1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Chính sách đối ngoại của trung quốc đối với asean từ những năm 90 của thế kỉ xx đến nay

62 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với ASEAN từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay
Tác giả Trần Thị Huệ
Người hướng dẫn PGS-TS Nguyễn Công Khanh
Trường học Trường Đại học
Chuyên ngành Lịch sử thế giới
Thể loại Khóa luận tốt nghiệp
Định dạng
Số trang 62
Dung lượng 507,69 KB

Cấu trúc

  • II.1.2 Tình hình khu vực châu á - Thái Bình D-ơng 18 (20)
  • II.2. Chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay 21 (23)
    • II.2.1. Chính sách chính trị ngoại giao 21 (23)
    • II.2.2. Chính sách kinh tế 33 (35)
    • II.2.3. Vấn đề an ninh khu vực 43 (43)
  • III.1. Đánh giá triển vọng trong chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN 49 (49)
  • III.2. Cơ hội và thách thức 51 (51)
    • III.2.1. Cơ hội phát triển 51 (51)
    • III.2.2. Thách thức lịch sử 54 (54)
  • C. KÕt luËn 59 (58)
  • D. Tài liệu tham khảo 61 (59)

Nội dung

Tình hình khu vực châu á - Thái Bình D-ơng 18

II.1.2.1 Tình hình châu á - Thái Bình D-ơng

Sau chiến tranh lạnh, châu á - Thái Bình D-ơng đ-ợc coi là nơi yên bình nhất, năng động nhất và ổn định nhất của thế giới hiện nay

Về kinh tế: Sự sôi động và thần kỳ của khu vực châu á - Thái Bình

Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương đang phát triển nhanh chóng với tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm đạt hơn 60%, trong khi Bắc Mỹ có mức tăng trưởng thấp hơn.

2,4% và Tây Âu 1,5% năm Theo dự báo của tổ chức kinh tế thế giới năm

Vào năm 1990, tổng sản phẩm của khu vực châu Á - Thái Bình Dương chiếm 25% tổng sản phẩm toàn cầu và tiếp tục phát triển mạnh mẽ Sự nổi lên của các "con rồng" châu Á như Nhật Bản, Hồng Kông và Đài Loan đã góp phần quan trọng vào sự tăng trưởng này.

Loan, Singapo… là biểu hiện cho sự phát triển thần kỳ của kinh tế châu á -

Kết thúc chiến tranh lạnh đã mở ra một môi trường hòa nhập, thúc đẩy sự phát triển và hợp tác tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong những năm gần đây đã nâng cao vai trò quốc tế của khu vực này Điều này đã ảnh hưởng sâu sắc đến chính sách của các quốc gia, đặc biệt là các cường quốc trong khu vực.

Trung Quốc đang nỗ lực tận dụng cơ hội để hòa nhập vào sự phát triển toàn cầu, điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại nhằm phát triển kinh tế trong nước Đồng thời, nước này cũng tích cực tham gia vào việc định hình các nguyên tắc hoạt động để khẳng định vị thế của mình, mở rộng thị trường nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài và tiếp nhận những thành tựu khoa học tiên tiến, góp phần vào sự phát triển kinh tế thế giới.

Sự ổn định chính trị và an ninh khu vực là yếu tố then chốt, đóng vai trò nền tảng cho sự phát triển kinh tế bền vững của khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Bình Dương đang chứng kiến sự cạnh tranh quyền lực âm thầm giữa các nước lớn, đặc biệt là giữa Nhật Bản và các quốc gia khác Sự tranh giành bá quyền này không chỉ ảnh hưởng đến chính trị khu vực mà còn tác động đến kinh tế và an ninh toàn cầu.

Trung Quốc đang tiến hành một quá trình tập hợp lực lượng một cách kín đáo, đặc biệt trước những hành động táo bạo của Nhật Bản tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương Sau chiến tranh lạnh và sự sụp đổ của Liên Xô, quan hệ hợp tác giữa Mỹ và Trung Quốc đã không còn cần thiết, trong khi mối quan hệ Trung - Nga đang cải thiện, cho phép Trung Quốc chuyển hướng chú ý Hiện tại, sự rút lui của Mỹ và Nga đã tạo ra "khoảng trống quyền lực" và tình trạng mất cân bằng sức mạnh trong khu vực Những yếu tố này mở ra cơ hội cho Trung Quốc điều chỉnh chính sách, với hy vọng khẳng định vai trò và tạo ảnh hưởng lớn tại châu Á - Thái Bình Dương.

II.1.2.2 Tình hình Đông Nam á

Sau chiến tranh lạnh, Đông Nam Á đã trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhờ vào sự mở rộng liên kết và quan hệ đối ngoại Sự phát triển kinh tế công nghiệp đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự tăng trưởng nhanh chóng, với Thái Lan, Myanmar và Indonesia là ba quốc gia dẫn đầu trong bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới về các nước công nghiệp hóa trỗi dậy Bên cạnh đó, Việt Nam và Lào cũng đã thực hiện các chính sách mở cửa và đổi mới, giúp kinh tế của hai nước này liên tục tăng trưởng với tốc độ cao.

Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Đông Nam Á đã thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế và chính trị trong khu vực Việc mở rộng ASEAN từ 6 thành viên lên 10 thành viên đã gia tăng sức mạnh cho Đông Nam Á, đặc biệt trong các lĩnh vực chính trị và kinh tế tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Đông Nam Á hiện nay được xem là thị trường đầu tư hấp dẫn nhờ vào sự ổn định và tiềm năng phát triển Sự gia tăng nguồn đầu tư từ nước ngoài đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế và giao lưu khoa học kỹ thuật trong khu vực Uy tín và ảnh hưởng quốc tế của Đông Nam Á ngày càng được nâng cao, điều này đã tác động đáng kể đến chính sách của Trung Quốc sau chiến tranh lạnh Trung Quốc, với vai trò là một cường quốc, đang tập trung vào hợp tác với các nước Đông Nam Á.

Về an ninh - chính trị: Sau chiến tranh lạnh, tình trạng căng thẳng trong khu vực từng b-ớc đ-ợc giải quyết Những ý t-ởng xây dựng Đông

Nam Á đã trở thành một khu vực tự do, hòa bình và trung lập (ZOPFAN) nhằm đảm bảo an ninh khu vực Để khẳng định vị thế chủ đạo trong an ninh sau chiến tranh, các nước ASEAN đã thành lập một cơ chế an ninh mới nhằm đối phó với sự đe dọa từ các nước lớn như Mỹ, Nga, Nhật Bản và Australia Bắt đầu từ năm 1990, sau bốn năm chuẩn bị, vào ngày 25/7/1994, ASEAN đã chính thức thành lập “Diễn đàn khu vực ASEAN” (ARF) Thông qua ARF, ASEAN đã nắm bắt được thế chủ động trong việc điều hòa an ninh khu vực, từ đó nâng cao vị thế quốc tế và trở thành một trọng tâm trong quan hệ ngoại giao của các nước.

Chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay 21

Chính sách chính trị ngoại giao 21

II.2.1.1 Chính sách chính trị “ ngoại giao của Trung Quốc với các n-ớc

ASEAN từ những năm 1990-1995 (tr-ớc khi Việt Nam gia nhập ASEAN)

Vào đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, mối quan hệ quốc tế đã trải qua nhiều biến đổi lớn khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc, đánh dấu bởi sự sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu Sự kiện này đã tạo ra tác động sâu rộng đến tình hình thế giới, khi các mối quan hệ căng thẳng giữa các quốc gia dần được thay thế bởi những quan hệ thân thiện hơn, và xu hướng hòa bình trong hợp tác trở thành chủ đạo Trong bối cảnh đó, chính sách của Trung Quốc đối với các nước ASEAN cũng đã có sự thay đổi căn bản, với việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước Trung Quốc, nhằm thích ứng với sự điều chỉnh chính sách của các nước lớn trong và ngoài khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Bình D-ơng mà rõ nhất là đối với các n-ớc ASEAN

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Trung Quốc đã xác định việc cải thiện và phát triển quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là ASEAN, là một chiến lược quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình.

Trung Quốc đang tích cực cử các đoàn đại biểu đến thăm các nước ASEAN để tăng cường mối quan hệ trong nhiều lĩnh vực như chính trị, ngoại giao, an ninh, kinh tế và văn hóa Mục tiêu là vượt qua những rào cản chính trị, nhằm thúc đẩy sự gắn kết giữa hai bên, phù hợp với lợi ích chung và xu thế phát triển toàn cầu hiện nay.

Vào đầu những năm 90, Trung Quốc đã bắt đầu tiến hành các cuộc đàm phán nhằm bình thường hóa quan hệ với ASEAN, đánh dấu đỉnh điểm của hiệp ước thân thiện giữa Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và các quốc gia ASEAN.

Trung Quốc khôi phục quan hệ ngoại giao với Inđônêxia tháng 8/1990, với

Singapo vào tháng 10/1990 và thiết lập quan hệ Trung Quốc – Brunây vào tháng 2/1991 Đặc biệt cùng với việc tiến hành giải quyết hoà bình vấn đề

Chuyến thăm Trung Quốc của đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, do Tổng bí thư Đỗ Mười và Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt dẫn đầu từ ngày 5 đến 10/11/1991, đã đánh dấu sự bình thường hóa chính thức quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc, cũng như giữa hai Đảng Cộng sản, sau 12 năm căng thẳng.

Từ năm 1990-1991, Trung Quốc đã thiết lập quan hệ ngoại giao với tất cả các nước ASEAN, củng cố và phát triển mối quan hệ chính trị mạnh mẽ Các cuộc thăm viếng và tiếp xúc giữa các nhà lãnh đạo hai bên đã giúp loại bỏ nghi ngờ, nâng cao sự hiểu biết và tăng cường tin cậy Điều này đã củng cố tình hữu nghị và khuyến khích hợp tác song phương trong nhiều lĩnh vực Đặc trưng của mối quan hệ Trung Quốc – ASEAN trong thời kỳ này là "hội đàm và tăng cường hợp tác".

Năm 1991, Trung Quốc bắt đầu đối thoại với ASEAN về những công việc của khu vực, hợp tác giải quyết những vấn đề biển Đông

Năm 1992, ASEAN đã công nhận Trung Quốc là một đối tác tham khảo ý kiến, tạo nền tảng vững chắc cho việc thúc đẩy mối quan hệ hòa bình và hợp tác giữa hai bên.

Năm 1993, Trung Quốc tuyên bố là "Năm ASEAN của Trung Quốc", đánh dấu sự kiện quan trọng trong việc thúc đẩy quan hệ giữa Trung Quốc và các nước ASEAN Trong năm này, Trung Quốc đã mời hầu hết các nguyên thủ quốc gia của các nước ASEAN sang thăm, thể hiện cam kết tăng cường hợp tác và giao lưu đa phương giữa hai bên.

Quốc và cử Chủ tịch Quốc hội Kiều Thạch, Bộ tr-ởng Bộ Quốc phòng, Bộ tr-ởng Bộ Ngoại giao sang thăm các n-ớc ASEAN Từ 20/7/1993, ông Kiều

Thạch, đi thăm chính thức hữu nghị các n-ớc Inđônêxia, Malaixia, Singapo,

Chuyến thăm Thái Lan và Philippines của lãnh đạo cao cấp Quốc hội Trung Quốc đánh dấu lần đầu tiên một quan chức cấp cao của Trung Quốc đến các nước ASEAN Đây cũng là chuyến đi nước ngoài đầu tiên của ông Kiều Thạch kể từ khi ông nhậm chức Chủ tịch Quốc hội vào tháng 3 năm 1993 Trước đó, vào ngày 2 tháng 1 năm 1993, ông Tiền Kự Tham, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc, đã có chuyến thăm Singapore để tham dự hội nghị hàng năm của Bộ trưởng Ngoại giao các nước Đông Nam Á.

Tại hội nghị về Tr-ờng Sa ở Manila ngày 31/5/1993, 9 n-ớc Trung

Quốc, Việt Nam, Brunây, Malaixia, Đài Loan, Philippin, Thái Lan,

Indonesia và Singapore tham gia, điều này thúc đẩy quan hệ hợp tác và phát triển giữa Trung Quốc và ASEAN Các nước Đông Nam Á, là bạn hàng truyền thống của Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong chính sách đa dạng hóa thị trường thương mại của Trung Quốc.

Từ đầu năm 1993, quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đã có sự tăng trưởng đáng kể, với khối lượng buôn bán trong bốn tháng đầu năm đạt giá trị cao.

Năm nay, giá trị thương mại đạt 2,35 tỷ USD, tăng trưởng so với cùng kỳ năm trước Dự đoán rằng doanh thu năm nay sẽ vượt qua mức 8,5 tỷ USD của năm 1992.

[7-Tr2] Đến giữa năm 1993, Chính phủ Trung Quốc đã viện trợ cho phía quân sự ở Mianma nhiều xe tăng, máy bay, pháo… trị giá lên tới 1,4 tỷ

USD Đổi lại Mianma đã nh-ợng bộ nhiều điều khoản cho phía Trung

Quốc gia này đã cho Trung Quốc quyền tiếp cận một phương tiện do thám được thiết lập trên đảo Co-Co ở Vịnh Bengal, đồng thời Trung Quốc cũng cung cấp hỗ trợ cho các hoạt động tại khu vực này.

Trung Quốc đang tích cực xây dựng các tuyến đường bộ qua Mianma để tiếp cận Ấn Độ Dương Hiện tại, Trung Quốc đã sử dụng nhiều phương thức khác nhau để lôi kéo Mianma vào ảnh hưởng của mình.

Tháng 9/1993, Tổng th- ký ASEAN, Rusli Noor đã đến thăm Trung

Ông Quốc đã thảo luận về hợp tác kinh tế và kỹ thuật với Thứ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Đặng Gia Triều, được xem là một "chuyến thăm lịch sử" bởi dư luận thế giới Cũng trong năm 1993, Thủ tướng Singapore, Tổng thống Philippines và Thủ tướng Thái Lan đã lần lượt thăm Trung Quốc để thúc đẩy quan hệ kinh tế toàn diện giữa hai bên.

Năm 1994, Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã sang thăm các n-ớc Inđônêxia, Mailayxia, Singapo và Việt Nam Cũng trong năm này

Chính sách kinh tế 33

Chính sách của Trung Quốc đối với ASEAN ngày càng bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố, trong đó yếu tố kinh tế trở thành nhân tố quan trọng hàng đầu Sự bình thường hóa quan hệ giữa Trung Quốc và các nước trong khu vực đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế và chính trị.

ASEAN đã đóng vai trò quan trọng trong việc kết thúc chiến tranh lạnh, giúp giảm xung đột chính trị và căng thẳng giữa các quốc gia trong khu vực Sự hợp tác giữa ASEAN và Trung Quốc đã tạo điều kiện thuận lợi cho hòa bình và ổn định, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế.

ASEAN đang tăng cường sự hợp tác để đánh giá và giải quyết các vấn đề trong khu vực Điều này đã dẫn đến sự phát triển không ngừng trong lĩnh vực kinh tế, thương mại và đầu tư giữa các quốc gia thành viên.

Hợp tác phát triển với ASEAN là nhu cầu thiết thực của Trung Quốc, hiện đang triển khai hai chiến lược phát triển kinh tế liên quan trực tiếp đến mối quan hệ hợp tác này.

Một là, chiến l-ợc ph²t triển khu vức “Đ³i Tây Nam”

Hai l¯, chiến lược ph²t triển “V¯nh đai kinh tế vịnh Bắc Bộ”

Năm 1994, Trung Quốc và ASEAN thành lập ủy ban hỗn hợp kinh tế buôn bán và khoa học kỹ thuật

Năm 1995, c° hai bên đ± kỹ “Điều lệ ủy ban liên hợp kinh tế Trung

II.2.2.1 Phát triển quan hệ buôn bán, th-ơng mại

Sau chiến tranh lạnh, Trung Quốc và các nước ASEAN đều tìm kiếm đối tác kinh tế nhằm tăng cường xuất khẩu, tạo việc làm cho người lao động, và xuất khẩu lao động để gia tăng nguồn thu nhập ngoại tệ, đồng thời giảm áp lực lao động trong quá trình công nghiệp hóa.

Cơ cấu buôn bán giữa Trung Quốc và ASEAN có nhiều điểm tương đồng, với ít sự khác biệt Các nền kinh tế ASEAN chủ yếu dựa vào nguồn tài nguyên sẵn có và xuất khẩu hàng hóa thô truyền thống Các quốc gia như Malaysia, Philippines và Thái Lan chủ yếu xuất khẩu cao su và đường sang Trung Quốc Gần đây, các nền kinh tế ASEAN đang chuyển hướng công nghiệp hóa, tăng cường xuất nhập khẩu cả truyền thống lẫn phi truyền thống nhằm mở rộng thị trường.

Dầu thô của Indonesia chiếm 86% tổng xuất khẩu của nước này sang Trung Quốc Xuất khẩu dầu lọc của Singapore cũng chiếm 56% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc Ngoài ra, xuất khẩu sợi tơ nhân tạo, cao su và đường của Thái Lan sang Trung Quốc đạt tới 67% tổng xuất khẩu của quốc gia này.

Trung Quốc đã lâu xuất khẩu chủ yếu sản phẩm chế tạo sang ASEAN, tuy nhiên, một số mặt hàng xuất khẩu sơ cấp vẫn chiếm tỷ lệ đáng kể trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang khu vực này.

Năm 1990, sau khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao, kim ngạch thương mại giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 4,376 tỷ USD Đến năm 1993, con số này tăng lên 8,452 tỷ USD, và tiếp tục đạt 10,62 tỷ USD trong cùng năm Năm 1994, kim ngạch thương mại đạt 13,2 tỷ USD, và năm 1995, con số này lên tới 19,6 tỷ USD.

Các nước ASEAN, những đối tác thương mại truyền thống của Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong chính sách đa dạng hóa thị trường thương mại của Trung Quốc Kể từ đầu năm 1993, quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và các nước ASEAN đã phát triển mạnh mẽ.

Sự tăng trưởng mạnh mẽ của quan hệ Trung Quốc – ASEAN đang được thúc đẩy bởi hợp tác kinh tế và thương mại ngày càng chặt chẽ Mối quan hệ này dựa trên nền tảng lợi ích chung, tạo ra sự đảm bảo vững chắc cho tình hữu nghị lâu dài Do đó, sự hợp tác giữa Trung Quốc và các nước ASEAN ngày càng phát triển mạnh mẽ.

Năm 1994, Trung Quốc và ASEAN đã thành lập Uỷ ban hỗn hợp kinh tế, buôn bán và khoa học kỹ thuật Đến năm 1995, hai bên ký kết điều lệ ủy ban liên hợp kinh tế Trung Quốc - ASEAN, làm kim chỉ nam cho quá trình hợp tác giữa hai bên trong lĩnh vực khoa học và kinh tế.

Quốc còn ký với các n-ớc ASEAN nhiều hiệp định hợp tác khoa học, kỹ thuật và hiệp định th-ơng mại song ph-ơng

Trong số các n-ớc Đông Nam á có mối quan hệ buôn bán với Trung

Quốc, Singapo đang đứng vị trí dẫn đầu, sau đó là Malayxia, Thái Lan,

Inđônêxia… chỉ tính riêng năm 1996 Singapo đã đầu t- vào Trung Quốc là

Trong những năm 90 của thế kỷ XX, kim ngạch buôn bán giữa Trung Quốc và ASEAN tăng trưởng hàng năm đạt 20% Tuy nhiên, tổng kim ngạch buôn bán giữa Trung Quốc và ASEAN vẫn chỉ chiếm một tỷ lệ khiêm tốn so với tổng mức buôn bán của Trung Quốc với các quốc gia khác trên toàn cầu.

Vào cuối thập kỷ 90, trong khi quan hệ kinh tế – thương mại giữa ASEAN với các nước lớn như Mỹ, Nhật Bản và EU giảm mạnh, thì mối quan hệ thương mại giữa ASEAN và Trung Quốc lại tăng trưởng ổn định Cụ thể, kim ngạch mậu dịch giữa Trung Quốc và ASEAN đã tăng từ 3,35 tỷ USD năm 1986 lên 45,56 tỷ USD vào năm 1998, cho thấy sự phát triển mạnh mẽ trong mối quan hệ thương mại song phương trong giai đoạn 1993.

1998 giữa ASEAN với Mỹ tăng 54%, với EU tăng 28%, trong khi đó với

B-ớc sang năm 2000 Trung Quốc bắt đầu trở lại quan tâm phát triển mối quan hệ kinh tế với Campuchia Trung Quốc là một trong những n-ớc đầu t- hàng đầu vào Campuchia trong những năm qua Tháng 7/2000,

Trung Quốc cho Campuchia vay 11 triệu USD Trao đổi th-ơng mại năm

Vấn đề an ninh khu vực 43

Trung Quốc và các nước ASEAN hiện nay đều mong muốn xây dựng một môi trường hòa bình và ổn định trong khu vực nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế và hiện đại hóa quốc gia Tuy nhiên, bối cảnh mới cũng phát sinh nhiều mâu thuẫn và xung đột, gây ảnh hưởng tiêu cực đến tiến trình hợp tác và phát triển khu vực Vấn đề Biển Đông được xem là một trong những điểm nóng tiềm ẩn nhất, chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột có thể làm mất ổn định khu vực Đông Nam Á và châu Á - Thái Bình Dương.

Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, Trung Quốc tập trung vào việc duy trì môi trường hòa bình và ổn định để phát triển kinh tế và thiết lập quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng Do đó, Trung Quốc, giống như các nước ASEAN, mong muốn nhanh chóng giải quyết vấn đề Biển Đông.

II.2.3.1 Tầm quan trọng của biển Đông

Biển Đông – Phía Trung Quốc gọi là biển Nam Hải, ng-ời ph-ơng

Biển Nam Trung Hoa, hay còn gọi là Biển Đông, là khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là trữ lượng dầu mỏ đáng kể.

Trung Quốc sở hữu 4 tỷ mét khối khí đốt và nhiều khoáng sản quý hiếm dưới đáy biển Vùng biển Đông còn được thiên nhiên ban tặng một lượng lớn sinh vật sống đa dạng.

Biển Đông đóng vai trò chiến lược quan trọng trong giao thông vận tải biển, là tuyến đường huyết mạch cho vận tải quốc tế từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.

Bình D-ơng, 1/4 giá trị th-ơng mại đ-ờng biển thế giới hàng năm đi qua khu vực này

Biển Đông có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị và quân sự tại khu vực Đông Nam Á Quần đảo Trường Sa đóng vai trò kiểm soát các tuyến đường biển Đông, phục vụ cho mục đích quân sự như thiết lập các trạm radar, trạm thông tin, và các điểm dừng chân tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền Khu vực này còn kiểm soát lối ra vào lục địa của quân đội Mỹ và Nhật Bản, cũng như là tuyến đường cho tàu chiến di chuyển từ Ấn Độ Dương sang Biển Đông.

Cả Trung Quốc và các nước ASEAN đều nhận thức rõ tầm quan trọng của Biển Đông đối với từng quốc gia Do đó, tranh chấp tại Biển Đông giữa các quốc gia là một vấn đề không thể tránh khỏi và khó có thể giải quyết một cách nhanh chóng.

II.2.3.2 Tranh chấp ở biển Đông

Biển Đông là vấn đề còn tồn tại và gây căng thẳng giữa một số n-ớc

ASEAN và Trung Quốc đang đối mặt với những tranh chấp gay gắt tại Biển Đông, đặc biệt là khu vực Trường Sa, nơi có nhiều vấn đề về chủ quyền và lợi ích biển Vấn đề Biển Đông rất phức tạp, bao gồm các yếu tố lịch sử, lợi ích chiến lược và cuộc đua khai thác tài nguyên từ thềm lục địa.

Sau sự kiện Thiên An Môn năm 1989, Trung Quốc đã phải điều chỉnh chiến lược đối với Biển Đông, tiếp tục củng cố cơ sở hạ tầng trên các đảo mà họ chiếm giữ, nhưng không công khai thể hiện thái độ đối đầu Đồng thời, Trung Quốc cũng nỗ lực ngăn chặn các nước ASEAN trong việc quốc tế hóa vấn đề Trường Sa.

Vào tháng 8 năm 1990, Trung Quốc đã đề xuất với các quốc gia đang tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Trường Sa rằng nên tạm gác lại vấn đề chủ quyền để cùng nhau thảo luận về việc phát triển các nguồn lợi biển.

Vào tháng 7 năm 1991, trong Hội thảo lần thứ hai về Biển Đông, Trung Quốc đồng ý tham gia với điều kiện không thảo luận về vấn đề chủ quyền Tại đây, Trung Quốc bày tỏ ý định tìm kiếm các vấn đề hợp tác quốc tế để giải quyết tranh chấp Đến đầu năm 1992, Quốc hội Trung Quốc đã thông qua luật về lãnh thổ, khẳng định chủ quyền của họ đối với quần đảo Trường Sa cùng các vùng lãnh hải lân cận.

Năm 1993, Trung Quốc đã đề xuất tạm ngừng các xung đột để cùng tham gia thăm dò vấn đề Biển Đông, nhằm đạt được sự hiểu biết tốt hơn với các nước ASEAN liên quan.

Tháng 4 năm 1994, Trung Quốc ký hợp đồng thăm dò dầu khí với

Công ty Crestone của Mỹ đã được phép tiến hành khoan thăm dò tại một địa điểm trong khu vực đặc khu kinh tế của Việt Nam, dẫn đến căng thẳng trong mối quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam.

Trong khi có nhửng h¯nh động “Cững rắn” như vậy với Việt Nam,

Trung Quốc thể hiện sự "hữu hảo" đối với Malaysia và Philippines bằng cách im lặng khi Quốc vương Alamshah của Malaysia tới thăm đảo Trumbulayang vào tháng 5 năm 1992, đồng thời âm thầm đàm phán với Philippines về việc thả những người dân Trung Quốc bị hải quân Philippines bắt giữ tại quần đảo.

Trường Sa - Những hành động của Trung Quốc nhằm ngăn chặn khả năng quốc tế hóa vấn đề Trường Sa, đồng thời cản trở việc hình thành một mặt trận thống nhất chống lại sự bành trướng của Trung Quốc.

Cuối năm 1995, cuộc đọ súng đầu tiên giữa các bên đã diễn ra sau khi Trung Quốc chiếm v¯ xây dứng “nơi trũ ngú cho cư dân” trên đ°o

Cơ hội và thách thức 51

Ngày đăng: 27/07/2021, 15:54

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w