NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CÔNG TÁC QUẢN LÝ
QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 Lý luận cơ bản về ngân sách nhà nước
1.1.1 Khái niệm về ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước, hay còn gọi là ngân sách chính phủ, là một khái niệm quan trọng trong kinh tế và lịch sử, đóng vai trò là một phần thiết yếu trong hệ thống tài chính Thuật ngữ này được áp dụng phổ biến trong các hoạt động kinh tế và xã hội ở nhiều quốc gia trên toàn cầu.
Có nhiều quan niệm khi nói đến ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là bản dự trù thu chi tài chính của nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định, thường là một năm.
Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước.
Ngân sách nhà nước là tập hợp các quan hệ kinh tế liên quan đến việc huy động và sử dụng nguồn tài chính của nhà nước Theo Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua vào ngày 16/12/2002, ngân sách nhà nước bao gồm toàn bộ các khoản thu và chi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực hiện trong một năm, nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Ngân sách nhà nước là sự phản ánh các mối quan hệ kinh tế liên quan đến việc hình thành, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước Nó thể hiện vai trò của Nhà nước trong việc phân phối nguồn tài chính quốc gia để thực hiện các chức năng theo quy định của pháp luật.
NSNN phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể như doanh nghiệp, cơ quan HCSN, hộ gia đình, cá nhân và tổ chức trong và ngoài nước Những mối quan hệ này liên quan đến quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ ngân sách nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý và phát triển kinh tế Đại học Kinh tế Huế là một trong những cơ sở đào tạo hàng đầu trong lĩnh vực này.
Ngân sách nhà nước (NSNN) bao gồm các nguồn thu cụ thể được quy định để nộp vào quỹ tiền tệ, và các khoản chi được phân bổ từ quỹ này Nguồn thu của NSNN được xác định bởi các luật như Luật thuế và các văn bản pháp lý khác Đồng thời, chi tiêu cũng phải tuân thủ các tiêu chuẩn và định mức do Nhà nước quy định Mục tiêu chính của NSNN là cân đối giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi để đảm bảo sự ổn định tài chính quốc gia.
1.1.2 Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước Ở Việt Nam, trước cách mạng tháng 8/1945, NSNN là công cụ bốc lột thành quả lao động của dân chúng và phục vụ lợi ích của giai cấp thống trị Sau khi cách mạng tháng 8/1945 thành công, Nhà nước ta thực hiện quyền lực về NSNN và đã có những chính sách mang tính chất cách mạng triệt để, làm nức lòng dân, như sắc lệnh về việc bãi bỏ thuế thân, hình thành hệ thống thuế mới với quan điểm giảm bớt gánh nặng thuế khóa cho dân nghèo. Đến năm 1967 chế độ phân cấp quản lý ngân sách ra đời Hệ thống NSNN bao gồm: Ngân sách trung ương và ngân sách địa phương (các tỉnh, thành phố phía Bắc). Như vậy, từ cách mạng tháng 8/1945 thành công đến năm 1967 chỉ có một NSNN.
Năm 1972 Nhà nước ban hành “Điều lệ ngân sách xã”, ngân sách xã được xây dựng nhưng chưa được tổng hợp vào hệ thống NSNN.
Năm 1978, chính phủ ra quyết định số 108/CP, ngân sách địa phương được phân thành 2 cấp: ngân sách cấp Tỉnh, ngân sách cấp Huyện.
Theo Nghị quyết 138/HĐBT ngày 19/11/1983, ngân sách xã đã được tích hợp vào hệ thống ngân sách nhà nước (NSNN) của Việt Nam, bao gồm bốn cấp: ngân sách Trung ương, ngân sách cấp Tỉnh, ngân sách cấp Huyện và ngân sách cấp Xã.
Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) được ban hành vào ngày 23/3/1996 và có hiệu lực từ năm ngân sách 1997 Theo quy định của Luật NSNN, hệ thống ngân sách Việt Nam bao gồm bốn cấp: Ngân sách Trung ương, Ngân sách cấp Tỉnh, Ngân sách cấp Huyện và Ngân sách cấp Xã.
Luật ngân sách nhà nước năm 2002 có hiệu lực từ năm ngân sách 2004, thay thế Luật NSNN năm 1996 và các sửa đổi, bổ sung năm 1998 Theo luật này, ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của các đơn vị hành chính có Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Hình 1.1 Hệ thống NSNN ở Việt Nam
Như vậy, NSNN bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách các cấp chính quyền địa phương (ngân sách địa phương).
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương gồm:
+ Ngân sách cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là ngân sách cấp Tỉnh)
+ Ngân sách cấp Huyện, Quận, Thị xã, Thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp Huyện)
+ Ngân sách cấp Xã, Phường, Thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp Xã)
Quan hệ giữa ngân sách các cấp được thực hiện theo các nguyên tắc sau đây: Đại học Kinh tế Huế
+ Ngân sách trung ương và ngân sách mỗi cấp chính quyền địa phương được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cu thể;
Việc bổ sung ngân sách từ cấp trên cho cấp dưới là cần thiết để đảm bảo sự công bằng và phát triển cân đối giữa các vùng và địa phương Khoản bổ sung này được coi là nguồn thu cho ngân sách cấp dưới.
Khi cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên ủy quyền cho cơ quan cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi, cần chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để đảm bảo thực hiện nhiệm vụ đúng chức năng.
Ngoài việc tăng cường nguồn thu và ủy quyền thực hiện nhiệm vụ chi, ngân sách cấp này không được sử dụng cho nhiệm vụ của cấp khác.
1.1.3 Đặc điểm của ngân sách nhà nước
Hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước liên quan chặt chẽ đến quyền lực kinh tế và chính trị của nhà nước, với việc ban hành các quy định pháp luật nhằm thực hiện hiệu quả chức năng này.
Hoạt động ngân sách nhà nước thể hiện ở hai lĩnh vực thu và chi NS của nhà nước nhằm phân phối lại các nguồn tài chính của nhà nước.
Ngân sách nhà nước luôn gắn với sở hữu nhà nước, bao hàm những lợi ích chung, lợi ích công cộng.
Ngân sách nhà nước thực chất là quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước và được sử dụng bởi những mục đích được nhà nước quy định.
Nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp được nhà nước quy định trong hoạt động thu chi của ngân sách nhà nước.
1.1.4 Vai trò của ngân sách nhà nước
Ngân sách nhà nước là yếu tố quan trọng trong hệ thống tài chính, ảnh hưởng quyết định đến các hoạt động kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước Vai trò của ngân sách luôn thay đổi theo từng giai đoạn phát triển của nhà nước Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, ngân sách nhà nước thể hiện vai trò chủ yếu trong việc điều tiết và phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội và củng cố an ninh quốc phòng.
NSNN đóng vai trò quan trọng trong việc huy động nguồn tài chính, đảm bảo lực lượng vật chất cần thiết cho nhà nước thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của mình Vai trò này là thiết yếu đối với bất kỳ quốc gia nào, nhằm đảm bảo nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu và cân đối ngân sách nhà nước.
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI
SÁCH NHÀ NƯỚC TẠI THÀNH PHỐ ĐỒNG HỚI
2.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên
Hình 2.1 Bản đồ hành chính thành phố Đồng Hới
Thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình, tọa lạc trên quốc lộ 1A, tuyến đường sắt Thống nhất Bắc Nam và đường Hồ Chí Minh, với tọa độ 17°21' vĩ độ bắc.
Đồng Hới, tọa độ 106° 10' kinh độ đông, nằm giáp biển Đông ở phía đông, huyện Bố Trạch ở phía tây và bắc, huyện Quảng Ninh về phía tây nam Nơi đây từng là địa điểm xây dựng thành Đại học Kinh tế Huế Đồng Hới và lũy Thầy, đóng vai trò quan trọng trong việc chống đỡ Đàng Trong trong thời kỳ chiến tranh Trịnh-Nguyễn.
Đồng Hới có vị trí địa lý thuận lợi với Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc - Nam và đường Hồ Chí Minh đi qua, cùng với sân bay Đồng Hới kết nối Hà Nội và TP Hồ Chí Minh Du khách có thể dễ dàng tiếp cận thành phố qua nhiều phương tiện khác nhau, bao gồm cả cảng Nhật Lệ, cảng Gianh và cảng Hòn La.
Đồng Hới, thành phố trung tâm tỉnh Quảng Bình, cách vườn quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng và suối Bang 50 km, cảng biển Hòn La 60 km, và cửa khẩu quốc tế Cha Lo 180 km Nằm dọc bờ biển với 12 km bờ biển phía Đông và sông Nhật Lệ chảy qua thành phố, Đồng Hới sở hữu hệ thống sông, suối, hồ và rừng nguyên sinh phía Tây, tạo điều kiện lý tưởng cho phát triển du lịch, nghỉ ngơi và giải trí.
2.1.1.2 Địa hình và khí hậu Địa hình, địa chất của Đồng Hới đa dạng bao gồm vùng gò đồi, vùng bán sơn địa, vùng đồng bằng và vùng cát ven biển Đồng Hới đã được ví như “chim câu trắng bên bờ biển đông”, như bông “hoa hồng” xinh tươi trong nắng sớm Thành phố Đồng Hới được thiên nhiên ưu ái, ban tặng cho dòng sông Nhật Lệ mềm như dải lụa uốn quanh, ôm ấp phố phường Sông Nhật Lệ là con sông đẹp do sông Kiến Giang và sông Long Đại hợp thành.
Phía tây Đồng Hới được bao bọc bởi dãy núi được xem như "hậu chẩm" trong phong thủy, trong khi phía trước là sông và biển, với đồi cát Bảo Ninh như một bức bình phong tự nhiên Trước đây, Bảo Ninh tách biệt với Đồng Hới, nhưng sự xuất hiện của cầu Nhật Lệ đã thúc đẩy quá trình đô thị hóa, biến nơi đây thành khu vực có nhiều khu nghỉ dưỡng Đồng Hới có nhiệt độ trung bình năm là 24,4ºC, lượng mưa dao động từ 1.300 đến 4.000 mm, tổng giờ nắng đạt 1.786 giờ/năm, độ ẩm trung bình khoảng 84%, và chịu ảnh hưởng của chế độ gió mùa với các hướng gió Đông Nam, Tây Nam, và Đông Bắc.
2.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội Đại học Kinh tế Huế
Trong những năm gần đây, kinh tế Đồng Hới đã có sự phát triển mạnh mẽ nhờ vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hóa và đô thị hoá Những thay đổi này đã làm thay đổi rõ rệt bộ mặt thành phố Chiến lược đầu tư phát triển dịch vụ và du lịch đã được ưu tiên, với mục tiêu biến phát triển dịch vụ thành lĩnh vực đột phá và du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với xu hướng đô thị hóa.
Bảng 2.1: Giá trị sản xuất theo cơ cấu ngành thành phố Đồng Hới Đơn vị tính: Tỷ đồng
(Nguồn: Niên giám thống kê thành phố Đồng Hới)
Tốc độ phát triển công nghiệp đang được thúc đẩy mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đồng thời chú trọng gắn kết với bảo vệ môi trường và cảnh quan đô thị.
Từ năm 2011 đến 2015, tổng giá trị sản xuất (GTSX) tăng từ 1.881,600 tỷ đồng lên 2.618,021 tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng đạt 8,6% Để đạt được điều này, các doanh nghiệp đã tập trung đầu tư vào việc đổi mới thiết bị và chuyển giao khoa học - công nghệ, ưu tiên phát triển các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch và các sản phẩm có lợi thế như chế biến nông lâm thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, điện tử và hóa chất Đồng thời, đã chú trọng nâng cấp và mở rộng các nhà máy hiện có như nhà máy bia Hà Nội – Quảng Bình, chế biến gỗ, sản xuất colophan, gạch ốp lát, dược phẩm, bao bì và may xuất khẩu Ngoài ra, cũng đã kêu gọi các nguồn vốn để đầu tư vào các dự án công nghệ mới như chế biến gỗ MDF, sản xuất sứ vệ sinh cao cấp và gốm mỹ nghệ xuất khẩu.
Khuyến khích phát triển các cơ sở công nghiệp nhỏ và vừa, đồng thời khôi phục và phát triển nghề thủ công truyền thống ở địa phương là mục tiêu quan trọng Đại học Kinh tế Huế tập trung vào sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ và mộc cao cấp Hơn nữa, cần khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản, kết hợp phát triển tiểu thủ công nghiệp với xây dựng nông thôn mới.
Nông nghiệp đang phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, nâng cao hiệu quả kinh tế với giá trị tổng sản phẩm (GTSX) đạt 473,059 tỷ đồng vào năm 2011, tăng lên 559,022 tỷ đồng vào năm 2012 và 588,236 tỷ đồng vào năm 2015, với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,7% trong giai đoạn 2011-2015 Ngành nông nghiệp tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phù hợp với yêu cầu phát triển đô thị, hướng tới nông nghiệp sạch, bền vững, bảo vệ môi trường sinh thái và phát triển du lịch, đồng thời gắn kết sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm.
Kinh tế vùng gò đồi phía Tây đang phát triển mạnh mẽ theo hướng trang trại, với các loại cây có giá trị kinh tế cao như cao su, hồ tiêu, cây ăn quả, rau, hoa và cây cảnh Đề án sản xuất rau an toàn đã được thực hiện hiệu quả, hình thành vành đai rau xanh, rau sạch tại các xã Bảo Ninh, Đức Ninh, Lộc Ninh và Nghĩa Ninh Chăn nuôi gia súc, gia cầm cũng được phát triển và nâng cao chất lượng, đảm bảo an toàn dịch bệnh Hệ thống thủy lợi hiện có đã được đầu tư tu sửa và nâng cấp, đồng thời cải tạo sông cầu Rào để phục vụ tiêu úng, hoàn thành chương trình kiên cố hóa kênh mương và khai thác hiệu quả hệ thống thủy nông.
2015 tỷ lệ tưới tiêu đạt 100%.
Việc giao đất và giao rừng đang được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm phát triển kinh tế tổng hợp tại khu vực gò đồi Đồng thời, cần tăng cường công tác quản lý và bảo vệ rừng, cũng như đẩy mạnh hoạt động trồng rừng và sử dụng hiệu quả nguồn vốn rừng hiện có.
Kinh tế biển đang được đầu tư phát triển mạnh mẽ, trở thành ngành kinh tế chủ chốt của thành phố Việc khai thác tiềm năng và lợi thế biển được chú trọng, bao gồm đánh bắt, nuôi trồng, chế biến và dịch vụ Cơ sở vật chất ngành thủy sản được tăng cường, hướng tới công nghiệp hoá và hiện đại hoá Ngư trường được mở rộng, với sự chú trọng vào đánh bắt xa bờ, kết hợp giữa khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản cũng như môi trường sinh thái biển Diện tích nuôi trồng ổn định và đảm bảo phát triển bền vững, với sản lượng thủy sản dự kiến đạt 10.200 tấn vào năm 2020 và diện tích nuôi trồng đạt 580 ha.
Ngành thương mại và dịch vụ đã có sự phát triển mạnh mẽ, với tổng giá trị sản xuất (GTSX) năm 2011 đạt 2.206.300 triệu đồng, tăng lên 2.900,185 tỷ đồng vào năm 2015, với tốc độ tăng trưởng bình quân 6% Các thành phần kinh tế đã được đầu tư để phát triển và mở rộng mạng lưới thương mại, dịch vụ, bao gồm việc xây dựng siêu thị, trung tâm thương mại và nâng cấp các chợ Mục tiêu đến năm 2020 là cải tạo và nâng cấp 2 chợ đạt tiêu chuẩn loại 1, 5 chợ loại 2 và 10 chợ loại 3.