1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Tìm hiểu đời sống văn hoá giáo dục nhật bản trong thời kì minh trị 1868 1912

75 21 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tìm Hiểu Đời Sống Văn Hoá - Giáo Dục Nhật Bản Trong Thời Kỳ Minh Trị (1868 - 1912)
Tác giả Phan Đại Nghĩa
Người hướng dẫn GVC TS. Phạm Ngọc Tân
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Lịch Sử Thế Giới
Thể loại Khóa Luận Tốt Nghiệp Đại Học
Năm xuất bản 2004
Thành phố Vinh
Định dạng
Số trang 75
Dung lượng 0,91 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài 1 (5)
  • 2. Lịch sử vấn đề 2 (6)
  • 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4 (8)
  • 4. Nguồn tài liệu và phạm vi nghiên cứu 5 (0)
  • 5. Bố cục khoá luận 5 (0)
  • PHẦN 2: NỘI DUNG 6 (10)
  • CHƯƠNG 1: NHẬT BẢN THỜI KỲ TÔCƯGAOA VÀ SỰ KHÔI PHỤC QUYỀN LỰC CỦA THIÊN HOÀNG. 6 1.1: Nhật Bản thời kỳ Tôcƣgaoa. 6 (10)
    • 1.1.1: Về kinh tế . 6 (0)
    • 1.1.2: Về chính trị. 13 (0)
    • 1.1.3: Về văn hoá - giáo dục. 16 (0)
    • 1.2: Sự khôi phục quyền lực của Thiên Hoàng. 19 (24)
      • 1.2.1: Sự xâm nhập của các nước phương Tây vào Nhật Bản và đối sách của Mạc phủ Tôcƣgaoa. 1.2.2: Cuộc đấu tranh chống chính quyền Mạc phủ và sự khôi phục quyền lực của Thiên hoàng. 23 (24)
  • CHƯƠNG 2: VĂN HOÁ NHẬT BẢN DƯỚI THỜI KỲ MINH TRỊ. 29 (33)
    • 2.1: Chính sách của Minh Trị trong lĩnh vực văn hoá. 29 (33)
    • 2.2: Sự phát triển văn hoá Nhật Bản dưới thời Minh Trị. 31 (36)
      • 2.2.1. Tôn giáo, tín ngƣỡng. 31 (36)
      • 2.2.2. Văn học, nghệ thuật. 34 (38)
  • CHƯƠNG 3: GIÁO DỤC NHẬT BẢN DƯỚI THỜI MINH TRỊ. 42 (47)
    • 3.1: Chính sách của Minh Trị trong lĩnh vực giáo dục. 42 (47)
    • 3.2: Sự hình thành hệ thống giáo dục hiện đại. 45 (50)
      • 3.2.1. Trường tiểu học. 45 (50)
      • 3.2.2. Trường trung học phổ thôngvà trường chuyên nghiệp. 48 (54)
      • 3.2.3. Giáo dục cao đẳng và đại học. 50 (56)
      • 3.2.4. Trường sư phạm và vấn đề đào tạo giáo viên. 54 3.3: Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển kinh tế của Nhật Bản. 57 (60)

Nội dung

Lịch sử vấn đề 2

Cách đây hơn một thế kỷ, người Việt Nam đã bắt đầu tìm hiểu về công cuộc Duy tân Minh Trị của Nhật Bản, đặc biệt là vào cuối thế kỷ XIX qua sách báo Trung Quốc Cuộc cải cách này đã trở thành nguồn cảm hứng và hy vọng cho những người dân Việt Nam đang sống trong cảnh mất nước.

Phan Bội Châu là tác giả Việt Nam đầu tiên đề cập đến Minh Trị Duy Tân trong tác phẩm "Tân Việt Nam" (1908), nơi ông nêu bật nhiều khía cạnh của cuộc cải cách này Sau đó, một số công trình nghiên cứu như "Giáo dục Nhật Bản hiện đại" của Đoàn Văn An (1965), "Nhật Bản Duy Tân dưới thời Minh Trị Thiên Hoàng" của Nguyễn Khắc Ngữ (1969), và "Nhật Bản cận đại" của Vĩnh Sính đã tiếp tục khám phá sâu hơn về chủ đề này.

Các công trình nghiên cứu đã hệ thống hóa tình hình Nhật Bản trước công cuộc Duy Tân và nêu rõ nội dung cải cách Minh Trị.

Trong những năm gần đây, nhiều tác phẩm nổi bật về lịch sử và văn hóa Nhật Bản đã được xuất bản, như "Lịch sử giáo dục thời Minh Trị Duy tân" của Nguyễn Văn Hồng (Nxb Giáo dục, 1994) và "Lịch sử Nhật Bản" của Phan Ngọc Liên (Nxb VHTT, 1997) Ngoài ra, một số tác phẩm nước ngoài đã được dịch sang tiếng Việt, chẳng hạn như "Nhật Bản quá khứ và hiện tại" của Edwen O Reis Chauer (Nxb KHXH, Hà Nội, 1994) và "Tại sao Nhật Bản thành công? Công nghệ phương Tây và tính cách Nhật Bản" của M Morishima (Nxb KHXH, Hà Nội, 1991) Những tác phẩm này đã góp phần làm sáng tỏ các lĩnh vực văn hóa và giáo dục Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị.

Trong những năm gần đây, nhiều bài viết liên quan đến đề tài từ tác giả Hoàng Minh Hoa đã được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành.

Từ hiến pháp 1889 đến hiến pháp 1946, Nhật Bản đã trải qua nhiều biến động quan trọng trong lịch sử chính trị Giáo dục Minh Trị Duy Tân được coi là chìa khóa cho sự thành công trong công cuộc canh tân đất nước và công nghiệp hóa Nhật Bản, đóng góp đáng kể vào sự phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia này.

Vấn đề văn hóa và giáo dục trong cải cách Minh Trị đã được nghiên cứu sâu sắc trong nhiều luận án, trong đó có luận án của Đặng Xuân Kháng mang tên "Cải cách giáo dục và những tác động chủ yếu đối với sự phát triển kinh tế - xã hội Nhật Bản" Luận án này thuộc lĩnh vực sử học và được thực hiện tại trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn.

Nhà văn Hồ Hoàng Hoa trong khoá luận tốt nghiệp Đại học năm 1999 đã bắt đầu nghiên cứu những nét khái quát về quá trình phát triển và các đặc điểm chung của văn hoá Nhật Bản qua các thời kỳ xã hội, góp phần làm rõ hơn sự phong phú của nền văn hoá này.

Các công trình nghiên cứu đã khám phá các khía cạnh khác nhau của cải cách Minh Trị trong lĩnh vực văn hóa và giáo dục, đồng thời đề cập đến đời sống văn hóa, giáo dục Nhật Bản trong thời kỳ này Đây là nguồn tư liệu quý giá cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 4

Với đề tài "Tìm hiểu đời sống văn hoá, giáo dục Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị (1868-1912)" chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu từ 1868-

1912 Tuy nhiên để có một cái nhìn toàn diện, có hệ thống và logic thì cần tìm hiểu tình hình xã hội Nhật Bản cuối thời kỳ Tôcƣgaoa

Từ phạm vi trên, đề tài tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau:

- Khái quát tình hình xã hội Nhật Bản thời kỳ Tôcƣgaoa và sự khôi phục quyền lực của Thiên hoàng

- Tìm hiểu đời sống văn hoá của Nhật Bản dưới thời Minh Trị

- Giáo dục Nhật Bản thông qua công cuộc cải cách của MinhTrị

Do giới hạn về thời gian và nguồn tài liệu, chúng tôi chỉ mới thực hiện những nghiên cứu sơ bộ về đời sống văn hóa - giáo dục Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị Chúng tôi hy vọng sẽ có cơ hội tiếp tục nghiên cứu sâu hơn về lĩnh vực này trong tương lai.

4 Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu về đời sống văn hóa và giáo dục Nhật Bản trong thời kỳ Minh Trị chủ yếu dựa vào các tài liệu và sách mới xuất bản về Nhật Bản, cùng với một số bài viết từ các tạp chí chuyên ngành.

Cải cách Minh Trị Duy Tân diễn ra trong bối cảnh quốc tế và nội địa khác nhau, với yếu tố thời đại đóng vai trò quan trọng Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử để đánh giá các sự kiện một cách khách quan Đây là một đề tài khoa học xã hội, vì vậy chúng tôi áp dụng phương pháp tổng hợp, kết hợp với việc sưu tầm, chọn lọc và xử lý tư liệu thông qua phương pháp lôgíc và so sánh.

5 Bố cục của khoá luận

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của khoá luận gồm ba chương:

Chương 1: Nhật Bản thời kỳ Tôcưgaoa và sự khôi phục quyền lực của Thiên hoàng

Chương 2: Văn hoá Nhật Bản dưới thời kỳ Minh Trị

Chương 3: Giáo dục Nhật Bản dưới thời Minh Trị

Trong quá trình thực hiện khoá luận này, do những hạn chế về tài liệu, thời gian và năng lực cá nhân, chúng tôi nhận thức được rằng sẽ không tránh khỏi những thiếu sót Chúng tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo và góp ý từ thầy cô giáo cùng bạn bè đồng nghiệp để nghiên cứu của mình được hoàn thiện hơn.

Chương 1 NHẬT BẢN THỜI KỲ TÔCƢGAOA VÀ SỰ KHÔI PHỤC

QUYỀN LỰC CỦA THIÊN HOÀNG

1.1.Nhật Bản thời kỳ Tôcƣgaoa

Nhật Bản, một quốc gia nông nghiệp lúa nước, phải đối mặt với những điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên do bị chi phối bởi hệ sinh thái chuyên biệt Thiếu thốn những lợi thế của hệ sinh thái phổ tạp nhiệt đới, cư dân nông nghiệp Nhật Bản từ xa xưa đã nỗ lực không ngừng để bảo tồn và phát triển cuộc sống trong môi trường đầy thách thức này.

Nông nghiệp Nhật Bản khác biệt so với nhiều nước châu Á, chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp thung lũng với điều kiện tự nhiên khó khăn Nước này gặp khó khăn trong việc cung cấp nước và có diện tích đất gieo trồng hạn chế, thiếu những đồng bằng lớn và không thuận lợi cho việc khai thác vùng đất ven biển Nguyên nhân chính là Nhật Bản không sở hữu những dòng sông lớn với lưu lượng nước cao và phù sa phong phú, điều này khiến cho việc hình thành các đồng bằng châu thổ màu mỡ như ở Trung Quốc hay nhiều quốc gia Đông Nam Á khác trở nên khó khăn.

Trong thời kỳ Edo, nông nghiệp Nhật Bản đã chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ về diện tích canh tác, sản lượng và đa dạng sản phẩm Việc khai hoang đã mở rộng diện tích đất trồng trọt, biến nhiều vùng đất khô cằn và đầm lầy thành đất canh tác thông qua hệ thống tưới tiêu được cải thiện Nông dân đã áp dụng nhiều loại phân bón từ động và thực vật để nâng cao năng suất, cùng với việc cải tạo giống lúa và nhập khẩu giống mới, cho phép cấy hai vụ lúa ở nhiều nơi Kết quả là, diện tích canh tác tăng từ 860.000 ha vào đầu thế kỷ X lên 2.970.000 ha vào năm 1720.

Thời Tôcƣgaoa, Nhật Bản có khoảng 63.000 làng với quy mô khác nhau, thường từ 50-70 hộ và khoảng 400 khẩu, thu nhập bình quân đạt 400 koku Trong thời Edo, làng là đối tượng quản lý của các lãnh chúa, nhưng chính quyền không can thiệp sâu vào cơ chế tự quản của làng Hoạt động của làng chủ yếu do ba cấp chức dịch điều hành, được gọi là jikata hay Sanyaku Người đứng đầu làng là Nanushi ở miền Đông, shoya hoặc himoiri ở miền Tây, tiếp theo là các trưởng Kumi gashira, toshiyori, otona-bya kusho, và cuối cùng là hya kushodai, đại diện cho dân làng.

Trong thời kỳ Edo, làng là điểm nút quan trọng trong hệ thống quản chế của các lãnh chúa, nơi các chính sách được kiểm nghiệm tính hiệu quả Sự phát triển của kinh tế hàng hoá và các yếu tố xã hội mới đã làm thay đổi không gian kinh tế và cơ tầng xã hội nông thôn truyền thống Tiền tệ ngày càng thâm nhập vào nền kinh tế nông nghiệp, dẫn đến sự tan rã của nền nông nghiệp kiểu mẫu Nhật Bản Sự chuyển biến này đã gây chấn động đến thể chế chính trị Mạc phủ, vốn được xây dựng dựa trên nền tảng kinh tế nông nghiệp.

Chế độ thuế khóa dưới thời Tôcưgaoa rất phức tạp, với mỗi công quốc có chính sách thuế riêng và sự khác biệt giữa các vùng Nông dân phải chịu 5 loại thuế chính: denso (thuế đất) chiếm 25-30% thu nhập, Komono-naRi (thuế phụ thu) đánh vào khai thác tài nguyên, KatagaRi-mono (thuế đặc biệt) cho việc sửa chữa đường xá và chi phí đi lại của lãnh chúa, Kunixaku (thuế cho công quốc) phục vụ cho hệ thống thủy lợi và an ninh, và Bayaku (thuế phục vụ) chủ yếu liên quan đến lao động công ích Ngoài ra, nông dân còn phải đóng góp nhiều khoản chi phí khác bằng hiện vật hoặc tiền khi được yêu cầu Thời kỳ này, thuế từ nông dân chiếm tới 60-70% thu nhập của lãnh chúa, trong khi thuế từ thương nhân và thợ thủ công chỉ khoảng 5-6%.

Nông nghiệp Nhật Bản chủ yếu dựa vào cây lúa, do đó việc tạo nguồn nước tưới và giữ nước trong ruộng là rất cần thiết Thành tựu nổi bật trong giai đoạn này là việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống thủy lợi, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế nông nghiệp Tuy nhiên, để có đủ nước canh tác, các hộ nông dân không thể tự xây dựng hệ thống thủy lợi, đặc biệt khi đất canh tác nằm ở khu vực thung lũng với độ cao khác nhau.

Hệ thống thủy lợi ngày càng hoàn thiện đã giúp cải tạo nhiều diện tích đất khô cằn, đầm lầy và đất chua mặn ven biển thành đất canh tác Kỹ thuật "đao canh thủy nậu" đóng vai trò quan trọng trong quá trình này.

“Đao canh hoả chủng” đang được áp dụng rộng rãi, cùng với những tiến bộ trong cải tạo giống và gieo trồng các giống mới đã làm thay đổi chu kỳ sản xuất và rút ngắn thời vụ Tại nhiều khu vực, đặc biệt là vùng Tây - Nam với khí hậu ấm áp, nông dân đã có thể cấy hai vụ lúa trong năm Trong giai đoạn này, một số giống lúa nhập từ Đông Nam Á như lúa Champa, có khả năng chịu hạn và sâu bệnh, cũng được gieo trồng nhiều ở các khu vực như Kyuhu, Chogaku và Shikoku.

Sự phát triển của kinh tế nông nghiệp thương mại đã tạo ra một chu trình mới cho sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy nhanh chóng quá trình tạo ra sản phẩm hàng hóa Từ cuối thế kỷ XVII, nông thôn Nhật Bản chứng kiến sự chuyển mình lớn khi nhiều nông dân chuyển sang làm hàng thủ công và chế biến sản phẩm địa phương Mối liên hệ giữa các thành phần kinh tế trong mỗi làng và giữa các làng với nhau ngày càng mở rộng, tạo ra mạng lưới liên kết kinh tế trong nông thôn Điều này hình thành nên các vùng kinh tế và sự kết nối giữa kinh tế nông thôn với kinh tế thành thị, cũng như với mạng lưới kinh tế toàn quốc Qua đó, thủ công nghiệp và thương nghiệp dần tách ra khỏi kinh tế nông nghiệp, trở thành ngành kinh tế độc lập.

Từ cuối thế kỷ XVII, Nhật Bản đã chứng kiến sự hình thành của một cơ cấu kinh tế công thương nghiệp bên cạnh nền nông nghiệp truyền thống, với các thành phố trở thành trung tâm Sự chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp và nhu cầu tiêu dùng đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của sản xuất thủ công nghiệp, tạo ra nhiều trung tâm thủ công lớn trên toàn quốc Các công trường thủ công, như khu mỏ Besshi của gia tộc Sumimoto ở Shikoku, đã thu hút hàng trăm đến hàng nghìn lao động Đáng chú ý, phần lớn các cơ sở này do chủ tư nhân quản lý, chịu trách nhiệm sản xuất và đóng thuế cho chính quyền địa phương hoặc Mạc phủ Trong các công trường này, lao động phân tán theo hộ gia đình đóng vai trò quan trọng, bên cạnh sự xuất hiện của nhiều công trường thủ công tập trung, nơi quy trình sản xuất được chia thành các công đoạn khác nhau do các nhóm nhân công đảm nhiệm.

NHẬT BẢN THỜI KỲ TÔCƯGAOA VÀ SỰ KHÔI PHỤC QUYỀN LỰC CỦA THIÊN HOÀNG 6 1.1: Nhật Bản thời kỳ Tôcƣgaoa 6

VĂN HOÁ NHẬT BẢN DƯỚI THỜI KỲ MINH TRỊ 29

GIÁO DỤC NHẬT BẢN DƯỚI THỜI MINH TRỊ 42

Ngày đăng: 27/07/2021, 16:31

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w