1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Nghiên cứu một số đặc điểm bệnh viêm phổi trên bê tại vùng phụ cận hà nội và biện pháp điều trị

86 11 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Một Số Đặc Điểm Bệnh Viêm Phổi Trên Bê Tại Vùng Phụ Cận Hà Nội Và Biện Pháp Điều Trị
Tác giả Vũ Việt Hùng
Người hướng dẫn PGS. TS. Phạm Ngọc Thạch
Trường học Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội
Chuyên ngành Thú Y
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ Nông Nghiệp
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 86
Dung lượng 3,24 MB

Cấu trúc

  • 1.1. ĐẶ T V Ấ N ĐỀ (9)
  • 1.2. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỂ TÀI (10)
  • 1.3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI (10)
  • PHẦN II.............................................................................................................3 (9)
    • 2.1. KHÁI QUÁT CHỨC NĂNG HÔ HẤP (11)
    • 2.2. VÀI NÉT VỀ GIẢI PHẪU ĐẠI THỂ, VI THỂ CỦA PHỔI BÊ (16)
    • 2.3. CÁC VI KHUẨN THƯỜNG GẶP Ở PHỔI GIA SÚC (19)
    • 2.4. MỘT SỐ TƯ LIỆU VỀ BỆNH VIÊM PHỔI Ở GIA SÚC (22)
  • PHẦN III.......................................................................................................... 33 (11)
    • 3.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU (41)
    • 3.2 ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU (41)
    • 3.3 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU (0)
  • PHẦN IV (41)
    • 4.1. CÁC BIỂU HIỆN LÂM SÀNG Ở BÊ MẮC BỆNH VIÊM PHỔI (0)
    • 4.2. Thân nhiệt, tần số tim đập và tần số hô hấp ở bê viêm phổi (48)
    • 4.3. MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ MÁU (50)
    • 4.4. MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH HÓA MÁU (61)
    • 4.5. TỔN THƯƠNG BỆNH LÝ BỆNH VIÊM PHỔI Ở BÊ (72)
    • 4.6. THỬ NGHIỆM CÁC PHÁC ĐỒ ĐIỀU TRỊ BỆNH VIÊM PHỔI BÊ (78)
  • PHẦN V........................................................................................................... 72 (80)
    • 5.1. KẾT LUẬN (80)
    • 5.2. ĐỀ NGHỊ (81)
  • Tài liệu tham khảo (83)

Nội dung

ĐẶ T V Ấ N ĐỀ

Ngành chăn nuôi bò, đặc biệt là bò sữa, đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng lẫn chất lượng nhờ vào sự quan tâm và đầu tư đúng đắn Các trang trại và nông hộ chăn nuôi bò chủ yếu tập trung ở vùng lân cận các thành phố lớn và một số nông trường chăn nuôi tập trung Để nâng cao số lượng đàn bò, bên cạnh việc chọn giống và cung cấp thức ăn phù hợp, các biện pháp thú y nhằm bảo vệ sức khỏe và phòng chống bệnh tật cũng đóng vai trò rất quan trọng.

Sự gia tăng nhanh chóng về số lượng đàn bò đã dẫn đến nhiều dịch bệnh, trong đó bệnh viêm phổi là một trong những bệnh phổ biến gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi bò Bệnh thường xảy ra trong thời kỳ giá rét, đặc biệt ảnh hưởng đến bê từ 1 đến 4 tháng tuổi, với tỷ lệ chết cao khi bê mắc bệnh Điều này gây ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi bò.

Trong những năm gần đây, nghiên cứu về biện pháp phòng chống dịch bệnh trên đàn bò đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học thú y trong và ngoài nước Nguyễn Thị Đào Nguyên (1993) đã tiến hành nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lý huyết học lâm sàng ở trâu khỏe mạnh và trong một số bệnh thường gặp Lê Thị Thịnh (1998) tập trung vào nghiên cứu bệnh viêm vú ở bò sữa, góp phần quan trọng vào việc hiểu rõ hơn về sức khỏe của đàn bò.

Nghiên cứu về các chỉ tiêu sinh lý và sinh hóa máu trâu khi sử dụng chế phẩm EM để phòng ngừa tiêu chảy đã được thực hiện bởi nhóm nghiên cứu năm 2001 Vào năm 2003, Đỗ Văn Được đã tiến hành nghiên cứu về bệnh viêm phổi trên trâu Đỗ Tuấn Cương và cộng sự vào năm 2004 đã tập trung vào bệnh não xốp ở bò, trong khi cùng năm, Nguyễn Tiến Dũng và nhóm nghiên cứu đã khảo sát tình hình nhiễm virus trong đàn trâu bò tại Việt Nam Cuối cùng, Đỗ Đức Việt đã thực hiện nghiên cứu về sinh lý và sinh hóa máu của bò sữa HF nhập nội vào năm 2006.

Các nghiên cứu hiện tại chủ yếu tập trung vào bệnh lý lâm sàng ở trâu bò, trong khi việc tìm hiểu sâu về các đặc điểm bệnh lý của bê, đặc biệt là viêm phổi ở bê, vẫn còn hạn chế tại Việt Nam.

Mục tiêu của nghiên cứu này là làm rõ đặc điểm bệnh lý viêm phổi ở bê nhằm xây dựng các biện pháp phòng ngừa và điều trị hiệu quả Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tại vùng phụ cận Hà Nội để xác định những đặc điểm bệnh lý cụ thể và đề xuất biện pháp điều trị thích hợp.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỂ TÀI

- Xác định rõ biểu hiện lâm sàng của bê mắc bệnh

- Xác định rõ đặc điểm bệnh lý, sự biến đổi một số chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa máu của bê bệnh

- Xác định mức độ tổn thương ở phổi bê mắc bệnh (cả vi thể và đại thể)

- Điều trị thử nghiệm, từ đó lựa chọn phác đồ điều trị có hiệu quả.

KHÁI QUÁT CHỨC NĂNG HÔ HẤP

Hô hấp là quá trình trao đổi khí giữa sinh vật và môi trường, cung cấp O2 cho cơ thể và loại bỏ CO2 Bộ máy hô hấp của gia súc bao gồm đường dẫn khí và phổi, trong đó niêm mạc đường ống dẫn khí, đặc biệt là niêm mạc mũi và xoang mũi, có hệ thống mạch quản dày đặc giúp sưởi ấm không khí trước khi đưa vào phế nang.

Hệ thống lông rung, tuyến nhờn tiết chất nhầy và hệ thống lâm ba là những thành phần quan trọng của đường hô hấp, giúp bảo vệ trước các yếu tố gây hại như vi sinh vật và bụi Sự kết hợp giữa nhu động của lông rung và niêm dịch tạo ra sóng cuộn, đưa chất bẩn lên họng và kích thích phản xạ khạc nhổ để tống ra ngoài Tuy nhiên, lông rung ở ống khí quản có thể bị vi rút cúm làm giảm tính nhu động, tạo điều kiện cho sự bội nhiễm bởi các vi khuẩn khác như phế cầu khuẩn và Hemophilus influenza.

Niêm mạc phổi, mặc dù chỉ có một lớp tế bào, nhưng lại có khả năng cản trở tốt hơn so với da nhờ tính đàn hồi cao và lớp chất nhầy bao phủ Chất nhầy này được tiết ra từ các tuyến dưới niêm mạc, có tác dụng làm ẩm không khí và tạo ra một lớp màng bảo vệ, ngăn chặn vi khuẩn và các vật lạ xâm nhập vào tế bào Đồng thời, chất nhầy cũng bảo vệ bề mặt tế bào khỏi tác động của enzym neuraminidase từ vi rút.

Hệ thống đường hô hấp không chỉ hoạt động bằng cơ chế cơ học như chất nhầy và sự rung động của lông rung, mà còn có cấu trúc lymphô và tế bào tiết enzym, kháng thể để bảo vệ khỏi vi sinh vật và chất lạ Dọc theo đường hô hấp, có nhiều cấu trúc lymphô như hạch lymphô, hòn và đám lymphô, cùng với mô lymphô gần sát biểu mô phế quản Tại đây, tồn tại nhiều loại tế bào miễn dịch như bạch cầu trung tính, lymphô T, lymphô B, tương bào và đại thực bào, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ cơ thể.

Dịch tiết từ các tuyến nhờn chứa nhiều lysozym giúp phá vỡ vỏ vi khuẩn, trong khi chất BPI (Bacteria permeability increasing protein) liên kết với vách lipopolysaccharid của vi khuẩn, làm thủng màng và phong tỏa enzym của chúng Protein C phản ứng (C-reactive protein) liên kết với phosphoryl cholin trong carbohydrate C của phế cầu, tăng cao trong tình trạng viêm cấp Những vật thể lạ hoặc vi khuẩn xâm nhập qua hàng rào bảo vệ niêm mạc sẽ bị tiêu diệt bởi đại thực bào Đối với các hạt nhỏ dưới 3µm, chúng có thể theo không khí vào phế nang và sẽ bị đại thực bào phổi tiêu diệt.

Chất bổ thể trong huyết thanh đóng vai trò quan trọng trong việc tăng cường khả năng chống nhiễm trùng của hệ hô hấp và tham gia vào quá trình miễn dịch thể đặc hiệu thông qua các kháng thể Ig A, Ig M, Ig G Các tế bào vách phế quản sản xuất các kháng thể này, giúp bảo vệ bề mặt đường hô hấp.

Cơ quan hô hấp của động vật có vú bao gồm đường dẫn khí và phổi Đường dẫn khí bắt đầu từ mũi, đi qua họng, hầu, khí quản, và các phế quản, phân nhánh nhỏ dần cho đến tiểu phế quản và phế quản tận Các nhánh phế quản tiếp tục chia thành ống phế bào, nơi kết nối với phế nang Nhiều phế nang tạo thành lá phổi, với mao mạch dày đặc bao quanh, tạo ra bề mặt rộng cho sự trao đổi khí giữa máu và không khí Phổi có cấu trúc gồm nhiều sợi đàn hồi, giúp nó có tính đàn hồi và co dãn.

Sức co đàn hồi của phổi đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra áp lực âm trong xoang màng ngực Nếu phổi không có tính đàn hồi, áp lực không khí tác động lên xoang màng ngực sẽ bằng 760 mmHg Tuy nhiên, khi phổi được kéo căng, lực phản lực ngược chiều xuất hiện, làm giảm bớt áp lực phổi tác động lên xoang màng ngực.

Phổi không có cơ nên không thể tự co dãn, mà phải nhờ vào các cơ hô hấp như cơ hoành và cơ gian sườn Những cơ này là động lực chính cho quá trình hô hấp, giúp lồng ngực mở rộng hoặc thu hẹp, từ đó tạo ra sự biến đổi áp lực trong xoang màng ngực và kích thích hoạt động của phổi Khi lồng ngực mở rộng, phổi nở ra, làm giảm áp lực trong phổi và cho phép không khí đi vào, gây ra hít vào; ngược lại, khi lồng ngực thu hẹp, phổi xẹp xuống, đẩy không khí ra ngoài, dẫn đến thở ra.

Hít vào là quá trình mở rộng dung tích của khoang ngực theo chiều dài và chiều ngang, nhờ vào sự co giãn của cơ hoành và cơ gian sườn ngoài.

Cơ hoành thường tạo thành một góc lồi hướng về phía trước Khi cơ hoành co lại trong quá trình hít vào, đỉnh trung tâm của nó không thay đổi, nhưng phần cơ xung quanh co lại, khiến cơ hoành chuyển từ góc lồi thành góc nhọn Điều này dẫn đến việc lồng ngực được mở rộng từ trước ra sau và ép vào các cơ quan nội tạng trong bụng Tác dụng chính của cơ hoành là giúp lồng ngực mở rộng theo hướng trước sau.

Cơ gian sườn ngoài có một đầu bám vào cạnh sau của xương sườn trước và đầu còn lại bám vào cạnh trước của xương sườn sau Khi cơ này co lại, nó tạo ra hai lực ngược chiều; lực tác dụng của xương sườn trước không có hiệu lực, trong khi lực tác động vào đầu xương sườn sau di động kéo xương sườn đó lên, dẫn đến sự mở rộng của lồng ngực theo hai chiều ngang và dọc.

Cơ hoành và cơ gian sườn ngoài giúp mở rộng lồng ngực theo ba chiều không gian, làm cho hai lá phổi nở ra Khi áp lực trong phổi giảm xuống dưới áp lực không khí bên ngoài, không khí sẽ tràn vào phổi, tạo ra động tác hít vào.

Cơ hoành từ vị trí co chuyển sang dãn → lồng ngực thu hẹp theo hướng sau trước

Khi cơ gian sườn ngoài dãn ra, cơ gian sườn trong co lại theo phương thức ngược lại, khiến xương sườn bị kéo xuống Điều này làm cho lồng ngực thu hẹp theo cả ba chiều, dẫn đến việc phổi bị ép xẹp và áp lực trong phổi tăng lên, từ đó đẩy không khí thoát ra ngoài và gây ra động tác thở ra.

Quá trình khuyếch tán khí diễn ra từ nơi có áp suất riêng phần cao đến nơi có áp suất thấp, với O2 từ phế bào đi vào máu và CO2 từ máu vào phế bào Mặc dù quá trình này tương đối chậm, nhưng nhờ vào bề mặt tiếp xúc lớn của phổi, cơ thể vẫn đảm bảo được yêu cầu về trao đổi khí hiệu quả.

VÀI NÉT VỀ GIẢI PHẪU ĐẠI THỂ, VI THỂ CỦA PHỔI BÊ

Phổi là cơ quan chính trong hệ hô hấp, có chức năng trao đổi khí giữa không khí và máu Chúng thải carbonic từ máu ra ngoài và hấp thụ oxy từ không khí, cung cấp oxy cho các tế bào trong cơ thể.

Có 2 lá phổi phải và trái nằm trong xoang ngực, ngăn cách nhau ở giữa bởi tung cách mạc (màng trung thất – mediastinum) Trong tung cách mạc có tim, các mạch máu lớn và thực quản

Phổi chứa không khí, lượng không khí này gồm có:

- Không khí lưu thông là lượng không khí vào phổi

- Không khí dự trữ là lượng không khí bị tống thêm ra sau khi đã thở ra ngoài bình thường còn thở ra hết sức nữa

- Không khí phụ thêm là lượng không khí vào phổi sau khi phổi đã hít vào bình thường còn hít vào hết sức nữa

Không khí cặn là lượng không khí còn lại trong phổi sau khi thở ra hết Tổng hợp giữa không khí lưu thông, không khí dự trữ và không khí phụ thêm được gọi là hoạt lượng phổi.

Dung tích phổi bao gồm hoạt lượng phổi và lượng không khí cặn Phổi được bao bọc bởi màng phổi (pleura), tạo nên bề mặt nhẵn bóng Màu sắc phổi thay đổi theo độ tuổi: phổi bào thai có màu đỏ nâu, phổi của súc vật non màu hồng, trong khi phổi của súc vật già có màu hơi xanh và xuất hiện nhiều chấm đen do sắc tố tích tụ, làm cho phổi trở nên xạm lại Ranh giới của các tiểu thùy phổi cũng trở nên rõ rệt hơn.

Mỗi lá phổi có ba mặt (mặt ngoài, mặt trong và mặt sau hay đáy) và đỉnh ở trên:

Mặt ngoài của phổi, hay còn gọi là mặt sườn, có hình dạng lồi và áp sát vào thành trong của lồng ngực Giữa lớp xương cơ của lồng ngực và mặt ngoài của phổi chỉ có màng phổi, trong khi mặt ngoài này có các vết ấn lõm do các xương sườn tạo ra.

Mặt đáy hay mặt trung thất (facies mediastinalis) của phổi có rốn phổi nằm gần phía trên, nơi các thành phần của phế quản gốc đi vào phổi Rốn phổi chứa phế quản gốc, động mạch phổi và tĩnh mạch phổi.

Mặt sau của phổi, hay còn gọi là mặt đáy phổi (mặt hoàng – facies diaphragmatica), có hình dạng lõm và tiếp xúc trực tiếp với vòm cơ hoành Khu vực này của phổi liên quan mật thiết đến các nội tạng trong ổ bụng, đặc biệt là mặt trước của gan.

- Đỉnh (apex pulmonis): là phần phổi thò lên lỗ trước của cửa vào lồng ngực giới hạn bởi xương sườn I và mỏm khí quản xương ức

Phổi được cấu tạo từ các cây phế quản, mạch máu (bao gồm động mạch và tĩnh mạch phổi, động mạch và tĩnh mạch phế quản cùng các bạch mạch), các sợi thần kinh tại đám rốn phổi và tổ chức liên kết xung quanh các thành phần này.

Khi các thành phần được phân chia vào phổi, chúng tạo thành những đơn vị nhỏ dần, bao gồm: lá phổi, thùy phổi (lobus pulmonalis), phân thùy phổi (segmentum pulmonalis), tiểu thùy phổi (lobulus pulmonalis), và cuối cùng là các phế nang (saculi alveolares).

Mỗi phế quản gốc khi vào phổi sẽ phân chia thành các nhánh nhỏ, tạo thành cây phế quản Sau khi đi qua rốn phổi, phế quản gốc tiếp tục theo một trục chính, từ đó tách ra các phế quản thùy Các phế quản thùy dẫn khí vào thùy phổi và tiếp tục chia thành các phế quản phân thùy, sau đó là các phế quản dưới thân thùy Cuối cùng, các phế quản này phân chia nhiều lần nữa, tạo thành phế quản trên tiểu thùy.

Mỗi phế quản trên tiểu thùy dẫn khí cho một đơn vị phổi có thể tích khoảng 1cm, gọi là tiểu thùy, và được bao quanh bởi một lớp tổ chức liên kết chứa tĩnh mạch Các tiểu thùy hiện lên ở bề mặt phổi dưới dạng hình đa giác Khi đi sâu vào tiểu thùy, các phế quản trở thành phế quản trong tiểu thùy, tiếp tục chia thành các nhánh tiểu phế quản và tiểu phế quản tận Mỗi tiểu phế quản tận phình ra thành ống phế nang, chia thành chùm phế nang, nơi diễn ra sự trao đổi CO2 và O2 giữa máu và không khí thông qua lớp nội mạc Đầu khí quản đến các phế quản tận có lớp tế bào phủ ngoài với lông rung, mỗi tế bào có từ 250 đến 300 lông rung, hoạt động với tốc độ 20 đến 24 lần mỗi giây để loại bỏ bụi bẩn khỏi đường hô hấp Niêm dịch cùng với lông rung tạo ra sóng cuộn giúp bảo vệ niêm mạc và tống các chất bẩn ra ngoài qua phản xạ khạc nhổ.

Tế bào biểu mô của phế quản tận không còn lông rung, chủ yếu chứa tế bào Clara với nhiều enzym giúp khử độc và sản xuất globulin miễn dịch IgA, IgD, IgG từ tế bào tương bào Ngoài ra, các phế quản tận và phế quản nang còn có các Mastocyte (dưỡng bào) giải phóng Histamin, kích thích mao mạch giãn nở và tăng cường lượng máu tuần hoàn.

Hệ thống phế nang được cấu trúc như các hốc tổ ong, ngăn cách nhau bởi vách phế nang, bên trong được lót bởi các tế bào đa giác chiếm 97% số lượng tế bào, thực hiện chức năng trao đổi không khí Ngoài ra, ở các góc của vách phế nang có tế bào phế bào nang có hạt (phế bào 2), lớn hơn và có lông nhung, chứa nhiều hốc và hạt leucopolysaccarit cùng các chất khác Khi những hạt này vỡ ra trong lòng phế nang, chúng tạo ra chất diệp hoạt, giúp giảm sức căng bề mặt, cho phép phế nang nở ra một cách nhịp nhàng.

+ Đại thực bào có hạt: Chui ra nằm trong lòng phế nang làm nhiệm vụ đón dị vật trong lòng phế nang

+ Tế bào tổ chức liên kết (tế bào lưới làm nhiệm vụ chống đỡ cho vách) Trong các vách phế nang co rất nhiều mao mạch

Có sợi hồ (colagen), sợi chun (flactin)

CÁC VI KHUẨN THƯỜNG GẶP Ở PHỔI GIA SÚC

Nhiều loại vi khuẩn hiện diện trong đường hô hấp của gia súc chịu ảnh hưởng từ địa lý và tình trạng vệ sinh Nghiên cứu cho thấy số lượng vi sinh vật trong đường hô hấp thay đổi theo mùa và thời gian trong ngày, đồng thời cũng liên quan đến điều kiện dinh dưỡng Ngay từ khi mới sinh, gia súc đã bắt đầu tiếp xúc với vi sinh vật qua động vật trưởng thành và qua thai.

Niêm mạc mũi là nơi có nhiều vi khuẩn, trong khi số lượng vi sinh vật giảm dần khi đi sâu vào khí quản Nhiều tài liệu đã nghiên cứu về hệ vi khuẩn ở đường hô hấp của loài nhai lại, chủ yếu tập trung vào bò.

According to the research by Walter J Gibbous et al (1971) and Russell A Runnell et al (1991), the respiratory tract of healthy cattle commonly hosts bacteria such as Pasteurella sp., Streptococcus sp., and Staphylococcus sp Occasionally, Corynebacterium pyogenes may be present, while Pseudomonas aeruginosa, E coli, and Aspergillus fumigatus are rarely encountered.

According to Heddleston et al (1962), common bacteria found in the respiratory tract of cattle include Pasteurella sp., Streptococcus sp., Staphylococcus sp., Klebsiella pneumoniae, and Mycoplasma sp Additionally, transient bacteria such as Salmonella, Pseudomonas, Proteus, and Bacillus subtilis may also be present.

Theo Manninger, 1982, ở những bò khỏe người ta vẫn phân lập được vi rus và vi khuẩn gây bệnh trong bộ máy hô hấp của bò như: Virus Adeno,

Mycoplasma và các loại vi khuẩn như Pasteurella, Streptococcus, Staphylococcus chủ yếu gây bệnh cho động vật, đặc biệt là bê non Những trường hợp này thường xảy ra khi thời tiết lạnh, thiếu thức ăn và chăm sóc kém, dẫn đến tình trạng súc vật gầy yếu và giảm sức đề kháng.

Sỹ Lăng, Phan Địch Lân, 1997[12], Blood, D.et.al,1985) [33]

Vi khuẩn Pasteurella, đặc biệt là Pasteurella multocida, là một loại vi khuẩn phổ biến gây bệnh đường hô hấp ở động vật Pasteurella multocida thuộc nhóm vi sinh vật yếm khí tùy tiện, có hình dạng cầu trực khuẩn, bắt màu gram âm và kích thước từ 0,25 đến 0,4 x 0,4 đến 1,5 micromet.

Vi khuẩn có vỏ giáp mô, không sinh nha bào và bắt màu lưỡng cực, có thể tồn tại riêng lẻ, thành đôi hoặc thành chuỗi Kích thước và hình thái của chúng thay đổi tùy thuộc vào nguồn gốc, ví dụ vi khuẩn phân lập từ lợn thường có dạng trũn với kích thước từ 0,8 đến 1 µm Tính đa dạng của vi khuẩn phụ thuộc vào điều kiện thiếu oxy; trong máu động vật, vi khuẩn thường đồng nhất, trong khi trong môi trường nhân tạo, chúng có thể đa hình dạng, bao gồm vi khuẩn hình trứng, hình cầu và hình que Khi nuôi cấy trong môi trường nhân tạo, chiều dài của vi khuẩn cũng tăng lên.

Tất cả các loại Pasteurella gây bệnh cho gia súc và gia cầm đều thuộc một giống duy nhất, có đặc điểm hình thái nuôi cấy tương đồng, nhưng khác nhau về khả năng gây bệnh cho các loài động vật khác nhau.

Dựa vào đó người ta chia P.multocida làm các loại sau:

- P aviseptica gây bệnh tụ huyết trùng gà

- P boviseptica gây bệnh tụ huyết trùng trâu bò

- P suiseptica gây bệnh tụ huyết trùng lợn

- P oviseptica gây bệnh cho cừu

Vi khuẩn P multocida tồn tại phổ biến trong tự nhiên, đặc biệt là ở niêm mạc đường hô hấp trên của nhiều loài động vật như lợn (40%), bò (80%), cừu (50%), ngựa (60%) và chó (30%) Mặc dù chúng thường không gây bệnh, nhưng có thể trở thành tác nhân gây bệnh khi sức đề kháng của cơ thể giảm do các yếu tố như bệnh lý, dinh dưỡng kém hoặc điều kiện thời tiết khắc nghiệt Theo nghiên cứu của Nguyễn Vĩnh Phước (1978), mùa nóng và mưa rào đột ngột tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn sinh sản và xâm nhập vào cơ thể động vật qua đường tiêu hóa hoặc vết thương Khi thời tiết thay đổi, sức đề kháng của động vật suy giảm, tạo cơ hội cho P multocida phát triển.

Giống Streptococcus cú hình cầu, thường được xếp thành chuỗi giống như chuỗi hạt với độ dài không đều, có thể từ 3 vi khuẩn tạo thành song cầu khuẩn đến chuỗi dài từ 6 đến 8 vi khuẩn Trong môi trường đặc, chúng xuất hiện dưới dạng chuỗi ngắn, bắt màu gram dương, không di động và phần lớn không có giáp mô.

Vi khuẩn yếm khí và hiếu khí tùy tiện, ngoại trừ một số chủng của Streptococcus, có khả năng gây bệnh độc lập hoặc kết hợp với các vi khuẩn khác.

Streptococcus sản sinh ra cả ngoại độc tố và nội độc tố, trong đó các liên cầu gây bệnh có khả năng làm tan máu nhờ vào độc tố gọi là dung huyết tố (Streptolyzin).

Liên cầu không chỉ gây bệnh mà còn có sự tham gia của các enzym ngoại bào Các enzym này bao gồm streptokinaza, giúp làm tan tơ huyết; streptodornaza, có khả năng làm loãng lớp mủ đặc; và hyaluronidaza, thủy phân axit hyaluronic Ngoài ra, enzym proteinaza có tác dụng thủy phân protein, trong khi diphotpho-pyridin-nucletidaza có khả năng tiêu diệt bạch cầu.

Staphylococcus là loại vi khuẩn cầu hình chùm nho, có đường kính từ 0,7-1 µm, thuộc nhóm gram dương, không di động và không sinh nha bào Đây là vi khuẩn hiếu khí hoặc yếm khí không bắt buộc, có khả năng phát triển trên nhiều môi trường khác nhau Khi được nuôi cấy trên thạch máu, Staphylococcus thường có khả năng gây dung huyết, với hai loại chính là dung huyết hoàn toàn (∝) và dung huyết không hoàn toàn (β-hemolysis).

Tụ cầu khuẩn, thường gặp trong tự nhiên, tồn tại chủ yếu trong đất, cát, nước, không khí, trên da động vật và thực phẩm thực vật Chúng chủ yếu sinh sống ở da và niêm mạc, nhưng cũng có thể tìm thấy trong lông, máu, tuyến mồ hôi, tuyến mỡ, lỗ chân lông, mắt, mũi, họng và niêm mạc đường tiêu hóa Được coi là vi khuẩn ký sinh của da và niêm mạc, tụ cầu khuẩn cũng được phân lập từ dịch ngoáy mũi, họng, dịch khí quản và phổi của một số gia súc khỏe mạnh Khi gặp điều kiện thuận lợi, chúng có thể phát triển và gây bệnh.

33

ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

Chúng tôi đã thực hiện nghiên cứu về bê lai HF bị viêm phổi tự nhiên Dựa trên quy trình phòng bệnh tại cơ sở chăn nuôi, chúng tôi đã loại bỏ những bê mắc bệnh giun phổi và một số bệnh truyền nhiễm có liên quan đến phổi.

NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Chúng tôi thực hiện nghiên cứu về bê lai HF bị viêm phổi tự nhiên Dựa trên quy trình phòng bệnh tại cơ sở chăn nuôi, chúng tôi đã loại bỏ những bê mắc giun phổi và các bệnh truyền nhiễm có liên quan đến phổi.

- Bộ môn Nội chẩn – Dược khoa Thú y trường ĐH Nông Nghiệp Hà Nội

- Bộ môn Vi sinh vật – Truyền nhiễm – Bệnh lý khoa Thú y trường ĐH Nông nghiệp Hà Nội

- Một số trại chăn nuôi vùng phụ cận Hà Nội

3.3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.3.1 Theo dõi một số chỉ tiêu lâm sàng khi bê bị viêm phổi

-Một số triệu chứng lâm sàng khi bê bị viêm phổi (ho, khó thở, chảy nước mũi, sốt, trạng thái cơ thể)

-Thân nhiệt dùng nhiệt kế đo ở trực tràng, buổi sáng từ 6h đến 8h, buổi chiều từ 16h đến 18h

Tần số hô hấp được đo bằng cách sử dụng ống nghe để đếm nhịp thở trong một phút tại vùng phổi, hoặc quan sát hõm bụng khi bệnh nhân thở và đếm số lần thở trong cùng khoảng thời gian.

- Tần số tim (Lần/ phút): Dùng ống nghe đếm số lần tim đập trong 1 phút

3.3.2 Một số chỉ tiêu sinh lý máu ở bê viêm phổi bằng máy huyết học 18 thông số (Hema Screm18)

- Số lượng hồng cầu (triệu/mm 3 máu)

- Hàm lượng huyết sắc tố (g%)

Thân nhiệt, tần số tim đập và tần số hô hấp ở bê viêm phổi

Để đánh giá ảnh hưởng của bệnh đến chức năng hoạt động của các cơ quan, chúng tôi đã kiểm tra thân nhiệt, tần số tim đập và tần số hô hấp ở 29 bê viêm phổi và 11 bê khỏe mạnh Kết quả được trình bày trong bảng 4.2.

Bảng 4.2: Thân nhiệt, tần số hô hấp và tần số tim ở bê viêm phổi

Bê khỏe (n = 11) Bê viêm phổi (n = 29) Chỉ tiêu

Thân nhiệt là một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá sức khỏe của cơ thể và là yếu tố thiết yếu trong chẩn đoán bệnh (Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch – 1997) [17] Kết quả đo thân nhiệt bằng nhiệt kế ở trực tràng cho thấy, thân nhiệt trung bình của 11 bê khỏe mạnh là 38,91±0,11 độ C, dao động từ 38,30 đến 39,50 độ C Ngược lại, thân nhiệt trung bình của 29 bê bị viêm phổi là 40,56±0,15 độ C, với khoảng dao động từ 39,20 đến 41,70 độ C.

Khi bê bị viêm phổi, thân nhiệt của chúng tăng lên 1,65 độ so với bê khỏe mạnh Tạ Thị Vịnh (1991) chỉ ra rằng triệu chứng lâm sàng đầu tiên của gia súc khi nhiễm khuẩn là sốt cao.

Sốt là hiện tượng tăng thân nhiệt thường gặp trong nhiều bệnh lý, đặc biệt là trong trường hợp gia súc mắc bệnh viêm phổi, giúp chẩn đoán chính xác mức độ viêm Nghiên cứu của chúng tôi về thân nhiệt của bê viêm phổi phù hợp với nhận xét của tác giả Blowey R W (1999).

Kết quả nghiên cứu cho thấy tần số tim trung bình ở bê khỏe là 96,54±2,24 lần/phút, dao động từ 86 đến 109 lần/phút Những phát hiện này phù hợp với nội dung trong giáo trình "Chẩn đoán lâm sàng Thú y" của Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên và Phạm Ngọc Thạch (1997).

Theo Nguyễn Đức Lưu và Nguyễn Hữu Vũ (2004), nhịp tim của bê khoẻ dưới 14 ngày dao động trong khoảng 130 - 141 lần/phút, bê 3 tháng tuổi 99 -

108 lần/phút, bê 6 tháng tuổi là 96 lần/phút, bê một năm tuổi là 91 lần/phút

Theo Blowey R W (1999) [34] bệnh viêm phổi cấp nhiệt độ tăng lên so với bê khoẻ và dao động trong khoảng 40 - 42 0 C

Khi sốt cao, nhiệt độ có thể tác động đến nút Keith - Flack trong tim hoặc do các loại độc tố ảnh hưởng đến cơ quan thụ cảm tim, gây ra tình trạng tim đập nhanh và mạch nhanh (Hồ Văn Nam và cộng sự, 1997) [17].

Khi gia súc bị viêm, phản ứng của cơ thể sẽ khác nhau tùy thuộc vào mức độ và tính chất của viêm, thể hiện qua các triệu chứng như sưng, nóng, đỏ và đau Trong các trường hợp nhiễm khuẩn nặng, gia súc thường có biểu hiện sốt cao và tim đập nhanh.

Khi bê bị viêm phổi có tần số mạch trung bình là 109,07±1,95 lần/phút, dao động 91-127 lần/phút

Tần số tim của bê viêm phổi tăng cao hơn mức sinh lý khoảng 12,53 lần/phút Nguyên nhân chính là do sự kết hợp giữa sốt và viêm phổi, khiến diện tích hô hấp bị thu hẹp Điều này buộc tim phải tăng cường hoạt động để bù đắp cho lưu lượng tuần hoàn, dẫn đến tần số mạch gia tăng.

4.2.3 Tần số hô hấp Để đo tần số hô hấp chúng tôi dùng ống nghe nghe vùng phổi, kết hợp với sự quan sát sự lên xuống của hõm hông của bê ( bảng 4.2) chúng tôi thấy: tần số hô hấp trung bình ở 11 bê khỏe là 31,55±0,89 lần/phút, dao động trong khoảng 28-37 lần/phút Ở bê bị viêm phổi tần số hô hấp trung bình tăng lên tới 76,31±2,21 lần/phút, dao động trong khoảng 57-95 lần/phút, tăng so với tần số hô hấp của bê khỏe là 44,76 lần/phút

Khi bê bị viêm phổi, phổi bị tổn thương dẫn đến hạn chế trong quá trình trao đổi khí, gây giảm lượng O2 và tăng lượng CO2 trong máu Sự giảm O2 kích thích các cơ quan nhạy cảm ở xoang động mạch cảnh và xoang động mạch chủ, làm tăng tần số hô hấp Đồng thời, quá trình trao đổi chất tại các mô bào cũng làm tăng nồng độ CO2 trong máu, tiếp tục kích thích trung khu hô hấp và dẫn đến tần số hô hấp cao hơn.

Các chỉ tiêu thân nhiệt, mạch đập và tần số hô hấp ở bê bị viêm phổi cao hơn so với bê khỏe, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH LÝ MÁU

Máu là chỉ số quan trọng phản ánh tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe của cơ thể, tạo môi trường ổn định cho tế bào hoạt động Trong trạng thái sinh lý bình thường, máu có các chỉ tiêu ổn định, nhưng sẽ thay đổi khi cơ thể bị bệnh Những thay đổi này là cơ sở để chẩn đoán bệnh Do đó, xét nghiệm máu là phương pháp cơ bản để đánh giá sức khỏe và hỗ trợ chẩn đoán bệnh cho động vật.

Chúng tôi đã thực hiện xét nghiệm các chỉ tiêu sinh lý máu ở bê viêm phổi bằng máy huyết học Hemascrem 18 chỉ tiêu Kết quả của xét nghiệm được trình bày chi tiết trong các bảng 4.3, 4.4 và 4.5.

4.3.1 Số lượng hồng cầu (triệu/mm 3 )

Hồng cầu có chức năng vận chuyển O2 tới tổ chức và mang khí CO2 từ tổ chức ra phổi

Số lượng hồng cầu khác nhau giữa các loài và có thể thay đổi trong cùng một loài tùy thuộc vào giống, tuổi, giới tính, tình trạng dinh dưỡng và sức khỏe Khi động vật mắc bệnh, số lượng hồng cầu cũng có thể tăng hoặc giảm Tăng hồng cầu thường xảy ra trong các bệnh gây mất nước như tiêu chảy nặng, sốt cao và ra nhiều mồ hôi, trong khi giảm hồng cầu thường gặp trong các bệnh thiếu máu hoặc các bệnh gây vỡ hồng cầu, chẳng hạn như ngộ độc và ký sinh trùng đường máu.

Số lượng hồng cầu không chỉ phản ánh sức khỏe mà còn thể hiện phẩm chất con giống Vì vậy, việc xác định số lượng hồng cầu ở mỗi gia súc là rất quan trọng trong việc chẩn đoán bệnh.

Trong một nghiên cứu về số lượng hồng cầu ở 11 bê khỏe mạnh, kết quả cho thấy số lượng hồng cầu trung bình đạt 5,87±0,16 triệu/mm³, với dao động từ 5,22 đến 6,75 triệu/mm³ Ngược lại, ở những bê bị viêm phổi, số lượng hồng cầu trung bình giảm xuống còn 5,31±0,05 triệu/mm³ Điều này cho thấy sự giảm sút 0,56 triệu/mm³ so với các bê khỏe mạnh.

Khi bê bị viêm phổi, chúng thường ăn ít hoặc bỏ ăn, dẫn đến thiếu hụt các nguyên liệu cần thiết để tạo máu như sắt, protein, vitamin C và vitamin B12 Tình trạng này góp phần làm giảm số lượng hồng cầu trong máu.

Bảng 4.3: Số lượng hồng cầu, hàm lượng huyết sắc tố và tỷ khối huyết cầu ở bê khỏe và bê viêm phổi

Số lượng hồng cầu (triệu/mm 3 ) Hàm lượng huyết sắc tố (g%) Tỷ khối huyết cầu (%) m X

4.3.2 Hàm lượng huyết sắc tố (Hemoglobin) (g%)

Hemoglobin (Hb) là thành phần chính của hồng cầu, chiếm 90% vật chất khô và đảm nhiệm các chức năng quan trọng Là một loại protein phức tạp (CromoProtein) với khối lượng phân tử 68.000 đvC, hemoglobin có nhiệm vụ vận chuyển oxy (O2) và carbon dioxide (CO2), cũng như các chất dinh dưỡng Ngoài ra, hemoglobin còn giúp điều hòa độ pH của máu và tham gia vào quá trình tổng hợp các chất khác như sắc tố mật khi bị phân hủy.

Hàm lượng Hemoglobin trong máu của các loài gia súc thay đổi tùy theo giống, tuổi, tính biệt, trạng thái dinh dưỡng, bệnh tật

Hàm lượng Hemoglobin trong máu tỷ lệ thuận với số lượng hồng cầu Khi số lượng hồng cầu trong 1mm³ máu tăng hoặc giảm, thì lượng Hemoglobin trong 100ml máu cũng sẽ thay đổi tương ứng.

Dựa trên nguyên lý kết hợp của axit HCl với Hemoglobin để tạo thành axit Hematin màu nâu, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra hàm lượng huyết sắc tố trong máu của 40 bê, bao gồm 29 bê bị viêm phổi và 11 bê khỏe mạnh Kết quả được so sánh với ống chuẩn để xác định lượng Hb trong máu.

Qua kết quả ở bảng 4.3 chúng tôi thấy:

Hàm lượng huyết sắc tố trung bình ở bê khỏe là 11,15±0,16 g%, với khoảng dao động từ 10,60-12,50 g% Kết quả này phù hợp với thông tin trong giáo trình “Sinh lý gia súc” (NXB Nông thôn – 1975).

Hàm lượng huyết sắc tố trung bình ở những bê mắc bệnh viêm phổi là 10,09±0,06 g%, dao động trong khoảng 9,60-10,90 g%

Như vậy, qua kết quả trên chúng tôi nhận thấy hàm lượng Hemoglobin ở bê viêm phổi có sự giảm đi tương ứng với sự giảm số lượng hồng cầu

4.3.3 Tỷ khối huyết cầu (Hematocrit) (%)

Tỷ khối huyết cầu là tỷ lệ % giữa khối lượng hồng cầu trong một thể tích máu nhất định được tính theo %

Tỷ khối huyết cầu có thể thay đổi do nhiều yếu tố khác nhau Tăng tỷ khối huyết cầu thường xảy ra khi có sự tích nước trong tế bào hoặc trong các bệnh lý liên quan đến sự gia tăng số lượng hồng cầu Ngược lại, tỷ khối huyết cầu giảm thường gặp trong trường hợp thiếu máu.

Kết quả kiểm tra tỷ khối huyết cầu của 11 bê khỏe và 29 bê viêm phổi bằng phương pháp Wintrobe chúng tôi thu được kết quả ở bảng 4.3

Từ kết quả ở bảng 4.3 chúng tôi có nhận xét:

Tỷ khối huyết cầu trung bình ở bê khỏe là 37,19±0,73 %, với khoảng dao động từ 33,10-39,90 Trong khi đó, bê bị viêm phổi có tỷ khối huyết cầu trung bình chỉ đạt 34,80±0,24 %, dao động từ 30,20-36,50, cho thấy sự giảm rõ rệt so với bê khỏe.

Kết quả kiểm tra cho thấy số lượng hồng cầu, tỷ khối huyết cầu và hàm lượng huyết sắc tố ở bê bị viêm phổi giảm so với chỉ tiêu sinh lý Do đó, trong quá trình điều trị viêm phổi ở bê, cần chú trọng không chỉ vào việc điều trị nguyên nhân mà còn áp dụng các biện pháp để tăng cường nguyên liệu tạo hồng cầu và chống thiếu máu.

4.3.4 Lượng huyết sắc tố (HST) bình quân của hồng cầu

Lượng huyết sắc tố bình quân của hồng cầu biểu thị lượng hemoglobin chứa trong một hồng cầu Đơn vị tính là (pg) và được tính theo công thức:

Kiểm tra lượng huyết sắc tố của hồng cầu ở 11 con bê khỏe và 29 con bê bị mắc bệnh viêm phổi Kết quả được trình bày ở bảng 4.4

Qua kết quả ở bảng 4.5 cho thấy:

Lượng HST trung bình của bê khỏe là 15,79±0,05 pg

Khi bê bị viêm phổi lượng HST trung bình giảm xuống còn 15,05±0,01 pg g% Hb x 10

Số triệu hồng cầu/mm 3 LHSTBQ47

Bảng 4 4: Lượng huyết sắc tố (HST) bình quân của hồng cầu , nồng độ HST bình quân của hồng cầu, thể tích bình quân của hồng cầu ở bê viêm phổi

Lượng HST bình quân của hồng cầu (pg)

Nồng độ HST bình quân của hồng cầu (%)

Thể tích bình quân hồng cầu

Bảng 4.5: Số lượng bạch cầu và công thức bạch cầu ở bê khỏe và bê viêm phổi

Số lượng bạch cầu (nghìn/mm 3 ) BC ái toan BC ái kiềm BC nhân trung tính Đơn nhân lớn Lâm ba cầu m X

X ± X ± m X X ± m X X ± m X X ± m X X ± m X Đối tượng nghiên cứu n (con)

Dao động Dao động Dao động Dao động Dao động Dao động 8,11±0,15 5,09±0,39 0,45±0,16 31,18±0,94 6,54±0,39 56,73±0,87

4.3.5 Thể tớch bỡnh quõn hồng cầu (ààààm 3 )

Thể tích bình quân hồng cầu được tính theo công thức:

Theo dõi thể tích bình quân hồng cầu ở 40 bê cho thấy thể tích bình quân của hồng cầu ở bờ khỏe trung bình là 50,05±0,97 àm³, dao động từ 45,90 đến 54,70 àm³ Trong khi đó, bờ viêm phổi có thể tích bình quân hồng cầu trung bình là 48,92±0,30 àm³, dao động trong khoảng 46,10 đến 53,20 àm³.

4.3.6 Nồng độ huyết sắc tố bình quân của hồng cầu (%)

Nồng độ huyết sắc tố bình quân của hồng cầu là tỷ lệ % của hàm lượng HST trên tỷ khối hồng cầu và được tính theo công thức:

Chúng tôi đã tiến hành kiểm tra nồng độ HST bình quân của hồng cầu bên cạnh việc kiểm tra lượng HST trên bê khỏe và bê viêm phổi Kết quả từ bảng 4.4 cho thấy các thông tin quan trọng liên quan đến nồng độ HST.

MỘT SỐ CHỈ TIÊU SINH HÓA MÁU

Trong trạng thái bình thường, các thành phần hóa học của máu thường ổn định Tuy nhiên, khi có bệnh lý, đặc biệt là rối loạn chức năng của gan và thận, thành phần hóa học của máu sẽ thay đổi Do đó, các xét nghiệm sinh hóa lâm sàng trở thành công cụ quan trọng trong việc chẩn đoán và theo dõi bệnh, vì chúng cho thấy sự khác biệt trong thành phần hóa học của máu toàn phần, huyết tương và hồng cầu Vì vậy, bên cạnh việc theo dõi các biểu hiện lâm sàng và chỉ tiêu sinh lý của máu, chúng tôi cũng thực hiện phân tích các chỉ tiêu sinh hóa để có cái nhìn toàn diện hơn về tình trạng sức khỏe.

4.4.1 Hàm lượng độ dự trữ kiềm trong máu

Trong quá trình trao đổi chất, cơ thể sản sinh ra axit, và các muối kiềm trong máu giúp trung hòa lượng axit này để duy trì độ pH ổn định Độ pH máu của gia súc thường dao động từ 7,3 đến 7,45 Lượng kiềm trong máu, được gọi là lượng kiềm dự trữ, chủ yếu là muối NaHCO3 và được tính bằng mg%.

Lượng dự trữ kiềm là yếu tố quan trọng đánh giá khả năng làm việc bền bỉ của gia súc Khi lượng kiềm dự trữ cao, gia súc có khả năng làm việc dẻo dai hơn, vì quá trình co cơ sản sinh axit lactic và các axit từ trao đổi chất sẽ không làm thay đổi pH máu Ngược lại, nếu lượng kiềm dự trữ thấp, gia súc sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì sức bền khi làm việc căng thẳng.

Máu có khả năng đệm cao nhưng chỉ trong một giới hạn nhất định Khi nồng độ axit hoặc kiềm trong máu tăng quá mức, lượng kiềm dự trữ sẽ bị tiêu hao, dẫn đến pH vượt ra ngoài phạm vi bình thường, gây ra tình trạng toan hóa hoặc kiềm hóa trong cơ thể.

Việc xác định lượng kiềm dự trữ trong máu là rất quan trọng cho chẩn đoán và điều trị bệnh lý Chúng tôi đã tiến hành đo lường độ dự trữ kiềm trong máu của bê bị viêm phổi bằng phương pháp Nevodop Kết quả cho thấy, độ dự trữ kiềm trung bình ở 11 bê khỏe mạnh là 490±4,95 mg%, so với 29 bê bị viêm phổi.

Trong một nghiên cứu trên 29 bê bị viêm phổi, chúng tôi ghi nhận độ dự trữ kiềm trung bình là 515±2,75 mg%, dao động từ 495-560 mg%, cao hơn mức sinh lý bình thường là 490±3,23 mg% Điều này cho thấy khi bê mắc viêm phổi, cơ thể thường rơi vào tình trạng trúng độc kiềm.

Bảng 4.6: Hàm lượng độ dự trữ kiềm trong máu và hoạt độ men sGOT, sGPT trong huyết thanh bê viêm phổi

Bê khỏe (n = 11) Bê viêm phổi (n = 29)

X ± m X Dao động X ± m X Dao động P Độ dự trữ kiềm (mg%) 490±4,95 470-520 515±2,75 495-560

Ngày đăng: 27/07/2021, 15:35

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Vũ Triệu An, Jean Claude Homberg (2001), Miễn dịch học, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Miễn dịch học
Tác giả: Vũ Triệu An, Jean Claude Homberg
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 2001
2. Vũ Triệu An, Nguyễn Ngọc Lanh, Nguyễn Hữu Mô (1990), Bài giảng Sinh lí bệnh, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài giảng Sinh lí bệnh
Tác giả: Vũ Triệu An, Nguyễn Ngọc Lanh, Nguyễn Hữu Mô
Nhà XB: Nhà xuất bản Y học
Năm: 1990
3. Archie Hunter (2000), Sổ tay dịch bệnh động vật, (Phạm Gia Ninh và Nguyễn Đức Tâm dịch), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sổ tay dịch bệnh động vật
Tác giả: Archie Hunter
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 2000
5. Trần Cừ, Cù Xuân Dần (1975), sinh lý gia súc. Nhà xuất bản nông thôn, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: sinh lý gia súc
Tác giả: Trần Cừ, Cù Xuân Dần
Nhà XB: Nhà xuất bản nông thôn
Năm: 1975
6. Cù Xuân Dần, Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan (1996), Sinh lí học gia súc, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sinh lí học gia súc
Tác giả: Cù Xuân Dần, Nguyễn Xuân Tịnh, Tiết Hồng Ngân, Nguyễn Bá Mùi, Lê Mộng Loan
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1996
7. Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Quang, Hồ Thu Hương, Ngô Thanh Long, Đào Thanh Vân (2004), "Tình hình nhiễm bệnh virus trong đàn trâu bò ở Việt Nam", Kỷ yếu Khoa học kĩ thuật Thú y - Viện thú y 35 xây dựng và phát triển 1969 - 2004, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 61 - 65 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình nhiễm bệnh virus trong đàn trâu bò ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Tiến Dũng, Nguyễn Văn Quang, Hồ Thu Hương, Ngô Thanh Long, Đào Thanh Vân
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 2004
8. Đỗ Văn Được (2003), Một số nguyên nhân, đặc điểm bệnh lí, triệu chứng lâm sàng bệnh viêm phổi ở trâu Lạng Sơn và biện pháp phòng trị bệnh, Luận án Tiến sĩ nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ), Một số nguyên nhân, đặc điểm bệnh lí, triệu chứng lâm sàng bệnh viêm phổi ở trâu Lạng Sơn và biện pháp phòng trị bệnh
Tác giả: Đỗ Văn Được
Năm: 2003
9. Huỳnh Văn Kháng (2006), Chăn nuôi bò sữa - Những điều cần biết, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chăn nuôi bò sữa - Những điều cần biết
Tác giả: Huỳnh Văn Kháng
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 2006
10. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Kí sinh trùng thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kí sinh trùng thú y
Tác giả: Phạm Văn Khuê, Phan Lục
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1996
11. Khoo Teng Huat (1995), "Những bệnh đường tiêu hoá và hô hấp ở lợn", Tài liệu hội thảo khoa học - Hà Nội ngày 10 - 11/3/1995 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những bệnh đường tiêu hoá và hô hấp ở lợn
Tác giả: Khoo Teng Huat
Năm: 1995
12. Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân (1997), Bệnh trâu bò ở Việt Nam và biện pháp phòng trị. Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội tr. 206 – 213 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh trâu bò ở Việt Nam và biện pháp phòng trị
Tác giả: Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1997
13. Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân (2002), "Bệnh nội khoa và bệnh sinh sản", Bệnh thường gặp ở bò sữa Việt Nam và kĩ thuật phòng trị, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh nội khoa và bệnh sinh sản
Tác giả: Phạm Sĩ Lăng, Phan Địch Lân
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 2002
14. Nguyễn Quang Mai (2004), Sinh lý học động vật và người, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sinh lý học động vật và người
Tác giả: Nguyễn Quang Mai
Nhà XB: NXB Khoa học và Kỹ thuật
Năm: 2004
15. Nguyễn Văn Minh (2005), Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh Tụ huyết trùng và xác định tỉ lệ mang trùng Pasteurella ở đàn trâu, bò tỉnh Hà Tây, Luận văn Thạc sĩ nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh Tụ huyết trùng và xác định tỉ lệ mang trùng Pasteurella ở đàn trâu, bò tỉnh Hà Tây
Tác giả: Nguyễn Văn Minh
Năm: 2005
16. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Giáo trình Chẩn đoán lâm sàng thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Chẩn đoán lâm sàng thú y
Tác giả: Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1997
17. Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch (1997), Bệnh nội khoa gia súc, Giáo trình cho các lớp thú y các trường đại học nông nghiệp, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh nội khoa gia súc
Tác giả: Hồ Văn Nam, Nguyễn Thị Đào Nguyên, Phạm Ngọc Thạch
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1997
18. Cao Xuân Ngọc (1997), Giải phẫu bệnh đại cương Thú y, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giải phẫu bệnh đại cương Thú y
Tác giả: Cao Xuân Ngọc
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1997
19. Nguyễn Thị Đào Nguyên (1993), Một số chỉ tiêu sinh lí huyết học lâm sàng của trâu khoẻ và trong một số bệnh thường gặp, Luận án Phó tiến sĩ khoa học nông nghiệp, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số chỉ tiêu sinh lí huyết học lâm sàng của trâu khoẻ và trong một số bệnh thường gặp
Tác giả: Nguyễn Thị Đào Nguyên
Năm: 1993
20. Nguyễn Đình Nhung (2001), "Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí, sinh hoá máu trâu khi dùng chế phẩm EM để phòng tiêu chảy", Báo cáo khoa học đề tài cấp bộ, Đại học Nông nghiệp I, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lí, sinh hoá máu trâu khi dùng chế phẩm EM để phòng tiêu chảy
Tác giả: Nguyễn Đình Nhung
Năm: 2001
21. Niconxki V.V. (1986), Bệnh lợn con, (Phạm Quân và cộng sự dịch), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 136 - 158 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bệnh lợn con
Tác giả: Niconxki V.V
Nhà XB: Nhà xuất bản Nông nghiệp
Năm: 1986

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w