1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tiểu luận Khoa Học Trái Đất Đại Học Bách Khoa TPHCM Đề Tài: Biến đổi khí hậu

36 67 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Biến Đổi Khí Hậu
Tác giả Trần Tam Nông, Diệp Tấn Khanh, Huỳnh Nhật Linh, Lê Bảo Lộc, Đinh Trường Phát, Lê Minh Thành
Người hướng dẫn Th.S Nguyễn Tấn Lực
Trường học Đại học Bách Khoa TPHCM
Chuyên ngành Khoa Học Trái Đất
Thể loại báo cáo bài tập lớn
Năm xuất bản 2021
Thành phố TPHCM
Định dạng
Số trang 36
Dung lượng 315,96 KB

Cấu trúc

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • PHẦN NỘI DUNG

  • 1. Biến đổi khí hậu

  • 2. Các hiện tượng thời tiết cực đoan

    • 2.1. Một số hiện tượng thời tiết cực đoan gây tác động lớn trên thế giới

      • 2.1.1. Lũ lụt, sạt lỡ

      • 2.1.2. Nắng nóng, hạn hán và cháy

      • 2.1.3. Lốc xoáy và bão

      • 2.1.4. Bão tuyết

  • 3. Biến đổi khí hậu trái đất:

    • 3.1. Biến đổi khí hậu trong các thời kì lịch sử

    • 3.2. Thực trạng biến đổi khí hậu trái đất hiện nay

      • 3.2.1. Nhiệt độ và nắng nóng:

      • 3.2.2. Băng biển

      • 3.2.3. Nước biển dân và đại dương nóng lên

  • 4. Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu :

    • 4.1. Tác động của tự nhiên đến biến đổi khí hậu

      • 4.1.1. Quỹ đạo quay của trái đất bị biến đổi

      • 4.1.2. Địa chất núi lửa hoạt động

      • 4.1.3. Các kiến tạo mảng và dòng hải lưu

      • 4.1.4. Cường độ chiếu sáng mặt trời

    • 4.2. Biến đổi khí hậu do hoạt động của con người

      • 4.2.1. Do khí thải công nghiệp

      • 4.2.2. Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính

      • 4.2.3. Phá rừng và biến đổi khí hậu

      • 4.2.4. Hoạt động giao thông vận tải

  • 5. Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan ở Việt Nam

    • 5.1. Biến đổi khí hậu ở Việt Nam

    • 5.2. Các hiện tượng thời tiết cực đoan ở Việt Nam

      • 5.2.1. Lũ lụt

      • 5.2.2. Hạn hán

      • 5.2.3. Một số hiện tượng thời tiết cực đoan khác:

  • 6. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các hiện tượng cực đoan

    • 6.1. Bức tranh chung toàn cầu

    • 6.2. Tác động của BĐKH ở Việt Nam

      • 6.2.1. Tác động của BĐKH tới tài nguyên nước

      • 6.2.2. Tác động của BĐKH tới lĩnh vực nông nghiệp

      • 6.2.3. Tác động của BĐKH tới tài nguyên đa dạng sinh học rừng

      • 6.2.4. Tác động của BĐKH tới tài nguyên đất

      • 6.2.5. Tác động của BĐKH tới sức khỏe

      • 6.2.6. Tác động của BĐKH tới vùng ven biển (VVB)

      • 6.2.7. Tác động của BĐKH tới an ninh môi trường/an ninh quốc gia

  • 7. Biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan

    • 7.1. Trong công nghiệp năng lượng

    • 7.2. Trong lâm nghiệp

    • 7.3. Trong nông nghiệp

    • 7.4. Trong sử dụng tài nguyên nước

    • 7.5. Trong ngành thủy sản

    • 7.6. Trong công nghiệp và giao thông vận tải

    • 7.7. Trong y tế và sức khỏe cộng đồng

  • 8. Tác động của biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan đến ngành Xây Dựng:

    • 8.1. Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến phát triển các công trình xây dựng

      • 8.1.1. Ảnh hưởng của sự gia tăng nhiệt độ đối với các công trình xây dựng

      • 8.1.2. Ảnh hưởng của lượng mưa gia tăng đến các công trình xây dựng

      • 8.1.3. Ảnh hưởng của các hiện tượng thời tiết cực đoan đến các công trình xây dựng

      • 8.1.4. Ảnh hưởng của nước biển dâng đến các công trình xây dựng

    • 8.2. Một số giải pháp phát triển công trình xây dựng thích ứng với biến đổi khí hậu

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là một trong những thách thức lớn nhất đối với nhân loại, có tác động bất lợi trên nhiều lĩnh vực của đời sống trên cả quy mô toàn cầu, khu vực và quốc gia. Biến đổi khí hậu không những khiến nhiệt độ tăng và nước biển dâng, mà còn khiến cho các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan biến động mạnh hơn cả về không gian và thời gian, xảy ra với tần suất nhiều hơn và diễn biến bất thường hơn. Theo báo cáo của Tổ chức Khí tượng thế giới (WMO), nhiệt độ trung bình toàn cầu đạt mức cao kỷ lục trong giai đoạn 2010 2019 và là 5 năm liên tiếp có nhiệt độ cao nhất trong 140 năm qua. Tổn thất do thiên tai, cực đoan khí hậu gây ra tăng liên tục trong những thập kỷ vừa qua. Theo Cơ quan chiến lược về giảm nhẹ thiên tai của Liên Hợp Quốc (UNISDR), trong giai đoạn 19982017 kinh tế thế giới chịu thiệt hại 2250 tỷ đô la Mỹ, cao hơn 250% so với 20 năm trước đó. Với xu thế biến đổi khí hậu như hiện tại nếu không quyết liệt thực hiện các giải pháp ứng phó biến đổi khí hậu, thiệt hại cho nền kinh tế đến năm 2050 trên toàn thế giới do biến đổi khí hậu sẽ là 7900 triệu đô la Mỹ và 3% GDP trên toàn cầu (Economist Intelligent Unit, 2019), trong đó mức giảm GDP của Châu Á ước tính là 2,6%. Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề của các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan, trong đó bão, lũ lụt và hạn hán là thường xuyên và nguy hiểm nhất. Các hiện tượng thời tiết, khí hậu cực đoan gia tăng, không những gây ảnh hưởng và thiệt hại nhiều tới tài nguyên, kinh tế, phát triển xã hội, mà còn có thể ảnh hưởng đến các mục tiêu phát triển bền vững của đất nước. Tổng thiệt hại do thiên tai gây ra đối với nước ta trong một thập kỷ gần đây từ năm 20092019 gần 250 nghìn tỷ đồng và thiệt hại về người lên tới hơn 2500 người. Tính riêng năm 2018, với hơn 13 cơn bão và áp thấp nhiệt đới, 212 trận dông, lốc sét, 14 trận lũ quét, sạt lở đất; 9 đợt gió mạnh trên biển; 4 đợt rét đậm, rét hại; 11 đợt nắng nóng, 23 đợt không khí lạnh; 30 đợt mưa lớn trên diện rộn và lũ lớn tại thượng nguồn sông Cửu Long sau 7 năm kể từ 2011, thiệt hại cho nền kinh tế ước tính 20,000 tỷ đồng và 218 người chết và mất tích. Báo cáo tiểu luận này trình bày sự biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan toàn cầu và cụ thể ở Việt Nam. Đưa ra các ảnh hưởng, tác động của chúng, đồng thời xây dựng các biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan hiện nay.

Biến đổi khí hậu

Biến đổi khí hậu Trái Đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu, bao gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển và băng quyển, do các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một khoảng thời gian nhất định Sự biến đổi này có thể là thay đổi về thời tiết bình quân hoặc sự phân bố các điều kiện thời tiết xung quanh mức trung bình Nó có thể xảy ra trong một khu vực cụ thể hoặc trên toàn cầu Gần đây, trong bối cảnh chính sách môi trường, biến đổi khí hậu thường đề cập đến sự thay đổi khí hậu hiện tại, được gọi là hiện tượng nóng lên toàn cầu.

Các hiện tượng thời tiết cực đoan

Một số hiện tượng thời tiết cực đoan gây tác động lớn trên thế giới

Vào mùa hè năm 2002, Châu Âu đã chịu đựng lượng mưa lớn gây ra lũ lụt thảm khốc, đặc biệt ảnh hưởng nặng nề đến các quốc gia như Đức, Áo, Nga và Cộng hòa Séc.

Lũ lụt trên sông Vltava đã nhấn chìm nhiều toà nhà ở Prague, buộc ít nhất 45.000 cư dân phải di dời và cướp đi sinh mạng của 110 người Tổng thiệt hại tại các quốc gia bị ảnh hưởng ước tính lên tới khoảng 15 tỷ Euro.

- 2013: Lũ lụt ở Bắc Ấn Độ

Vào tháng 6 năm 2013, miền Bắc Ấn Độ và Nepal đã trải qua thảm họa tồi tệ nhất kể từ trận sóng thần năm 2004, khi các trận mưa lớn gây ra lũ lụt và lở đất Khoảng 5.700 người đã thiệt mạng và hơn 60.000 người bị mắc kẹt do mưa ngập, cuốn trôi xe ôtô và gây tắc nghẽn giao thông.

Cư dân Venice vào ngày 15.11.2019 đã chứng kiến thủy triều cao nhất trong hơn 50 năm, nhấn chìm thành phố du lịch nổi tiếng.

Mực nước đạt đỉnh 1,8m, cao nhất kể từ năm 1966 khi nước lên tới 1,94m Hơn 85% diện tích Venice đã bị ngập lụt.

- 2020: Lũ lụt sông Dương Tử, Trung Quốc

Miền Nam Trung Quốc đã trải qua những trận lũ lụt nghiêm trọng nhất trong nhiều thập kỷ do mưa lớn kéo dài suốt tháng 6 và tháng 7 năm 2020 Nhiều người dân sống ven sông Dương Tử, con sông dài nhất châu Á, đã phải sơ tán khi mực nước sông dâng cao kỷ lục, gây ra tình trạng vỡ đê và đe dọa đến các con đập lớn như đập Tam Hiệp.

Theo các báo cáo mới nhất, ít nhất 158 người đã chết hoặc mất tích do lũ lụt, trong khi khoảng 3,7 triệu người phải di dời và hơn 40.000 ngôi nhà bị phá hủy.

2.1.2 Nắng nóng, hạn hán và cháy Ở nội địa Nam Mỹ, hạn hán nghiêm trọng đã ảnh hưởng đến nhiều nơi vào năm

Năm 2020, miền bắc Argentina, Paraguay và các khu vực biên giới phía tây Brazil chịu ảnh hưởng nặng nề, với thiệt hại về nông nghiệp ước tính gần 3 tỷ đô la Mỹ chỉ riêng ở Brazil Khu vực này cũng ghi nhận nhiều vụ cháy rừng nghiêm trọng, đặc biệt là tại vùng đầm lầy Pantanal ở miền tây Brazil.

Tại Hoa Kỳ, những đám cháy lớn nhất thường xảy ra vào cuối mùa hè và mùa thu do hạn hán và nhiệt độ khắc nghiệt, với tháng 7 đến tháng 9 là thời điểm nóng nhất ở miền tây nam Thung lũng Chết ở California ghi nhận nhiệt độ cao kỷ lục 54,4 °C vào ngày 16 tháng 8 Ở vùng Caribe, các đợt nắng nóng lớn diễn ra vào tháng 4 và tháng 9, với kỷ lục 39,7 °C tại Veguitas vào ngày 12 tháng 4, và Havana ghi nhận nhiệt độ lên tới 38,5 °C Úc cũng đã phá nhiều kỷ lục nhiệt độ cao nhất vào đầu năm 2020, bao gồm mức nhiệt cao nhất quan sát được ở khu vực đô thị tại phía tây Sydney.

Penrith chạm ngưỡng 48,9 ° C vào ngày 4 tháng 1.

Châu Âu đã trải qua hạn hán và nắng nóng, nhưng không nghiêm trọng như năm 2019 Khu vực Đông Địa Trung Hải ghi nhận nhiệt độ kỷ lục với 42,7 °C ở Jerusalem và 48,9 °C ở Eilat vào ngày 4 tháng 9 Trước đó, vào cuối tháng 7, Trung Đông đã trải qua đợt nắng nóng với nhiệt độ lên tới 52,1 °C tại sân bay Kuwait và 51,8 °C ở Baghdad.

Năm 2020, số lượng bão xoáy nhiệt đới trên toàn cầu đã vượt mức trung bình, với tổng cộng 96 trận bão được ghi nhận tính đến ngày 17 tháng 11 trong các mùa mưa bão ở Bắc bán cầu 2020 và Nam bán cầu 2019-2020.

Khu vực Bắc Đại Tây Dương đã trải qua một mùa mưa bão bất thường với 30 trận bão xoáy nhiệt đới tính đến ngày 17 tháng 11, gấp đôi mức trung bình nhiều năm và phá kỷ lục mùa bão năm 2005 Dù mùa bão thường giảm vào cuối tháng 11, hai cơn bão cấp 4 đã đổ bộ vào Trung Mỹ trong chưa đầy hai tuần, gây ra lũ lụt nghiêm trọng và nhiều thương vong.

Bão Amphan, đổ bộ vào ngày 20 tháng 5 gần biên giới Ấn Độ-Bangladesh, đã trở thành trận bão nhiệt đới gây thiệt hại lớn nhất tại Bắc Ấn Độ Dương, với thiệt hại kinh tế ước tính khoảng 14 tỷ USD ở Ấn Độ Nhờ vào công tác sơ tán quy mô lớn tại các khu vực ven biển, thương vong đã được giảm thiểu so với các trận lốc xoáy trước đó trong khu vực.

Cơn bão mùa đông Bắc Mỹ, hay còn gọi là Bão mùa đông Uri, diễn ra từ ngày 13 đến 17 tháng 2 năm 2021, đã gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng trên diện rộng tại Hoa Kỳ, Bắc México và một phần Canada.

Vào năm 2021, cơn bão Uri đã hình thành ở khu vực Tây Bắc Thái Bình Dương và nhanh chóng đổ bộ vào miền Nam Hoa Kỳ, sau đó tiếp tục di chuyển về phía Trung Tây và Đông Bắc của đất nước này.

Cơn bão tuyết đã ảnh hưởng đến hơn 170 triệu người trên toàn nước Mỹ, gây ra thời tiết lạnh giá mùa đông Hơn 9,7 triệu người, đặc biệt ở Texas và México, đã mất điện, đánh dấu vụ mất điện lớn nhất tại Hoa Kỳ kể từ năm 2003 Bão Uri cũng mang đến thời tiết lạnh bất thường cho Đông Nam Hoa Kỳ, với một số cơn lốc xoáy được ghi nhận Tính đến ngày 19 tháng 2, ít nhất 70 người đã thiệt mạng, trong đó có 58 người ở Hoa Kỳ và 12 người ở México.

Biến đổi khí hậu trái đất

Biến đổi khí hậu trong các thời kì lịch sử

Biến đổi khí hậu là một hiện tượng tự nhiên đã diễn ra từ hàng triệu năm qua và vẫn tiếp tục ảnh hưởng đến Trái Đất cho đến ngày nay Qua các thời kỳ địa chất, sự thay đổi khí hậu có thể rất mạnh mẽ, nhưng việc phát hiện và nghiên cứu những biến đổi này gặp nhiều khó khăn.

Trong lịch sử, biến đổi khí hậu không chỉ được phản ánh qua các dấu hiệu tự nhiên như sự mở rộng và rút lui của băng hà, sự gia tăng của mỏ than bùn, biến đổi trạng thái của hồ và sông, và sự tích tụ của đất sét dạng dải, mà còn được ghi nhận qua các tài liệu kiến trúc cổ Những tài liệu này cho thấy điều kiện sống và hoạt động của con người có mối liên hệ chặt chẽ với khí hậu.

Ngoài các truyện truyền khẩu và di tích văn học, các biên niên sử cũng ghi lại những biến động của thời tiết và khí hậu, cũng như trạng thái của sông và mùa màng Việc ghi chép về thời tiết và khí hậu từ nhiều năm trước đây đã trở nên thường xuyên và mang tính khoa học, như ghi chép của Tikhơ và Bơraghe từ thế kỷ XVI.

Trong khoảng hai đến ba thế kỷ qua, chúng ta đã bước vào thời đại quan trắc khí tượng bằng dụng cụ, mặc dù vào thời điểm này, các thiết bị vẫn còn hạn chế và chưa hoàn thiện Nhiều trạm khí tượng hiện nay đã cung cấp dãy số liệu về nhiệt độ và lượng mưa kéo dài khoảng 100 năm.

200 năm và hơn nữa. Đối với Châu Âu có thể điểm qua trình tự biến đổi của khí hậu trong vài nghìn năm gần đây như sau:

Trong suốt 5000 năm trước kỷ nguyên, khí hậu đã trải qua nhiều biến đổi từ nóng và khô sang ẩm và lạnh Khoảng 500 năm trước kỷ nguyên, lượng mưa gia tăng nhanh chóng, dẫn đến sự thay đổi rõ rệt của khí hậu, khiến nó trở nên lạnh hơn so với thế kỷ trước đó.

Vào thế kỷ XI đến XIII, khí hậu Châu Âu trở nên ôn hòa và khô hơn so với thời kỳ đầu kỷ nguyên, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của chăn nuôi trên đảo Greenland do băng hà ít phát triển Tuy nhiên, từ thế kỷ XIV đến XVI, khí hậu chuyển biến lạnh hơn, với sự gia tăng băng trên biển.

Từ thế kỷ XXII đến giữa thế kỷ XIX, khí hậu lạnh và ẩm đã dẫn đến sự phát triển của băng hà Trong giai đoạn này, việc quan trắc khí tượng bắt đầu được thực hiện ở Châu Âu Bước sang nửa sau thế kỷ XIX, khí hậu chứng kiến sự chuyển biến đáng kể với sự khởi đầu của đợt nóng Tóm lại, sự biến đổi khí hậu trong thời kỳ lịch sử này có đặc điểm dao động theo chu kỳ.

Trong suốt quá trình lịch sử, khí hậu đã duy trì sự ổn định, chỉ dao động nhẹ quanh trạng thái trung bình Điều này cho thấy trong thời kỳ lịch sử, không có những biến đổi đáng kể trong phân bố của biển, lục địa, địa hình và các cực Do đó, chúng ta có thể tin tưởng vào mối quan hệ giữa những biến đổi lịch sử của khí hậu và các yếu tố bên ngoài trái đất, đặc biệt là sự biến đổi trong hoạt động của mặt trời.

Bắt đầu từ thế kỷ XVII, việc xác định hoạt động của Mặt Trời đã được thực hiện dưới dạng định lượng, thông qua việc đo lường vết đen Mặt Trời và các chỉ số liên quan Điều này cho phép chúng ta đối chiếu hoạt động của Mặt Trời với các biến đổi khí tượng đồng thời và tiếp theo, cũng như ngoại suy cho những khoảng thời gian trước đó, dựa trên những nhịp điệu đã được phát hiện trong hoạt động của Mặt Trời.

Lực triều phụ thuộc vào vị trí của Mặt Trăng và Mặt Trời so với Trái Đất, đạt cực đại trong chu kỳ khoảng 1700 năm Những dao động này có thể ảnh hưởng đến trạng thái lớp băng trên biển tại miền cực, từ đó tác động đến hoạt động của xoáy thuận Cực đại của hoạt động triều thường tương ứng với những thời kỳ ẩm nhất.

Thực trạng biến đổi khí hậu trái đất hiện nay

Năm 2020 ghi nhận biến đổi khí hậu diễn ra mạnh mẽ, trở thành một trong ba năm nóng nhất trong lịch sử Theo Tổ chức Khí tượng Thế giới, thập kỷ 2011-2020 đã trở thành thời kỳ có nhiệt độ cao nhất, với sáu năm nóng nhất đều xảy ra từ năm 2015 trở đi Báo cáo sơ bộ về Khí hậu Toàn cầu năm 2020 vừa được công bố cho thấy tình hình nghiêm trọng này.

Nhiệt độ đại dương đạt mức kỷ lục, với hơn 80% đại dương toàn cầu trải qua một đợt sóng nhiệt trong năm 2020, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho các hệ sinh thái biển Các hệ sinh thái này đã phải đối mặt với tình trạng nước bị axit hóa do hấp thụ carbon dioxide (CO2), theo báo cáo sơ bộ của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) về Tình trạng Khí hậu Toàn cầu năm 2020.

Báo cáo, dựa trên sự đóng góp của nhiều tổ chức và chuyên gia quốc tế, đã chỉ ra rằng các hiện tượng như nắng nóng khắc nghiệt, cháy rừng, lũ lụt, và mùa bão Đại Tây Dương kỷ lục đã gây ảnh hưởng nặng nề đến hàng triệu người Những yếu tố này kết hợp với các hiểm hoạ về sức khỏe, an ninh và ổn định kinh tế do đại dịch đã tạo ra những thách thức nghiêm trọng cho cộng đồng.

Theo Báo cáo sơ bộ về Khí hậu Toàn cầu năm 2020, mặc dù các biện pháp phong tỏa do COVID-19, nồng độ khí nhà kính trong khí quyển vẫn gia tăng, dẫn đến nguy cơ trái đất tiếp tục ấm lên trong nhiều thế hệ tới, do CO2 có thời gian tồn tại lâu trong khí quyển.

Theo Tổng thư ký WMO, Giáo sư Petteri Taalas, nhiệt độ trung bình toàn cầu năm 2020 dự kiến cao hơn khoảng 1,2°C so với thời kỳ tiền công nghiệp (1850-1900) Hiện tại, có khoảng 20% khả năng nhiệt độ sẽ tạm thời vượt mức 1,5°C vào năm 2024.

Năm nay đánh dấu 5 năm Thỏa thuận Paris về Biến đổi Khí hậu, và chúng tôi hoan nghênh những cam kết gần đây của các chính phủ trong việc giảm phát thải khí nhà kính Tuy nhiên, hiện tại chúng ta vẫn chưa đạt được các mục tiêu đề ra, vì vậy cần nỗ lực hơn nữa để thực hiện các hành động cần thiết.

Những năm có nhiệt độ cao kỷ lục thường liên quan đến sự kiện El Niño mạnh, như năm 2016 Hiện tại, chúng ta đang trải qua hiện tượng La Niña, có tác dụng làm giảm nhiệt độ toàn cầu, nhưng vẫn chưa đủ để làm dịu mức nhiệt của năm nay Dù đang có La Niña, nhiệt độ năm nay vẫn gần đạt mức kỷ lục của năm 2016, theo GS Taalas.

Năm 2020 đã ghi dấu ấn là một năm biến động nghiêm trọng đối với khí hậu toàn cầu, với sự xuất hiện của các mức nhiệt độ cực đoan trên đất liền và trên biển, đặc biệt là tại Bắc Cực Các trận cháy rừng đã thiêu rụi những khu vực rộng lớn ở Úc, Siberia, Bờ Tây Hoa Kỳ và Nam Mỹ, tạo ra những đám khói bao trùm toàn cầu Đồng thời, chúng ta cũng chứng kiến số lượng kỷ lục các cơn bão ở Đại Tây Dương, bao gồm nhiều cơn bão cấp mạnh.

Vào tháng 11, Trung Mỹ đã chứng kiến bốn sự kiện thiên tai liên tiếp chưa từng có Bên cạnh đó, lũ lụt tại các khu vực châu Phi và Đông Nam Á đã buộc hàng triệu người phải di dời, đồng thời làm suy giảm an ninh lương thực cho nhiều cộng đồng.

3.2.1 Nhiệt độ và nắng nóng:

Nhiệt độ trung bình toàn cầu từ tháng 1 đến tháng 10 năm 2020 cao hơn khoảng 1,2 °

Năm 2020 có khả năng là một trong ba năm ấm nhất được ghi nhận toàn cầu, với mức nhiệt so với đường nhiệt cơ sở từ năm 1850–1900, thời kỳ tiền công nghiệp Theo đánh giá của Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO), năm 2020 hiện đang xếp thứ hai trong số các năm nóng nhất, chỉ sau năm 2016 và trước năm 2019, dựa trên năm cơ sở dữ liệu nhiệt độ toàn cầu Tuy nhiên, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ba năm này rất nhỏ, và thứ hạng có thể thay đổi khi dữ liệu đầy đủ được thu thập.

Khu vực Bắc Á, đặc biệt là Cực Bắc Siberia, đang trải qua sự nóng lên rõ rệt với nhiệt độ cao hơn 5°C so với mức trung bình Vào cuối tháng 6, nhiệt độ ở Siberia đã đạt đỉnh 38,0°C tại Verkhoyansk vào ngày 20, ghi nhận là mức cao nhất trong toàn vùng phía bắc của Vòng Bắc Cực Hiện tượng này đã góp phần vào mùa cháy rừng mạnh nhất, theo dữ liệu theo dõi 18 năm qua về lượng khí CO2 thải ra từ các đám cháy.

Kể từ giữa những năm 1980, Bắc Cực đã trải qua sự nóng lên nhanh chóng, với tốc độ tăng nhiệt độ gấp hai lần so với mức trung bình toàn cầu Sự gia tăng này đã dẫn đến việc diện tích băng biển mùa hè ở Bắc Cực tiếp tục thu hẹp, ảnh hưởng đến khí hậu ở các vùng vĩ độ trung bình.

Vào tháng 9 vừa qua, băng biển ở Bắc Cực đạt mức thấp nhất hàng năm, chỉ đứng sau mức thấp kỷ lục theo ghi nhận vệ tinh trong 42 năm qua Đặc biệt, tháng 7 và tháng 10 năm 2020 cũng ghi nhận mức băng biển Bắc Cực ở mức thấp nhất.

Trong mùa xuân, mùa hè và mùa thu năm 2020, băng biển ở Biển Laptev giảm xuống mức đặc biệt thấp, dẫn đến việc Tuyến Đường Biển phía Bắc không có băng hoặc gần như không có băng từ tháng 7 đến tháng 10.

Băng ở Nam Cực năm 2020 gần bằng hoặc cao hơn một chút so với mức trung bình

Greenland tiếp tục bị tan băng, đánh mất 152 tỉ tấn băng trong năm nay, mặc dù tốc độ đã chậm hơn so với năm 2019.

3.2.3 Nước biển dân và đại dương nóng lên

Nhiệt độ đại dương năm 2019 được ghi nhận là cao nhất trong cơ sở dữ liệu từ năm

Từ năm 1960, có một tín hiệu rõ ràng cho thấy tình trạng hấp thụ nhiệt đang gia tăng nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây Hơn 90% năng lượng dư thừa tích tụ trong khí quyển do nồng độ khí nhà kính tăng cao sẽ được hấp thụ vào đại dương.

Nguyên nhân gây biến đổi khí hậu

Tác động của tự nhiên đến biến đổi khí hậu

4.1.1 Quỹ đạo quay của trái đất bị biến đổi

Biến đổi khí hậu có nguyên nhân khách quan do sự lệch nhịp của trục quay trái đất so với quỹ đạo Ngay cả một góc nghiêng nhỏ cũng có thể dẫn đến những thay đổi tiêu cực trong khí hậu Có ba kiểu thay đổi quỹ đạo chính, bao gồm thay đổi quỹ đạo lệch tâm của Trái Đất, thay đổi trục quay và tiến động của trục Trái Đất.

Các yếu tố Milankovitch kết hợp với nhau tạo ra các chu kỳ có ảnh hưởng lớn đến khí hậu, liên quan đến các chu kỳ băng hà và gian băng, cũng như sự phát triển và thoái lui của Sahara, và sự xuất hiện của chúng trong các địa tầng.

4.1.2 Địa chất núi lửa hoạt động

Các hoạt động địa chất núi lửa có thể gây ra biến đổi khí hậu một cách gián tiếp Khi núi lửa phun trào, các khí như SO2, bụi tro và hơi nước được thải vào bầu khí quyển Những khí và bụi này tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là khí SO2 phản xạ bức xạ mặt trời, dẫn đến giảm nhiệt độ trên bề mặt trái đất.

Phun trào núi lửa có thể ảnh hưởng lớn đến khí hậu, thường xảy ra trung bình vài lần mỗi thế kỷ, gây ra hiện tượng làm mát tạm thời do ngăn chặn bức xạ mặt trời Vụ phun trào núi lửa Pinatubo năm 1991 là một trong những vụ lớn nhất thế kỷ XX, làm giảm nhiệt độ toàn cầu khoảng 0,5 °C Vụ phun trào của núi Tambora năm 1815 đã dẫn đến việc không có mùa hè trong một năm Mặc dù các vụ phun trào lớn chỉ xảy ra vài lần mỗi trăm triệu năm, chúng có thể gây ra sự ấm lên toàn cầu và tuyệt chủng hàng loạt Núi lửa cũng đóng vai trò trong chu kỳ carbon, giải phóng khí cacbonic từ lớp vỏ Trái Đất, nhưng hoạt động của con người hiện nay thải ra lượng khí này nhiều gấp 100-300 lần so với núi lửa.

4.1.3 Các kiến tạo mảng và dòng hải lưu

Dòng hải lưu, thường xuất hiện ở đại dương, di chuyển liên tục và mang theo lượng nhiệt lớn đến nhiều lục địa trên toàn thế giới Qua hàng triệu năm, sự chuyển động của các mảng kiến tạo đã tái sắp xếp các lục địa và đại dương, hình thành địa hình bề mặt Điều này ảnh hưởng đến các kiểu khí hậu khu vực và toàn cầu, cũng như các dòng tuần hoàn khí quyển đại dương.

Vị trí của các lục địa ảnh hưởng đến hình dạng và dòng chảy của các đại dương, đồng thời kiểm soát sự truyền nhiệt và độ ẩm toàn cầu, từ đó hình thành khí hậu Sự hình thành eo đất Panama khoảng 5 triệu năm trước đã ngăn cản sự trộn lẫn giữa Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, ảnh hưởng mạnh mẽ đến động lực học của hải lưu Gulf Stream và làm băng giá bắc bán cầu Trong kỷ Cacbon, khoảng 300 đến 365 triệu năm trước, hoạt động kiến tạo mảng có thể đã tích trữ lượng lớn cacbon, dẫn đến sự gia tăng băng hà Các dấu hiệu địa chất cho thấy sự tồn tại của các kiểu tuần hoàn "gió mùa lớn" trong thời kỳ siêu lục địa Pangaea, cho thấy rằng sự hiện diện của siêu lục địa đã góp phần hình thành gió mùa.

4.1.4 Cường độ chiếu sáng mặt trời

Từ năm 1610 đến 2000, số lượng Sunspots xuất hiện trung bình mỗi năm đã ảnh hưởng đến cường độ tia bức xạ mặt trời chiếu xuống Trái Đất Sự biến động của các Sunspots dẫn đến sự thay đổi trong năng lượng mà Trái Đất nhận được, từ đó làm thay đổi nhiệt độ bề mặt của hành tinh.

Sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời ảnh hưởng đến năng lượng chiếu xuống Trái đất, dẫn đến sự biến động nhiệt độ bề mặt của hành tinh.

Từ khi hình thành cách đây gần 4,5 tỷ năm, cường độ sáng của Mặt trời đã tăng hơn 30% Điều này cho thấy, trong khoảng thời gian dài như vậy, sự thay đổi cường độ sáng của Mặt trời không có ảnh hưởng đáng kể đến biến đổi khí hậu.

Biến đổi khí hậu do hoạt động của con người

4.2.1 Do khí thải công nghiệp

Kể từ thời kỳ tiền công nghiệp vào khoảng năm 1750, nhu cầu sử dụng năng lượng của con người đã gia tăng đáng kể, chủ yếu từ các nguồn nguyên liệu hóa thạch như than, dầu và khí đốt Sự gia tăng này đã dẫn đến việc thải ra ngày càng nhiều khí gây hiệu ứng nhà kính vào khí quyển, góp phần làm tăng nhiệt độ của Trái Đất.

Các nghiên cứu từ lõi băng ở Greenland và Nam Cực cho thấy hàm lượng khí CO2 trong khí quyển trong suốt chu kỳ băng hà và tan băng cách đây khoảng 18.000 năm chỉ đạt khoảng 180 ppm.

Nồng độ khí CO2 hiện tại đạt 200ppm, tương đương khoảng 70% so với mức trước công nghiệp là 280ppm Kể từ năm 1800, hàm lượng CO2 trong khí quyển đã bắt đầu gia tăng vượt mức này.

300ppm và đạt 379ppm vào năm 2005, nghĩa là tăng khoảng 31% so với thời kỳ tiền công nghiệp, vượt xa mức khí CO2 tự nhiên trong khoảng 650 nghìn năm qua.

Hàm lượng khí nhà kính như mêtan (CH4) và ôxit nitơ (N2O) đã tăng đáng kể từ thời kỳ tiền công nghiệp đến năm 2005, với mêtan tăng từ 715ppb lên 1774ppb (151%) và ôxit nitơ từ 270ppb lên 319ppb (17%) Các khí chlorofluoro carbon (CFCs) không chỉ có tiềm năng làm nóng lên toàn cầu lớn hơn nhiều lần so với CO2 mà còn là chất phá hủy tầng ôzôn, xuất hiện trong khí quyển do hoạt động của con người từ khi công nghiệp hóa chất phát triển Theo đánh giá của IPCC, tiêu thụ năng lượng từ đốt nhiên liệu hóa thạch trong các ngành công nghiệp, giao thông vận tải và xây dựng chiếm khoảng 46% nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu, trong khi phá rừng nhiệt đới đóng góp 18%, sản xuất nông nghiệp 9%, và sản xuất hóa chất (CFC, HCFC) khoảng 24%, còn lại 3% đến từ các hoạt động khác.

Từ năm 1840 đến 2004, các nước giàu đã phát thải 70% tổng lượng CO2 toàn cầu, với Hoa Kỳ và Anh mỗi người trung bình phát thải 1.100 tấn, gấp 17 lần Trung Quốc và 48 lần Ấn Độ Năm 2004, Hoa Kỳ phát thải 6 tỷ tấn CO2, chiếm 20% tổng lượng phát thải toàn cầu, trong khi Trung Quốc đứng thứ hai với 5 tỷ tấn Các quốc gia khác như Liên bang Nga, Ấn Độ, Nhật Bản, Đức, Canada và Vương quốc Anh cũng có lượng phát thải đáng kể Tổng lượng phát thải CO2 của các nước đang phát triển đạt 12 tỷ tấn, chiếm 42% tổng lượng phát thải toàn cầu, tăng nhanh so với 7 tỷ tấn (29%) vào năm 1990, điều này dẫn đến yêu cầu từ các nước phát triển rằng các nước đang phát triển cần cam kết theo Công ước Biến đổi khí hậu.

Năm 1990, Việt Nam phát thải 21,4 triệu tấn CO2, nhưng đến năm 2004, con số này đã tăng lên 98,6 triệu tấn, tương đương với mức tăng gần 5 lần Bình quân đầu người Việt Nam đạt 1,2 tấn/năm, thấp hơn nhiều so với mức trung bình toàn cầu là 4,5 tấn/năm So với các quốc gia trong khu vực, Singapore có mức phát thải cao nhất với 12,4 tấn, tiếp theo là Malaysia 7,5 tấn, Thái Lan 4,2 tấn, trong khi Trung Quốc là 3,8 tấn, Indonesia 1,7 tấn, Philippines 1,0 tấn, Myanmar 0,2 tấn và Lào 0,2 tấn.

Trong 15 năm qua, Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng nhanh chóng về phát thải khí CO2, tuy nhiên mức độ này vẫn thấp hơn so với trung bình toàn cầu và nhiều quốc gia trong khu vực Dự báo tổng lượng phát thải khí nhà kính của Việt Nam sẽ đạt 233,3 triệu tấn CO2 vào năm 2020, tương ứng với mức tăng 93% so với năm 1998.

Các nước giàu, mặc dù chỉ chiếm 15% dân số thế giới, nhưng lại đóng góp tới 45% tổng lượng phát thải toàn cầu Trong khi đó, các quốc gia châu Phi và cận Sahara, với 11% dân số, chỉ phát thải 2% Các nước kém phát triển, chiếm 1/3 dân số thế giới, chỉ phát thải 7% tổng lượng phát thải toàn cầu Điều này đã được các nước đang phát triển nhấn mạnh trong các cuộc thương lượng về bình đẳng và nhân quyền liên quan đến Công ước khí hậu và Nghị định thư Kyoto.

4.2.2 Khí nhà kính và hiệu ứng nhà kính

Khí nitơ chiếm 78% và khí oxy 21% trong khí quyển trái đất, trong khi khoảng 1% còn lại là các khí khác như argon, đioxit cacbon, mêtan, ôxit nitơ, nêon, hêli, hyđrô, ôzôn và hơi nước Mặc dù chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ, các khí vết như CO2, CH4, NOx và CFCs đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự sống trên trái đất Những khí này hấp thụ bức xạ hồng ngoại từ mặt đất và phát xạ lại một phần bức xạ đó, giúp hạn chế sự thoát nhiệt của trái đất, đặc biệt vào ban đêm khi không có ánh sáng mặt trời.

Các khí nhà kính tự nhiên, ngoại trừ CFCs, đã tồn tại lâu trong khí quyển và giữ vai trò quan trọng trong việc duy trì nhiệt độ trái đất Nếu không có chúng, nhiệt độ trung bình của trái đất sẽ giảm khoảng 33 o C, chỉ còn khoảng 18 o C Hiệu ứng này, được gọi là “Hiệu ứng nhà kính”, giúp bề mặt trái đất ấm hơn Bên cạnh đó, lớp ôzôn trong tầng bình lưu hấp thụ bức xạ tử ngoại từ mặt trời, góp phần bảo vệ sự sống trên hành tinh của chúng ta.

Trong suốt khoảng 10.000 năm trước thời kỳ công nghiệp, nồng độ khí nhà kính, đặc biệt là CO2, duy trì ổn định và chưa bao giờ vượt quá 300ppm Tuy nhiên, lượng phát thải CO2 từ việc sử dụng nhiên liệu hóa thạch đã gia tăng đáng kể, từ 6,4 tỷ tấn carbon (tương đương khoảng 23,5 tỷ tấn CO2) trong những năm 1990 lên 7,2 tỷ tấn carbon (khoảng 45,9 tỷ tấn CO2) mỗi năm trong giai đoạn 2000 – 2005.

Các sol khí như bụi, cacbon hữu cơ, sulphat và nitrat tạo ra hiệu ứng âm với tổng lượng bức xạ cưỡng bức trực tiếp là 0,5W/m² và gián tiếp từ mây là 0,7W/m² Thay đổi sử dụng đất làm thay đổi suất phản xạ bề mặt, dẫn đến bức xạ cưỡng bức tổng cộng là 0,02W/m² Ngược lại, sự gia tăng khí ôzôn trong tầng đối lưu và hoạt động của mặt trời từ năm 1750 đến nay tạo ra hiệu ứng dương với tổng lượng bức xạ cưỡng bức lần lượt là 0,35 và 0,12W/m² Tác động tổng cộng của các nhân tố khác ngoài khí nhà kính đã tạo ra bức xạ cưỡng bức âm, làm giảm mức tăng nhiệt độ trung bình toàn cầu quan trắc được Điều này cho thấy sự tăng lên của hàm lượng khí nhà kính nhân tạo trong khí quyển đã làm Trái Đất nóng lên nhiều hơn so với quan sát, khẳng định rằng biến đổi khí hậu hiện nay là do hoạt động của con người, không phải do quá trình tự nhiên.

4.2.3 Phá rừng và biến đổi khí hậu

Phá rừng là một trong những nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu, đứng thứ hai sau việc đốt nhiên liệu hóa thạch về nguồn phát thải carbon dioxide từ con người Quá trình này không chỉ phát thải khí nhà kính thông qua đốt cháy nhiên liệu sinh học mà còn do sự phân hủy của vật chất thực vật và đất carbon Trước đây, phá rừng đã chiếm hơn 20% lượng khí thải CO2 toàn cầu, nhưng hiện tại con số này đã giảm xuống khoảng 10% Vào năm 2008, phá rừng đóng góp 12% tổng lượng CO2, hoặc 15% nếu tính cả than bùn, và xu hướng này có khả năng tiếp tục giảm do sự gia tăng sử dụng nhiên liệu hóa thạch.

4.2.4 Hoạt động giao thông vận tải

Sự phát triển kinh tế dẫn đến sự gia tăng hoạt động giao thông vận tải và số lượng phương tiện, từ đó làm tăng lượng khí thải giao thông và góp phần vào hiệu ứng nhà kính.

Theo Bộ Giao thông vận tải, hoạt động giao thông vận tải hàng năm thải ra hàng chục nghìn tấn khí CO2, trong đó lĩnh vực vận tải đường bộ đóng góp hơn 80% tổng lượng khí phát thải nhà kính.

Biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan ở Việt Nam

Biến đổi khí hậu ở Việt Nam

Việt Nam là một trong những quốc gia dễ bị tổn thương nhất trước tác động của biến đổi khí hậu (BĐKH) Theo đánh giá hàng năm về các quốc gia chịu ảnh hưởng nặng nề từ hiện tượng thời tiết cực đoan trong giai đoạn 1997-2016, Việt Nam xếp thứ 5 về Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018 và đứng thứ 8 về Chỉ số rủi ro khí hậu dài hạn (CRI).

Biến đổi khí hậu tại Việt Nam đang diễn ra với các hiện tượng thời tiết cực đoan ngày càng gia tăng và khó dự đoán Lượng mưa tháng cao nhất đã tăng từ 270 mm (1901-1930) lên 281 mm (1991-2015), trong khi nhiệt độ tháng cao nhất cũng tăng từ 27,1°C lên 27,5°C trong cùng khoảng thời gian Các kỷ lục mới về thời tiết như "mưa lớn kỷ lục" và "nắng nóng kỷ lục" ngày càng phổ biến trên các phương tiện truyền thông Năm 2017 được ghi nhận là năm có nhiều thiên tai nhất với hơn 16 cơn bão và lũ lụt lịch sử Nhiệt độ trung bình tại miền Bắc và Bắc Trung Bộ hiện cao hơn từ 0,5 - 1,0°C so với các năm trước Sự thay đổi trong tần suất bão và áp thấp nhiệt đới cũng ngày càng rõ rệt, với năm có tới 19 cơn lốc và năm chỉ có 4-6 cơn Số cơn bão với sức gió cấp 12 trở lên đã tăng nhẹ từ năm 1990 đến 2015 Năm 2018 ghi nhận sự gia tăng đáng kể về lượng mưa và mực nước sông so với năm 2017, cùng với nhiệt độ cao kỷ lục tại Hà Nội lên tới 42°C trong vòng 46 năm qua.

Nước biển dâng là một hiện tượng nổi bật của biến đổi khí hậu tại Việt Nam, với số liệu từ trạm quốc gia Hòn Dấu cho thấy mực nước biển đã tăng khoảng 20 cm trong 50 năm qua Cụ thể, mực nước biển được quan trắc tại các trạm hải văn ghi nhận mức tăng 2,45 mm/năm trong giai đoạn 1960-2014 và 3,34 mm/năm trong giai đoạn 1993-2014 Dữ liệu vệ tinh cũng chỉ ra rằng mực nước biển đã tăng lên 3,5 mm/năm (± 0,7 mm) vào năm 2014 so với năm 1993.

Các hiện tượng thời tiết cực đoan ở Việt Nam

Lũ lụt là hiện tượng nước từ sông, hồ tràn ngập một vùng đất, có thể do thủy triều hoặc nước biển dâng do bão Lũ xảy ra khi nước trong sông, hồ tràn qua đê hoặc vỡ đê, làm nước xâm nhập vào các vùng đất được bảo vệ Kích thước của hồ và các vực nước có thể thay đổi theo mùa do giáng thủy hoặc tuyết tan, nhưng chỉ khi lượng nước này tràn ra và gây nguy hiểm cho các khu vực như làng, thành phố hoặc khu định cư khác thì mới được coi là lũ lụt.

Nguyên nhân chính gây ra lụt là triều cường và bão, dẫn đến sự hình thành nước lũ lớn kèm theo đất đá Nước lũ có thể tràn qua bờ sông, đê hoặc làm vỡ các công trình ngăn lũ, gây ngập lụt ở các vùng trũng như đập Bên cạnh đó, hiện tượng nước biển dâng cũng là một yếu tố quan trọng, làm ngập các khu vực ven biển.

Mưa lớn kéo dài do bão là nguyên nhân chính gây ra lũ lụt, đặc biệt ở vùng đồng bằng và cửa sông gần biển, nơi triều cường làm tình trạng lũ lụt trở nên nghiêm trọng hơn Bên cạnh đó, còn nhiều yếu tố khác cũng ảnh hưởng đến khả năng xuất hiện của lũ lớn và bất thường.

Khu vực rộng lớn giúp nước lũ dâng lên và rút xuống chậm hơn, trong khi lưu vực hẹp và dài khiến nước lũ tăng nhanh hơn Điều này có thể dẫn đến hiện tượng lũ quét và lũ ống trong một số trường hợp.

Rừng bị chặt phá, tàn phá cũng là một nguyên nhân gây lũ lụt, lũ quét trên vùng núi, và xói mòn đất.

Hiện tượng El Nino và La Nina đã gây ra nhiều loại hiện tượng lũ lụt và hạn hán trên nhiều vùng khác nhau trên thế giới.

Nếu một khu vực có hệ thống sông ngòi phong phú nhưng không được bảo vệ rừng, nguy cơ xảy ra lũ lụt sẽ tăng cao.

Lũ lụt miền Trung Việt Nam năm 2020, còn được gọi là Lũ chồng lũ hay Lũ lịch sử, diễn ra từ đêm 06 đến rạng sáng 07 tháng 10 và kéo dài đến đầu tháng 12 Đợt thiên tai này gây ra bão và lũ lụt nghiêm trọng, ảnh hưởng chủ yếu đến các tỉnh Nghệ An và các khu vực lân cận.

Trong khoảng thời gian từ tháng 10 đến tháng 11, khu vực Bắc Trung Bộ và một phần Nam Trung Bộ, bao gồm Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Bắc Tây Nguyên, phải đối mặt với nhiều cơn bão và áp thấp nhiệt đới Những hiện tượng thời tiết này, như bão Linfa, Nangka, Saudel, Molave, Goni, Etau và Vamco, đã gây ra lượng mưa lớn, dẫn đến tình trạng ngập lụt nghiêm trọng trên diện rộng ở miền Trung Nhiều địa phương bị chia cắt do nước lũ dâng cao, gây ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân.

Theo tổng cục Thống kê, mưa lũ tại các tỉnh miền Trung đã gây ra hậu quả nghiêm trọng với 129 người chết và mất tích, 214 người bị thương Hàng trăm nghìn ngôi nhà bị sập đổ, cuốn trôi, ngập và hư hỏng, cùng với hơn 1.000 ha lúa và 7.200 ha hoa màu bị thiệt hại Tổng giá trị thiệt hại về tài sản ước tính lên tới 2,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 83,8% tổng giá trị thiệt hại do thiên tai gây ra.

Hạn hán là hiện tượng kéo dài nhiều tháng hoặc nhiều năm, khi một khu vực gặp phải tình trạng thiếu nước do lượng mưa dưới mức trung bình Hiện tượng này có thể gây ra tác động lớn đến hệ sinh thái và nông nghiệp của khu vực bị ảnh hưởng Dù hạn hán có thể kéo dài trong nhiều năm, nhưng ngay cả một trận hạn hán dữ dội ngắn hạn cũng có thể gây thiệt hại nghiêm trọng và ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế địa phương.

Khí hậu thời tiết bất thường dẫn đến lượng mưa thiếu hụt, thường xuyên ít ỏi, đặc biệt ở các vùng khô hạn và bán khô hạn Mưa trong thời gian dài thường thấp hơn mức trung bình nhiều năm, ảnh hưởng đến cả những khu vực có lượng mưa cao Tình trạng này diễn ra khi có khoảng thời gian không mưa hoặc lượng mưa chỉ đáp ứng nhu cầu tối thiểu cho sản xuất và môi trường Đặc biệt, hiện tượng này phổ biến ở các vùng có khí hậu gió mùa, nơi có sự khác biệt rõ rệt giữa mùa mưa và mùa khô Bản chất và tác động của hạn hán liên quan chặt chẽ đến phân loại hạn hán.

Do con người gây ra:

Tình trạng phá rừng bừa bãi đang gây ra sự cạn kiệt nguồn nước ngầm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến hệ sinh thái Ngoài ra, việc trồng cây không phù hợp, đặc biệt ở những vùng khô hạn, như trồng lúa cần nhiều nước, cũng góp phần làm gia tăng áp lực lên nguồn nước, dẫn đến tình trạng khan hiếm nước ngày càng trầm trọng hơn.

Công tác quy hoạch sử dụng nước và bố trí công trình hiện nay gặp nhiều vấn đề, dẫn đến việc nhiều công trình không phát huy hiệu quả Ở những vùng có nguồn nước dồi dào, lại xây dựng các công trình nhỏ, trong khi đó, vùng thiếu nước tự nhiên lại được đầu tư xây dựng các công trình lớn.

Tình trạng chăn thả quá mức làm xói mòn đất, thảm thực vật

Hạn hán miền Nam Việt Nam năm 2016 là một trong những đợt hạn hán nghiêm trọng nhất trong 100 năm qua, xảy ra tại lưu vực Mekong, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông Cửu Long vào đầu năm 2016.

Sông Mekong là nguồn cung cấp nước chính cho Đồng bằng sông Cửu Long Vào đầu năm 2016, trong mùa khô, lượng nước sông Mekong đã giảm mạnh, gây ra tình trạng thiếu nước và dẫn đến hiện tượng nước mặn xâm nhập ngược dòng vào khu vực.

Trong đợt hạn hán hiện tại, 13 tỉnh tại Đồng bằng sông Cửu Long đã bị xâm nhập mặn, với 10 tỉnh công bố thiên tai, trong đó nhiều tỉnh ở cấp độ 2 Độ mặn tại nhiều cửa sông đã tăng lên trên 30g/l, ảnh hưởng đến 20 triệu người dân trong khu vực Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam, khoảng 160.000 ha lúa đã bị thiệt hại, tương đương với 800.000 tấn lúa mất trắng Các tỉnh chịu thiệt hại nặng nề nhất bao gồm Kiên Giang (hơn 54.000 ha), Cà Mau (gần 50.000 ha), Bến Tre (gần 14.000 ha) và Bạc Liêu (gần 12.000 ha).

Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu và các hiện tượng cực đoan

Bức tranh chung toàn cầu

Nhiều thành phố ven biển đang đối mặt với nguy cơ bị nước biển nhấn chìm do mực nước biển dâng, một hậu quả trực tiếp từ sự tan băng ở Bắc và Nam Cực Theo dự đoán, trong số 33 thành phố có dân số 8 triệu người vào năm 2015, ít nhất 21 thành phố sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng, với khoảng 332 triệu người sống ở vùng ven biển và đất trũng có nguy cơ mất nhà cửa vì ngập lụt.

Mức độ rủi ro cao về lãnh thổ bị thu hẹp do nước biển dâng được xếp hạng theo thứ tự là Trung Quốc, Ấn Độ, Băngladesh, Việt Nam, Indonesia, Nhật Bản, Ai Cập, Hoa Kỳ, Thái Lan và Philippines.

Nước biển dâng gây ra hiện tượng xâm nhập mặn vào nội địa và làm ô nhiễm nguồn nước ngầm, ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất nông nghiệp và tài nguyên nước ngọt Dự báo đến năm 2080, khoảng 1,8 tỷ người sẽ phải đối mặt với tình trạng khan hiếm nước, trong khi khoảng 600 triệu người sẽ gặp phải nạn suy dinh dưỡng do năng suất nông nghiệp giảm.

Sự suy giảm chất lượng nước và sản lượng sinh học trong các hệ sinh thái nước ngọt đang gia tăng bệnh tật, đặc biệt là các bệnh mùa hè do vectơ truyền Trong 20-25 năm qua, đã có khoảng 30 bệnh mới xuất hiện, dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân và tỷ lệ tử vong của nhiều bệnh truyền nhiễm gia tăng Đáng chú ý, khoảng 400 triệu người sẽ phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh sốt rét trong tương lai.

Theo Nicolas Stern (2017), nguyên chuyên gia kinh tế hàng đầu của Ngân hàng Thế giới, chi phí thiệt hại do biến đổi khí hậu gây ra trong 10 năm tới ước tính lên tới 7.000 tỷ USD Nếu không có biện pháp ứng phó, thiệt hại hàng năm có thể chiếm từ 5-20% GDP Tuy nhiên, nếu chúng ta thực hiện các biện pháp tích cực để ổn định khí nhà kính ở mức 550 ppm vào năm 2030, chi phí thiệt hại sẽ giảm xuống chỉ còn khoảng 1% GDP.

BĐKH, mặc dù có những tác động tiêu cực, cũng mang lại cơ hội tích cực cho các quốc gia trong việc đổi mới công nghệ và phát triển công nghệ sạch, thân thiện với môi trường Các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) liên quan được thúc đẩy, cùng với việc phát triển trồng rừng để hấp thụ CO2 và giảm phát thải khí nhà kính Ở một số khu vực ôn đới, nhiệt độ tăng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, đồng thời tiết kiệm năng lượng cho việc sưởi ấm.

Tác động của BĐKH ở Việt Nam

Tại Việt Nam, diễn biến khí hậu gần đây phản ánh tình hình toàn cầu, với biến đổi khí hậu ảnh hưởng đến mọi vùng miền và lĩnh vực như tài nguyên, môi trường và kinh tế – xã hội Trong đó, tài nguyên nước, nông nghiệp, phát triển nông thôn, y tế và các khu vực ven biển là những lĩnh vực chịu tác động mạnh mẽ nhất.

Việt Nam, với đường bờ biển dài 3.260 km, đang đối mặt với những tác động nghiêm trọng từ tình trạng nước biển dâng Theo khuyến cáo của Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu, cần có các biện pháp khẩn cấp để ứng phó với thách thức này.

Theo báo cáo của IPCC, nếu mực nước biển dâng lên 100 cm, Việt Nam sẽ mất khoảng 40.000 km² đất, tương đương 12,1% tổng diện tích hiện có Hệ quả nghiêm trọng này sẽ khiến 17,1 triệu người, chiếm 23,1% dân số, phải rời bỏ nơi sinh sống.

Nước biển dâng đang đe dọa Đồng bằng sông Mekong, hay còn gọi là Đồng bằng sông Cửu Long, một trong những vựa lúa lớn nhất của Việt Nam Sự thiệt hại này không chỉ ảnh hưởng đến an ninh lương thực của Việt Nam mà còn tác động đến cộng đồng quốc tế, bởi Việt Nam là một trong năm quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.

Theo báo cáo dự kiến của Việt Nam (năm 2015), nếu mực nước biển dâng 100 cm, hơn 10% diện tích đồng bằng sông Hồng và tỉnh Quảng Ninh sẽ bị ngập, cùng với 2,5% diện tích các tỉnh ven biển miền Trung và hơn 20% diện tích Thành phố Hồ Chí Minh Đặc biệt, khu vực đồng bằng sông Cửu Long sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề, với khoảng 39% diện tích bị ngập, tác động xấu đến gần 35% dân số và có nguy cơ mất 40,5% tổng sản lượng lúa của vùng.

Biến đổi khí hậu (BĐKH) ảnh hưởng sâu rộng đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội, đời sống và sức khỏe cộng đồng Trong nông nghiệp, BĐKH làm giảm sản lượng và gây ra biến đổi thời tiết, ảnh hưởng trực tiếp đến vụ mùa Hơn nữa, BĐKH còn được xem là nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện của các virus mới và những biến thể virus gây bệnh truyền nhiễm, gây ra những tác động nghiêm trọng đối với sức khỏe cộng đồng.

Theo Chỉ số rủi ro khí hậu toàn cầu năm 2018, Việt Nam ghi nhận 161 trường hợp tử vong do hiện tượng thời tiết cực đoan vào năm 2016, xếp thứ 11 trên thế giới Thiệt hại kinh tế lên tới 4.037.704 triệu USD (theo sức mua tương đương - PPP), đứng thứ 5 toàn cầu, và thiệt hại bình quân GDP theo % là 0,6782, xếp thứ 10 trên thế giới.

6.2.1 Tác động của BĐKH tới tài nguyên nước

Việt Nam hiện đang nằm trong nhóm các quốc gia thiếu nước, với tổng bình quân đầu người về nước mặt và nước ngầm chỉ đạt 4.400 m3/người/năm, thấp hơn nhiều so với mức bình quân toàn cầu là 7.400 m3/người/năm Việc khai thác và sử dụng tài nguyên nước tại Việt Nam đang gặp phải nhiều vấn đề không bền vững.

Tài nguyên nước đang đối mặt với sự suy thoái nghiêm trọng về cả số lượng lẫn chất lượng, do nhu cầu sử dụng ngày càng tăng, việc khai thác và sử dụng không hợp lý, thiếu quy hoạch rõ ràng, cùng với sự giảm sút đáng báo động của rừng đầu nguồn.

Dưới tác động của biến đổi khí hậu, sự gia tăng nhiệt độ trung bình và sự bất thường của thời tiết sẽ có ảnh hưởng sâu sắc đến tài nguyên nước ngọt Các hiện tượng khí hậu cực đoan và thiên tai ngày càng gia tăng, làm gia tăng áp lực lên nguồn nước, ảnh hưởng đến khả năng cung cấp và quản lý tài nguyên nước ngọt.

Nhu cầu sử dụng nước cho sinh hoạt, nông nghiệp, công nghiệp, năng lượng và giao thông đang gia tăng, trong khi lượng nước bốc hơi từ các thủy vực cũng tăng theo Hệ quả là tình trạng suy thoái tài nguyên nước về cả số lượng và chất lượng sẽ trở nên nghiêm trọng hơn.

Biến đổi khí hậu sẽ gây ra sự thay đổi trong lượng mưa, ảnh hưởng đến dòng chảy của các con sông, cường độ và tần suất lũ lụt, cũng như đặc điểm của hạn hán và nguồn nước ngầm Dự báo cho thấy, hiện tượng này sẽ làm giảm đáng kể lượng nước trong các con sông ở nhiều khu vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Khi băng tuyết ở các cực và đỉnh núi cao tan chảy, dòng chảy của các sông sẽ tăng lên, dẫn đến tình trạng lũ lụt Tuy nhiên, khi băng trên núi cạn kiệt, lũ lụt sẽ giảm nhưng dòng chảy cũng sẽ suy giảm, thậm chí có thể cạn kiệt hoàn toàn Điều này gây ra tình trạng thiếu nước nghiêm trọng, đặc biệt là ở các nước châu Á, nơi nguồn nước sông ngòi phụ thuộc nhiều vào nước từ thượng nguồn.

6.2.2 Tác động của BĐKH tới lĩnh vực nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam hiện nay phụ thuộc nhiều vào thời tiết, với sự gia tăng nhiệt độ và biến động khí hậu ảnh hưởng lớn đến trồng trọt Sự bất thường trong chu kỳ khí hậu không chỉ làm gia tăng dịch bệnh và dịch hại mà còn dẫn đến giảm năng suất mùa màng và tiềm ẩn các rủi ro nghiêm trọng khác.

Trong thời gian qua, ở nhiều địa phương, mùa màng đã bị mất trắng do thiên tai (lũ lụt và hạn hán).

6.2.3 Tác động của BĐKH tới tài nguyên đa dạng sinh học rừng

Việt Nam sở hữu đa dạng sinh học cao và hệ sinh thái phong phú, nhưng trong thời gian qua, sự suy thoái nghiêm trọng của đa dạng sinh học, đặc biệt là hệ sinh thái rừng, đã diễn ra do nhiều nguyên nhân khác nhau Diện tích rừng giảm, trong khi rừng ngập mặn ven biển đã giảm tới 80% do chuyển đổi không quy hoạch thành ao đầm nuôi trồng thủy sản Mặc dù diện tích rừng có tăng lên trong những năm gần đây, tỷ lệ rừng nguyên sinh vẫn chỉ đạt khoảng 8%, thấp hơn nhiều so với mức 50% của các nước trong khu vực Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu và thực hiện các mục tiêu của Công ước ĐDSH năm 2010, nhằm nâng cao hiệu quả bảo tồn và dịch vụ của hệ sinh thái rừng trong việc giảm thiểu thiên tai, bảo vệ tài nguyên nước và giảm phát thải CO2.

Biện pháp ứng phó với biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan

Tác động của biến đổi khí hậu và các hiện tượng thời tiết cực đoan đến ngành Xây Dựng:31 1 Tác động của biến đổi khí hậu và nước biển dâng đến phát triển các công trình xây dựng31 1.1 Ảnh hưởng của sự gia tăng nhiệt độ đối với các công trình xây dựng

Ngày đăng: 31/07/2021, 07:47

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w