy định hiện hành của Việt Nam, nhằm đảm bảo quyền lợi của người lao động và thúc đẩy các tiêu chuẩn lao động quốc tế Kết quả đánh giá sẽ góp phần nâng cao nhận thức và cải thiện khung pháp lý liên quan đến quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể trong môi trường làm việc tại Việt Nam.
Trong nội dung báo cáo có sự đánh giá những biện pháp thúc đẩy TLTT;
Báo cáo đánh giá tác động của việc gia nhập Công ước số 98 của ILO nhấn mạnh tầm quan trọng của việc áp dụng các nguyên tắc quyền tổ chức và thương lượng tập thể trong lĩnh vực lao động Việc thực thi công ước này sẽ góp phần nâng cao quyền lợi của người lao động, thúc đẩy môi trường làm việc công bằng và cải thiện quan hệ lao động Ngoài ra, báo cáo cũng chỉ ra những thách thức và cơ hội mà Bộ Lao động cần xem xét để đảm bảo sự tuân thủ và hiệu quả trong việc triển khai các quy định của công ước.
Thương binh và Xã Hội năm 2018 Trong nội dung Báo cáo chỉ ra là: (1) Hệ thống
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về thỏa ước lao động tập thể
Thỏa ước lao động tập thể là một lĩnh vực pháp luật phức tạp, và trong luận văn này, tác giả tập trung vào chế độ thỏa ước lao động tập thể, thanh tra xử lý vi phạm, và giải quyết tranh chấp liên quan theo Bộ luật Lao động Việt Nam năm 2012 cùng các Nghị định hướng dẫn Bài viết cũng so sánh với quy định trong Bộ luật Lao động năm 2019, đồng thời nghiên cứu việc ký kết và nội dung thỏa ước lao động tập thể tại Hà Nội từ năm 2014 đến 2019.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu dựa trên phép biện chứng duy vật của Chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về người lao động và quan hệ lao động trong cơ chế kinh tế thị trường Nghiên cứu cũng xem xét một số vấn đề kinh tế - xã hội liên quan.
Trong nghiên cứu khoa học, tác giả áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể để giải quyết các vấn đề của đề tài, bao gồm phân tích và tổng hợp quy định pháp luật về thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể Nghiên cứu dựa trên lý thuyết để phân tích việc thực hiện pháp luật này, đồng thời minh chứng nội dung thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể tại Hà Nội Thông tin và số liệu được khai thác từ các nguồn tin cậy như Văn kiện Đại hội đảng bộ thành phố, báo cáo của Ủy ban nhân dân, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, cùng với Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội.
Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đề tài này trình bày cơ sở lý luận và pháp lý về thỏa ước lao động tập thể, đồng thời nhấn mạnh vai trò của Công đoàn trong việc áp dụng các thỏa ước này tại doanh nghiệp Qua việc phân tích thực trạng ký kết thỏa ước lao động tập thể tại Hà Nội, bài viết đánh giá hiệu quả áp dụng pháp luật, chỉ ra những ưu điểm và mặt tích cực cần phát huy, cũng như những hạn chế cần khắc phục để nâng cao hiệu quả của thỏa ước lao động tập thể.
Dựa trên những hạn chế đã được nhận diện từ quá trình đánh giá việc áp dụng thỏa ước lao động tập thể, bài viết đề xuất các giải pháp khoa học và khả thi nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng thỏa ước này trong tương lai.
Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, mục lục, danh mục bảng điểm, luận văn có kết cấu 3 chương:
Chương 1 Cơ sở lý luận về thỏa ước lao động tập thể và pháp luật thỏa ước lao động tập thể
Chương 2 Thực trạng quy định pháp luật về thỏa ước lao động tập thể và thực tiễn thực hiện tại thành phố Hà Nội
Chương 3 Yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện pháp luật về thỏa ước lao động tập thể
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỎA ƯỚC LAO ĐỘNG TẬP THỂ VÀ PHÁP LUẬT VỀ THOẢ ƢỚC LAO ĐỘNG TẬP THỂ
Lý luận pháp luật về thỏa ƣớc lao động tập thể
hoặc phần bị tuyên bố vô hiệu được giải quyết theo quy định của pháp luật và các thỏa thuận hợp pháp trong hợp đồng lao động
1.2 Lý luận pháp luật về thỏa ƣớc lao động tập thể
1.2.1 Khái niệm, vai trò của pháp luật về thỏa ước lao động tập thể
Thỏa ước lao động tập thể vừa là hợp đồng vừa là văn bản pháp quy, được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên qua văn bản viết Nó không chỉ ràng buộc các thành viên ký kết mà còn áp dụng cho những người không tham gia ký kết, như công nhân không phải là đoàn viên công đoàn Để có hiệu lực, thỏa ước lao động tập thể cần được đăng ký tại cơ quan lao động có thẩm quyền, và mọi quy định trong doanh nghiệp không được trái với thỏa ước, trừ khi có thỏa thuận có lợi hơn cho người lao động Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể là tổng hợp các quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa đại diện tập thể lao động và đại diện người sử dụng lao động trong quá trình thương lượng, ký kết và thực hiện thỏa ước.
Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nền tảng pháp lý cho thỏa ước này, đảm bảo quyền tự do hiệp hội, quyền thành lập và hoạt động của các tổ chức đại diện, cũng như quyền thương lượng và ký kết thỏa ước lao động tập thể Ngoài ra, pháp luật còn thiết lập giới hạn pháp lý giúp các bên giải quyết các vấn đề liên quan đến thương lượng và thỏa ước lao động tập thể, trong đó luật lao động quốc tế có ảnh hưởng lớn đến nội dung và thực thi của thỏa ước.
Xác định các tiêu chuẩn lao động là yếu tố quan trọng để hình thành nội dung và điều kiện lao động trong quan hệ việc làm cá nhân Điều này bao gồm các quy định về thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, bình đẳng trong trả công, tuổi tối thiểu được phép làm việc, cũng như điều kiện làm việc cho các nhóm lao động đặc thù.
Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể không chỉ tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển của thỏa ước mà còn ảnh hưởng đến chất lượng nội dung của nó, tùy thuộc vào việc phê chuẩn và thực hiện các điều ước quốc tế của từng quốc gia Mặc dù pháp luật của các quốc gia thường rất khái quát, cung cấp khuôn khổ pháp lý và tiêu chuẩn lao động tối thiểu, nhưng cho phép các bên trong quan hệ lao động thỏa thuận những quy định có lợi hơn Tuy nhiên, pháp luật của Nhà nước luôn có giá trị cao hơn thỏa ước tập thể và cam kết giữa các bên, dẫn đến mục tiêu khác nhau trong việc ban hành tiêu chuẩn lao động Do đó, mặc dù nội dung pháp luật và thỏa ước lao động tập thể có thể đề cập đến cùng một vấn đề, nhưng sẽ có sự khác biệt rõ rệt Thỏa ước lao động tập thể mang tính linh hoạt và chi tiết hơn, phù hợp với yêu cầu của thị trường và điều kiện cụ thể của các bên Vì vậy, mặc dù có nguồn gốc từ pháp luật của Nhà nước, thỏa ước lao động tập thể vẫn là một công cụ pháp lý quan trọng nhờ tính cụ thể, thực tiễn và năng động của nó.
Pháp luật về thỏa ước lao động tập thể là nền tảng quan trọng cho sự hình thành và phát triển của hệ thống này Tuy nhiên, pháp luật không phải là yếu tố duy nhất cần thiết để tạo ra một môi trường thỏa ước lao động tập thể lành mạnh; cần có cơ chế hỗ trợ đi kèm Trạng thái và đặc điểm của hệ thống thỏa ước lao động tập thể phản ánh hiệu lực thực tế của các phương tiện pháp lý liên quan, đặc biệt thông qua hoạt động của công đoàn.
Thông qua sự điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước có thể công nhận và đảm bảo thực thi các quyền của công đoàn và thương lượng tập thể, từ đó duy trì và phát triển hệ thống thỏa ước lao động tập thể.
1.2.2 Nguyên tắc điều chỉnh pháp luật về thoả ước lao động tập thể
Theo tác giả, thỏa ước lao động tập thể được xem như "một dạng hợp đồng đặc biệt", mang những đặc điểm và nguyên tắc điều chỉnh pháp luật tương tự như hợp đồng dân sự, nhưng cũng có những đặc thù riêng theo nguyên tắc của ngành luật lao động.
Nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ lao động là một yếu tố quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi của người lao động Mặc dù có sự khác biệt về địa vị kinh tế - xã hội giữa người sử dụng lao động và người lao động, pháp luật quy định rằng không có sự phân biệt đối xử giữa hai bên trong quá trình thương lượng hợp đồng Nguyên tắc này khẳng định vị trí ngang hàng của người lao động và người sử dụng lao động, từ đó tạo ra một môi trường làm việc công bằng hơn Hành vi tạo ra sự bất bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ lao động sẽ bị coi là vi phạm pháp luật Điều này đặc biệt quan trọng vì người lao động thường ở thế yếu hơn do phụ thuộc vào người sử dụng lao động về tiền lương và việc làm.
Vì vậy nguyên tắc này ra đời để tạo lập sự bình đẳng giữa hai bên
Thứ hai, nguyên tắc thiện chí, hợp tác, công khai và minh bạch
Nguyên tắc này đóng vai trò quan trọng trong thương lượng tập thể, vì hiệu quả của quá trình này phụ thuộc vào sự thiện chí và hợp tác giữa tập thể lao động, người sử dụng lao động và đại diện của các bên.
Nguyên tắc bảo đảm sự tự nguyện trong giao kết hợp đồng là yếu tố quan trọng trong quan hệ pháp luật dân sự, ngăn chặn việc bị cưỡng ép hoặc cản trở ý chí của các bên Quy luật giá trị yêu cầu sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia quan hệ trao đổi, không cho phép bất kỳ sự phân biệt nào dựa trên hoàn cảnh kinh tế, xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo, đặc biệt trong thỏa ước lao động tập thể Thiện chí tự nguyện hợp tác phản ánh sự thống nhất giữa ý chí chủ quan và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài, do đó, sự thống nhất này trong nội dung thỏa ước lao động là cơ sở xác định tính tự nguyện của hợp đồng.
Khi ký kết thỏa ước lao động tập thể, công đoàn cơ sở đại diện cho tiếng nói của người lao động Ý chí của công đoàn cần phải phản ánh đầy đủ và minh bạch nguyện vọng của tất cả người lao động Việc giao kết thỏa ước lao động tập thể phải được thực hiện một cách khách quan và công khai, đảm bảo mọi người lao động đều được thông tin rõ ràng.
1.2.3 Nội dung pháp luật về thỏa ước lao động tập thể
1.2.3.1 Thương lượng, giao kết thỏa ước lao động tập thể
Trong quan hệ lao động, thương lượng là quá trình thỏa thuận nhằm đạt được sự thống nhất giữa người sử dụng lao động và người lao động về việc sử dụng sức lao động và giải quyết các vấn đề phát sinh Thương lượng tập thể, được Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) khuyến khích, có vai trò quan trọng trong việc ổn định quan hệ lao động Mặc dù là khái niệm quen thuộc ở nhiều quốc gia phát triển, thương lượng tập thể vẫn còn mới mẻ tại Việt Nam, đặc biệt về mặt pháp lý.
7 PGS.TS Lê Thị Hoài Thu, “Hoàn thiện pháp luật về thương lượng tập thể”, tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 21 tháng 11/2018, tr21
Thương lượng tập thể bao gồm đại diện của các bên trong quan hệ lao động, với mục đích giải quyết các vấn đề liên quan đến lợi ích chung của người lao động và người sử dụng lao động Hình thức này được coi là đối thoại xã hội cao nhất, mang lại kết quả tích cực nếu được thực hiện hiệu quả Khi thương lượng tập thể nhằm xác lập thỏa thuận về điều kiện lao động, việc làm, và tiền lương, kết quả tối ưu là sự ra đời của thỏa ước tập thể Ngoài ra, nếu được sử dụng để giải quyết tranh chấp lao động, thương lượng thành công sẽ dẫn đến thỏa thuận chung giữa các bên ILO khuyến cáo các nước thành viên nhìn nhận thương lượng tập thể như một quá trình trao đổi và thống nhất ý chí về các vấn đề chung liên quan đến lợi ích của tập thể người lao động và người sử dụng lao động trong quan hệ lao động.
Thương lượng tập thể là công cụ quan trọng giúp cân bằng quyền lợi giữa người lao động (NLĐ) và nhà sử dụng lao động (NSDLĐ) trong quan hệ lao động (QHLĐ) Trong bối cảnh NLĐ thường ở vị thế yếu hơn so với NSDLĐ, việc thực hiện thương lượng tập thể không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của NLĐ mà còn góp phần phòng ngừa và giảm thiểu mâu thuẫn, tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các bên trong QHLĐ.
Theo tổ chức ILO, thương lượng tập thể (TLTT) là một quá trình hợp tác giữa các bên có lợi ích chung và lợi ích xung đột, nhằm tìm kiếm thỏa thuận chung TLTT được coi là một hình thức đặc biệt, trong đó tập thể người lao động (NLĐ) và cá nhân hoặc tập thể người sử dụng lao động (NSDLĐ) ngồi lại để đạt được những thoả thuận về các vấn đề cùng quan tâm.
Nội dung pháp luật Việt Nam về thương lượng tập thể bao gồm các vấn đề:
* Nguyên tắc thương lượng tập thể
THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ THỎA ƯỚC LAO ĐỘNG TẬP THỂ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Thực tiễn thực hiện pháp luật về thỏa ƣớc lao động tập thể trên địa bàn thành phố Hà Nội
Hà Nội sở hữu nhiều lợi thế tự nhiên và tài nguyên cho phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, với vị trí địa lý - chính trị quan trọng, là trung tâm chính trị, văn hóa, khoa học, giáo dục và kinh tế quốc gia Thủ đô này là đầu mối giao thương lớn, kết nối các vùng trong nước và quốc tế qua nhiều phương tiện vận tải Môi trường đầu tư tại Hà Nội ngày càng được cải thiện, thu hút đa dạng thành phần kinh tế, với tổng số doanh nghiệp đăng ký đạt 208.304 vào cuối năm 2019 Tuy nhiên, chỉ có 5.263 doanh nghiệp có tổ chức Công đoàn, cho thấy sự khó khăn trong việc thành lập tổ chức này tại các doanh nghiệp Sự phát triển nhanh chóng của doanh nghiệp đi kèm với quan hệ lao động phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ tranh chấp lao động tập thể, ảnh hưởng đến an ninh trật tự và môi trường đầu tư, từ đó tác động lớn đến việc thành lập tổ chức công đoàn và ký kết thỏa ước lao động tập thể tại Hà Nội.
2.2.2 Những kết quả đạt được
- Về số lượng và nội dung bản thỏa ước lao động tập thể
Theo thống kê của Liên đoàn Lao động thành phố Hà Nội, tính đến thời điểm
Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2019, thành phố đã có 5,263 doanh nghiệp có tổ chức Công đoàn, trong đó 13 doanh nghiệp đã thương lượng và ký kết thoả ước lao động tập thể Các nội dung quan trọng trong thoả ước bao gồm tiền lương, tiền thưởng, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi và chất lượng bữa ăn.
12 Cổng thông tin điện tử Chính Phủ Thủ Đô Hà Nội: http://thanglong.chinhphu.vn/so-doanh-nghiep-tai-ha-noi- tang-43-so-voi-nam-
2016#:~:text=Theo%20th%E1%BB%91ng%20k%C3%AA%2C%20t%E1%BA%A1i%20th%E1%BB%9Di,N% E1%BB%99i%20l%C3%A0%20192.166%20doanh%20nghi%E1%BB%87p
Liên đoàn lao động thành phố Hà Nội đã ban hành CV số 296/LĐLĐ ngày 20 tháng 5 năm 2020, nhằm tăng cường hoạt động thương lượng và ký kết Thỏa ước lao động tập thể Văn bản này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng mối quan hệ lao động hài hòa, tiến bộ giữa người sử dụng lao động và người lao động, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên.
57 điều khoản về an toàn vệ sinh lao động đã được các Công đoàn cơ sở thương lượng và đưa vào Thỏa ước lao động tập thể của doanh nghiệp Điều này tạo ra một hành lang pháp lý quan trọng, giúp người lao động yên tâm gắn bó với doanh nghiệp.
Biểu đồ 1: Số lƣợng thỏa ƣớc lao động tập thể đƣợc ký trong các doanh nghiệp giai đoạn 2005 -2017 14
Về chất lƣợng các bản thảo ước lao động tập thể, theo báo cáo của Liên đoàn
Tình hình xếp loại chất lượng các bản thỏa ước lao động tập thể tại thành phố Hà Nội, theo hướng dẫn của Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, cho thấy sự nỗ lực của các công đoàn cơ sở trong việc cải thiện quyền lợi cho người lao động Các bản thỏa ước này không chỉ đảm bảo quyền lợi hợp pháp mà còn góp phần nâng cao đời sống và điều kiện làm việc cho người lao động tại địa phương.
Bảng 1: Phân loại chất lƣợng thảo ƣớc lao động tập thể trong các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội, giai đoan 2009 - 2018 Đơn vị: %
Năm Phân loại chất lƣợng
Nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Tuyến, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội, năm 2019, tập trung vào việc đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn Thủ đô trong việc đại diện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người lao động.
Trong vòng 10 năm qua, số lượng bản thỏa ước lao động tập thể loại A tại các doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội đã có sự gia tăng đáng kể.
10 lần; số bản thảo ước được xếp loại D giảm trên 5 lần
Kết quả khảo sát cho thấy 100% doanh nghiệp tham gia đã ký thỏa ước lao động tập thể, với 7,7% người trả lời cho biết thỏa ước của họ có nhiều điều khoản có lợi hơn cho người lao động so với quy định của pháp luật Cụ thể, tỷ lệ này ở doanh nghiệp nhà nước đạt 42,9%, doanh nghiệp cổ phần hóa 8,7%, doanh nghiệp tư nhân 5,4%, và doanh nghiệp FDI chỉ đạt 5%.
Biểu đồ 2: So sánh chất lƣợng các bản thỏa ƣớc lao động tập thể theo ý kiến của người lao động 15
Nghiên cứu của TS Nguyễn Thị Tuyến, thuộc Sở Khoa học và Công nghệ Hà Nội năm 2019, tập trung vào việc đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của công đoàn Thủ đô Mục tiêu chính là bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính đáng của người lao động, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức công đoàn trong bối cảnh hiện nay.
Gần 40,4% người lao động cho biết thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp của họ không có điều khoản nào có lợi hơn so với quy định của pháp luật, chủ yếu chỉ sao chép các quy định hiện hành Cụ thể, tỷ lệ này ở doanh nghiệp tư nhân là 45,4%, doanh nghiệp FDI là 40,2%, doanh nghiệp cổ phần hóa là 39,4%, trong khi tỷ lệ ở doanh nghiệp nhà nước chỉ là 1,4%.
Theo khảo sát, có 26,4% người lao động cho biết thỏa ước lao động tập thể tại doanh nghiệp của họ không có điều khoản nào có lợi hơn so với quy định của pháp luật, mà chủ yếu chỉ sao chép các quy định hiện hành Cụ thể, tỷ lệ này trong doanh nghiệp tư nhân là 33,9%, doanh nghiệp FDI là 24,5%, doanh nghiệp cổ phần hóa là 22,0%, và doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm 1,4%.
Theo phân tích phiếu hỏi theo ngành nghề sản xuất, có 14,2% người lao động trong lĩnh vực dịch vụ - thương mại cho rằng thỏa ước lao động tập thể của doanh nghiệp mang lại nhiều điều khoản có lợi hơn so với quy định của pháp luật Tiếp theo, tỷ lệ này ở ngành cơ khí chế tạo là 9,1%, ngành điện - điện tử là 4,5%, ngành giao thông - xây dựng là 4,2%, ngành chế biến nông lâm thủy hải sản là 1,7%, và ngành dệt may - giày da không có tỷ lệ nào.
Theo khảo sát, 16,2% người lao động cho rằng chất lượng bản thỏa ước lao động của doanh nghiệp rất cao, dựa trên các quy định của thỏa ước này.
Theo khảo sát, 60% người tham gia đánh giá chất lượng bản thỏa ước lao động của doanh nghiệp ở mức tốt, trong khi 23,1% cho rằng chất lượng ở mức kém Đáng chú ý, có 0,6% người được hỏi đánh giá thỏa ước này là kém hoặc rất kém.
Theo phân loại doanh nghiệp, 40% người lao động tại các doanh nghiệp nhà nước đánh giá bản thỏa ước lao động tập thể rất tốt, trong khi tỷ lệ này ở doanh nghiệp cổ phần hóa là 19,5%, doanh nghiệp FDI là 17,2% và doanh nghiệp tư nhân chỉ đạt 10,3%.
- Về quá trình xây dựng thỏa ước lao động tập thể