ðẶT VẤN ðỀ
Tớnh cấp thiết của vấn ủề
Trong bối cảnh hội nhập, sản xuất nông nghiệp ngày càng đa dạng nhưng cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro Người nông dân thường gặp khó khăn trong việc quyết định giữ lại hay từ bỏ sản phẩm khi giá cà phê giảm, hay khi trang trại nằm trong khu vực quy hoạch mới Trong chăn nuôi lợn, rủi ro cũng không kém, khi nông dân không biết nên bán lợn hay tiếp tục nuôi khi dịch bệnh lan rộng Họ đối mặt với việc tăng giá thức ăn chăn nuôi trong khi giá bán không ổn định, khó khăn trong việc phát hiện và chữa trị bệnh cho lợn, cùng với việc thiếu vốn để mở rộng quy mô sản xuất khi lãi suất tăng cao.
Nghiên cứu rủi ro trong nông nghiệp đã bắt đầu từ đầu thế kỷ XX và phát triển mạnh mẽ vào những thập kỷ 70 và 80, đặc biệt ở các nước phát triển như Mỹ, Australia, EU, Canada Đến cuối thế kỷ XX, lĩnh vực này bắt đầu được quan tâm tại các nước đang phát triển như Ấn Độ và Trung Quốc Các nghiên cứu tập trung vào các loại rủi ro như biến động thị trường, tác động qua lại và ảnh hưởng tổng hợp của các loại rủi ro, cũng như các chiến lược giảm thiểu rủi ro và vai trò của chính phủ trong quản lý rủi ro nông nghiệp.
Hiện tại, Việt Nam chưa có nghiên cứu đầy đủ về rủi ro trong ngành chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi lợn Mặc dù đã có một số nghiên cứu về bảo hiểm cho các ngành nông nghiệp như cà phê, cao su, và hồ tiêu, nhưng sự tham gia của các tổ chức bảo hiểm vào lĩnh vực nông nghiệp vẫn chưa đạt hiệu quả Tổng đàn lợn giảm dần qua các năm, dẫn đến tình trạng Việt Nam phải nhập khẩu thịt lợn, gây lo ngại về an ninh thực phẩm Điều này cho thấy việc áp dụng các biện pháp giảm thiểu rủi ro cho người chăn nuôi lợn là rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Hiện nay, nhà nước đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ người nông dân nuôi lợn, bao gồm các lĩnh vực như thú y, khuyến nông, cung cấp vốn, kỹ thuật, giống, và thị trường, cũng như tiêm vắc xin phòng và chữa bệnh Tuy nhiên, các biện pháp này chỉ giúp giảm thiểu một phần rất nhỏ rủi ro mà người dân phải đối mặt Hầu hết các chính sách mang tính chất khắc phục hơn là chủ động ngăn chặn ngay từ đầu, do đó, người nông dân vẫn phải dựa vào sức lực và khả năng của bản thân để đối phó với những rủi ro trong chăn nuôi.
Hải Dương là tỉnh có số lượng hộ nông dân chăn nuôi lợn lớn, đứng thứ ba cả nước, chỉ sau Hà Tĩnh và Thái Bình Huyện Nam Sách là một trong những huyện chăn nuôi lợn chủ yếu của tỉnh, với doanh thu từ chăn nuôi đạt gần 3.000 tỷ đồng vào năm 2009, chiếm hơn 30% giá trị sản xuất nông nghiệp của Hải Dương Tuy nhiên, các hộ chăn nuôi lợn ở Nam Sách đối mặt với nhiều rủi ro, bao gồm sự gia tăng giá thức ăn chăn nuôi trong 5 năm qua, dịch bệnh diễn ra liên tục từ năm 2007 đến 2010, và khó khăn trong việc vay vốn Mức độ ảnh hưởng và phản ứng của người dân đối với các rủi ro này khác nhau tùy theo quy mô chăn nuôi, và chúng có tác động lớn đến doanh thu cũng như các quyết định trong chăn nuôi của họ Do đó, chúng tôi đã chọn nghiên cứu về "Phân tích rủi ro trong chăn nuôi lợn ở Huyện Nam Sách - tỉnh Hải Dương".
Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích rủi ro trong chăn nuôi lợn tại huyện Nam Sách nhằm đề xuất các giải pháp hiệu quả để giảm thiểu thiệt hại cho người chăn nuôi trong bối cảnh hiện tại.
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về rủi ro trong chăn nuôi lợn
- Thực trạng chăn nuôi lợn của các hộ nông dân huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương
- Nghiờn cứu cỏc loại rủi ro và mức ủộ thiệt hại mà người chăn nuụi ủó gặp phải
- Phõn tớch nguyờn nhõn dẫn ủến cỏc loại rủi ro và phản ứng người dõn khi gặp rủi ro
- ðưa ra một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong chăn nuôi ở huyện Nam Sách – tỉnh Hải Dương.
Câu hỏi nghiên cứu
1 Thực trạng chăn nuôi ở huyện Nam Sách trong mấy năm qua như thế nào?
2 Cỏc loại rủi ro người chăn nuụi ở ủõy thường phỏi ủối phú là gỡ? Thiệt hại khi cú rủi ro xảy ra ủối với từng hộ là bao nhiờu?
3 Khi có rủi ro xảy ra thì ứng xử của người chăn nuôi huyện trước rủi ro như thế nào?
4 Khi xảy ra cỏc loại rủi ro ủú thỡ nguyờn nhõn là do ủõu?
Chỳng tụi sẽ trả lời lần lượt cỏc cõu hỏi này trong nghiờn cứu sau ủõy.
ðối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Cỏc loại rủi ro trong chăn nuụi lợn trờn ủịa bàn huyện Nam Sỏch, tỉnh Hải Dương
Nghiên cứu này tập trung vào huyện Nam Sách, với ba xã có số hộ chăn nuôi nhiều nhất là Nam Hồng, Hiệp Cát và An Lâm Phạm vi nghiên cứu được xác định dựa trên thời gian và địa bàn cụ thể, nhằm đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong việc thu thập dữ liệu.
- Phạm vi về mặt thời gian: Nghiờn cứu rủi ro trong 4 năm gần ủõy, gồm năm
2007 – 2010 Chủ yếu nghiờn cứu năm 2010 ủể thu thập những thụng tin cần thiết
Nghiên cứu này tập trung vào việc phân tích các rủi ro chính có khả năng gây thiệt hại lớn về mặt kinh tế, trong khi các rủi ro nhỏ hơn, có ảnh hưởng không đáng kể, sẽ được xem xét trong các nghiên cứu tiếp theo nhằm hoàn thiện hơn nội dung nghiên cứu.
II – TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
Rủi ro
2.1.1 Khái niệm về rủi ro (Risk)
Theo PGS.TS Đoàn Thị Hồng Võ, hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất về rủi ro, vì tùy thuộc vào từng trường phái và tác giả khác nhau mà có những định nghĩa khác nhau Các định nghĩa này rất đa dạng và phong phú, nhưng có thể chia thành hai trường phái chính: trường phái truyền thống (hay còn gọi là trường phái tiêu cực) và trường phái trung hòa.
Trường phái truyền thống (trường phái tiêu cực)
Theo cách nghĩ truyền thống, rủi ro được định nghĩa là những thiệt hại, mất mát, nguy hiểm và các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc những vấn đề không chắc chắn có thể xảy ra đối với con người Trong lĩnh vực này, có nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro.
- “Rủi ro là ủiều khụng lành, khụng tốt bất ngờ xảy ủến” (Từ ủiển tiếng Việt 1995)
- “Rủi ro (ủồng nghĩa với rủi) là sự khụng may (Từ ủiển từ và ngữ Việt Nam năm 1998)
- “Rủi ro là gặp nguy hiểm hoặc bị ủau ủớn, thiệt hại…” (Từ ủiển Oxford)
Rủi ro được định nghĩa là sự bất trắc có thể dẫn đến mất mát hoặc hư hại, và thường liên quan đến các yếu tố nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc chắn.
Trong lĩnh vực kinh doanh, tác giả Hồ Diệu định nghĩa rằng rủi ro là sự tổn thất về tài sản hoặc là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận dự kiến.
- Hoặc “Rủi ro là sự bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp”
Trường phỏi trung hũa: Theo trường phỏi này cú một số ủịnh nghĩa như sau:
- “Rủi ro là sự bất trắc cú thể ủo lường ủược” ( Frank Knight)
- “Rủi ro là sự bất trắc cú thể liờn quan ủến sự xuất hiện những biến ủổi khụng mong ủợi” (Allan Willett)
- “Rủi ro là một tổng hợp ngẫu nhiờn cú thể ủo lường ủược bằng xỏc suất” (Irving
- “Rủi ro là giỏ trị và kết quả mà hiện thời chưa biết ủến”
Rủi ro được định nghĩa là những biến động tiềm ẩn trong kết quả, xuất hiện trong hầu hết các hoạt động của con người Khi có rủi ro, việc dự đoán chính xác kết quả trở nên khó khăn Sự hiện diện của rủi ro gây ra sự bất ổn, và nguy cơ này có thể xảy ra bất cứ lúc nào, dẫn đến khả năng hoặc mất mát không thể đoán trước.
2.1.2 Khái niệm rủi ro và không chắc chắn trong nông nghiệp
Theo TS Bùi Thị Gia, trong lĩnh vực nông nghiệp, rủi ro được hiểu là những tổn thất và bất trắc có thể xảy ra, dẫn đến khả năng không đạt được kết quả mong muốn, và những rủi ro này thường có thể được ước lượng.
P H Callkin và cộng sự của ụng (1983) núi rằng F H Knight (1921) ủó phõn biệt giữa rủi ro (risk) và không chắc chắn (Uncertainty) Theo Knight, rủi ro tồn tại khi người sản xuất biết vùng kết quả (Outcome) có khả năng xảy ra và xác suất của vùng kết quả ủối với quyết ủịnh của anh ta Ngược lại sự khụng chắc chắn xảy ra khi cỏc kết quả hoặc sự kiện (event) xảy ra và xác suất của chúng không biết Thông thường không chắc chắn bao gồm các sự cố thỉnh thoảng xảy ra như lũ lụt của một con sông hay cái chết của một con bũ ủực ủỏng giỏ…
R D Kay (1988) cho rằng nhiều tác giả phân biệt giữa rủi ro và không chắc chắn Rủi ro được định nghĩa là tình trạng mà trong đó tất cả các kết quả có khả năng xảy ra và xác suất của chúng là điều mà người ra quyết định có thể biết trước.
Không chắc chắn là trạng thái mà các kết quả tiềm năng và xác suất không được biết trước khi đưa ra quyết định quản lý Trong bối cảnh này, hầu hết các quyết định trong nông nghiệp có thể được phân loại thành rủi ro và không chắc chắn.
J B Hardaker (1997) cho rằng rủi ro và khụng chắc chắn cú thể ủịnh nghĩa theo nhiều cỏch khỏc nhau, song cỏch phõn biệt thụng thường ủú là: Rủi ro là sự biết khụng hoàn hảo về kết quả có khả năng xảy ra và xác suất của nó, còn không chắc chắn là là kết quả có khả năng xảy ra và xác suất của nó là không biết trước
Sự phân biệt giữa rủi ro và sự không chắc chắn là rất quan trọng đối với nhà quản lý sản xuất nông nghiệp Rủi ro thuần túy hiếm khi xảy ra do khó xác định xác suất thực Do đó, các nhà quản lý thường phải đưa ra quyết định trong môi trường không chắc chắn, nghĩa là mọi quyết định đều tiềm ẩn rủi ro Mặc dù không biết xác suất thực, các nhà quyết định vẫn sử dụng các xác suất chủ quan để hỗ trợ cho quá trình ra quyết định Điều này giải thích tại sao hai nhà quản lý có thể đối mặt với cùng một vấn đề trong điều kiện giống nhau nhưng lại đưa ra những quyết định khác nhau, do kinh nghiệm, kiến thức và thông tin sẵn có của họ dẫn đến những xác suất chủ quan khác nhau.
2.1.3 Rủi ro trong nông nghiệp
Trong nhiều thập kỷ qua, nghiên cứu về rủi ro trong nông nghiệp đã phát triển mạnh mẽ, tập trung chủ yếu ở các nước có nền nông nghiệp phát triển như Mỹ, EU, Canada và Australia Các nghiên cứu này chủ yếu xem xét tác động của các yếu tố ngoại vi như thời tiết, thiên tai và dịch bệnh đến sản xuất nông nghiệp, cũng như việc lựa chọn quyết định sản xuất trong điều kiện rủi ro Bên cạnh đó, các phương pháp xác định rủi ro và sự cần thiết phải can thiệp của chính phủ trong sản xuất nông nghiệp cũng được nhấn mạnh Đặc biệt, đóng góp quan trọng trong lĩnh vực này phải kể đến công trình của Arrow (1971) và Just.
(1979, 1981, 1986), Anderson và các cộng sự (1971, 1979, 1983, 1984), Gardner và các cộng sự (1984, 1985), Walker (1986) và nhiều tác giả khác
Nghiên cứu về rủi ro trong nông nghiệp đã mở rộng cả về phạm vi và đối tượng, đặc biệt là trong sản xuất nông nghiệp ở các nước thế giới thứ ba với những đặc thù riêng Các yếu tố như sự biến động của thị trường, tác động qua lại và ảnh hưởng tổng hợp của các loại rủi ro đối với lựa chọn chính sách của chính phủ, cùng với các phương pháp tiếp cận mới về rủi ro và đánh giá lại các chương trình giảm thiểu rủi ro của chính phủ, đang được nhiều học giả và tổ chức nghiên cứu quan tâm Ngoài ra, nghiên cứu rủi ro không chỉ tập trung vào người sản xuất mà còn hướng đến các tác động do biến đổi khí hậu toàn cầu và những rủi ro tiềm ẩn đối với sức khỏe cộng đồng Những đóng góp quan trọng trong giai đoạn này đến từ Anderson và các cộng sự (1988, 1990).
(1996, 1998), Huirne và các cộng sự (1997, 200), Dehm (2000), Glauber và Narod
(2001), Skees (2001), Moschini và Hennessy (2001), World Bank (2000, 2001) và nhiều tổ chức, học giả khác
Các nghiên cứu về rủi ro trong nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và áp dụng các chiến lược cũng như công cụ quản lý rủi ro Những nghiên cứu này đã được thực hiện thành công ở nhiều quốc gia, giúp nâng cao khả năng ứng phó với những thách thức trong lĩnh vực nông nghiệp.
Rủi ro được xem là yếu tố nội tại trong nông nghiệp và nông thôn Việt Nam Tuy nhiên, nghiên cứu về rủi ro trong lĩnh vực này còn hạn chế và chưa được công bố nhiều Thông tin về rủi ro nông nghiệp chủ yếu được tìm thấy trong các báo cáo điều tra hoặc báo cáo phát triển của các tổ chức.
Chăn nuôi lợn
2.2.1 Thực trạng chăn nuôi lợn ở Việt Nam
Theo TS ðinh Xuân Tùng (Viện chăn nuôi) trong vòng 15 năm qua (1993 –
Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi Việt Nam đã tăng trưởng 6,3% vào năm 2007, vượt qua mức tăng trưởng 5,0% của ngành trồng trọt Điều này đã làm thay đổi đáng kể tỷ lệ đóng góp của ngành chăn nuôi vào tổng giá trị nông nghiệp Năm 1995, Việt Nam đứng thứ 14 thế giới về sản lượng thịt lợn hơi, nhưng đến năm 2008, đã vươn lên vị trí thứ 6, góp phần vào sự phát triển của ngành nông nghiệp và giảm lượng thịt lợn nhập khẩu Tuy nhiên, quy mô chăn nuôi ở Việt Nam vẫn còn nhỏ và tăng trưởng chậm, với tỷ lệ các cơ sở chăn nuôi có quy mô trên 6 con chỉ tăng từ 2,18% vào năm 1994 lên 7,85% vào năm 2008.
Năm 2002, cả nước có 548 trang trại chăn nuôi lợn, chủ yếu tập trung ở vùng Đông Nam Bộ, tiếp theo là vùng Đồng Bằng Sông Hồng và Đồng Bằng Sông Cửu Long Đến năm 2006, số lượng trang trại chăn nuôi lợn đã tăng lên 7.475, tương đương với mức tăng khoảng 13,6 lần chỉ trong vòng 5 năm, theo số liệu từ Cục Chăn nuôi.
Từ năm 1998 đến 2007, số lượng lợn nuôi tại Việt Nam tăng gần 50%, từ khoảng 18 triệu con lên 26 triệu con Tổng đàn lợn đã có sự gia tăng liên tục từ 1998 đến 2005, tuy nhiên, đã xuất hiện xu hướng giảm nhẹ trong hai năm 2005 và 2006.
Chăn nuôi lợn đóng vai trò quan trọng nhất trong ngành chăn nuôi, đặc biệt khi xét về thu nhập, với thịt lợn chiếm hơn 70% tiêu thụ thịt Eprecht (2005) đã chứng minh mối liên hệ giữa thu nhập từ chăn nuôi lợn và sự nghèo đói ở Việt Nam Tương tự, Tựng và cộng sự (2003) chỉ ra rằng ngành chăn nuôi lợn có tác động mạnh mẽ đến thu nhập và tạo công ăn việc làm cho cư dân nông thôn Trong bối cảnh dân số gia tăng và diện tích trồng trọt hạn chế, chăn nuôi lợn được coi là lựa chọn thuận lợi cho các hộ nông dân (Thuận và cộng sự, 2000).
Theo Maltsoglou và Rapsomanikis (2005), năm 1998 có khoảng gần một nữa số hộ dân chăn nuôi lợn (47,6%) Tuy nhiên theo ước tính của Bộ NN&PTNT và UNDP
(2003) (trích bởi Huyền và cộng sự, 2006), ở Việt Nam có khoảng 71% số hộ dân sống ở nông thôn nuôi lợn
Trong 10 năm qua, tổng số lợn đã tăng 4,6%, tuy nhiên năng suất chăn nuôi lợn của nông hộ vẫn còn thấp Hải và Pryor (1996) chỉ ra rằng sự phát triển chăn nuôi lợn bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chính sách chưa phù hợp, hệ thống giống chưa hiệu quả, thiếu chế tài quản lý thị trường tiêu thụ và tình trạng vệ sinh môi trường kém.
Mật độ lợn trong các vùng ở Việt Nam có sự chênh lệch rõ rệt, với trung bình 828 con lợn/ha diện tích chăn nuôi tự nhiên Vùng Đồng Bằng Sông Hồng dẫn đầu với 4.993 con/ha, gấp 6 lần mức trung bình cả nước, tiếp theo là Đồng Bằng Sông Cửu Long với 942 con/ha, trong khi vùng Tây Nguyên chỉ có 290 con/ha Mật độ lợn nuôi cũng tăng nhanh, đặc biệt ở Đông Nam Bộ với mức tăng 7,6%, tiếp theo là Tây Nguyên, trong khi Nam Trung Bộ có mức tăng thấp nhất là 2,6%.
Theo nghiên cứu của Phil (2007), vào năm 2006, chăn nuôi lợn nhỏ lẻ tại các hộ gia đình ở Việt Nam chiếm 64% tổng sản lượng thịt hơi, trong khi chăn nuôi hàng hóa chỉ chiếm 36% Đặc biệt, chăn nuôi quy mô lớn chỉ đóng góp 6% vào tổng sản lượng thịt hơi của cả nước So với Thái Lan, tỷ lệ chăn nuôi hộ gia đình ở Việt Nam chỉ chiếm 10% tổng sản lượng thịt hơi.
Trong vòng 6 năm qua, số lượng trang trại chăn nuôi lợn trên toàn quốc đã tăng 13,6 lần, với khu vực Bắc Trung Bộ ghi nhận mức tăng cao nhất là 123,7 lần Năm 2005, tỷ lệ lợn thịt nuôi theo hình thức gia trại và trang trại đạt 16,5% tổng đàn Sự phát triển của kinh tế trang trại đang trở thành xu hướng chính trong các chính sách của chính phủ đối với ngành chăn nuôi.
Bảng 2.3: Tốc ủộ phỏt triển sản lượng thịt lợn (%)
( Nguồn: Tùng và cộng sự, 2008 )
Tăng trưởng hàng năm (%) Vùng Năm 2007
Sản lượng thịt lợn của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm qua, từ vị trí thứ 14 thế giới vào năm 1995 lên thứ 5 vào năm 2007 Nhiều yếu tố đã góp phần vào sự phát triển này, bao gồm số lượng lợn nuôi trong hộ gia đình tăng, năng suất chăn nuôi cải thiện, tỷ lệ lợn siêu nạc gia tăng, và sự gia tăng số lượng trang trại chăn nuôi Bên cạnh đó, chính sách phát triển chăn nuôi cũng có tác động tích cực đến ngành sản xuất thịt lợn.
Chăn nuôi lợn tại Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, với tổng đàn lợn đứng thứ 8 trên thế giới vào năm 1995 Chỉ sau 9 năm, vị trí của Việt Nam đã vươn lên thứ 6 và đến năm 2007, nước ta đã đạt thứ hạng thứ 5 toàn cầu Điều này cho thấy tốc độ phát triển ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam nhanh chóng hơn so với nhiều quốc gia khác.
Bảng 2.4: Tổng số lượng ủàn lợn của cỏc nước trờn thế giới ðvt: Tr.con
Tên quốc gia 1995 Tên quốc gia 2004 Tên quốc gia 2007
Trung Quốc 424,787 Trung Quốc 472,895 Trung Quốc 501,582
Nga 24,859 ðức 26,495 ðức 26,530 ðức 24,698 Tây Ban Nha 23,990 Việt Nam (5) 26,500
Ba Lan 20,417 Việt Nam (6) 23,500 Tây Ban Nha 26,034
Mặc dù đứng thứ 6 về số lượng lợn, nhưng vào năm 1995, sản lượng thịt lợn của Việt Nam chỉ xếp thứ 14 trên thế giới Đến năm 2005, Việt Nam đã vươn lên vị trí thứ 7 về sản lượng thịt lợn, cho thấy sự phát triển đáng kể Đặc biệt, vào năm 2007, Việt Nam đứng thứ 5 về số lượng lợn và thứ 6 về sản lượng thịt lợn, điều này chứng tỏ ngành chăn nuôi lợn đang phát triển mạnh mẽ và được chú trọng Cần có các biện pháp để duy trì và tăng cường sản lượng thịt lợn nhằm tương xứng với số lượng đàn lợn hiện có.
Giá thành sản xuất lợn ở các nước trên thế giới thấp hơn so với Việt Nam, điều này tạo ra sức cạnh tranh lớn cho thị trường lợn.
Trong hai năm qua, ngành chăn nuôi lợn ở Việt Nam đã gặp nhiều khó khăn do dịch bệnh và giá thức ăn chăn nuôi tăng cao, dẫn đến sự gia tăng lượng thịt lợn nhập khẩu Năm 2008, tổng giá trị nhập khẩu thịt lợn đạt khoảng 50 triệu USD, trong khi giá trị xuất khẩu chỉ đạt 30 triệu USD Dự báo đến năm 2012, Việt Nam sẽ cần nhập khoảng 191,9 nghìn tấn thịt lợn, tương đương với mỗi người dân tiêu thụ khoảng 2 kg thịt lợn nhập khẩu.
Bảng 2.5: Giá thành sản xuất thịt lợn một số nước trên thế giới
(US$/kg thịt lợn hơi)
Chi phí khác (US$/kg thịt lợn hơi)
Tổng chi phí (US$/kg thịt lợn hơi)
Tổng CP/kg móc hàm
( Nguồn: Tùng và cộng sự_2008 )
Việt Nam hiện đang đối mặt với nhiều khó khăn trong ngành chăn nuôi, không chỉ ở chăn nuôi lợn mà còn ở các ngành khác như thịt gia cầm, thịt dê, cừu, do rủi ro gây ra Việc nhập khẩu thực phẩm chăn nuôi ngày càng tăng cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu và quản lý rủi ro để giúp người dân chăn nuôi giảm thiểu thiệt hại, gia tăng sản xuất và đáp ứng nhu cầu trong nước Đây là một trong những chiến lược hàng đầu hiện nay.
2.2.2 Các biện pháp giảm thiểu rủi ro trong chăn nuôi lợn ở Việt Nam
Rủi ro là điều không thể tránh khỏi trong mọi ngành nghề, và mức độ rủi ro cần được quan tâm đặc biệt Trong những năm gần đây, ngành chăn nuôi lợn đã chịu thiệt hại lớn do rủi ro, trong khi các biện pháp của chính phủ chủ yếu tập trung vào việc giảm thiểu thiệt hại Chính phủ đã cung cấp hỗ trợ để khắc phục một phần mất mát cho người nông dân khi rủi ro xảy ra Các quy định liên quan đến vấn đề này cũng được thiết lập nhằm bảo vệ người chăn nuôi.
ðặc ủiểm ủịa bàn nghiờn cứu
3.1.1 ðặc ủiểm về ủiều kiện tự nhiờn
Huyện Nam Sách, tọa lạc tại trung tâm tỉnh Hải Dương, giáp ranh với thành phố Hải Dương cùng các huyện Chí Linh, Kinh Môn, Kim Thành, Thanh Hà và Cẩm Giàng.
Huyện Lương Tài thuộc tỉnh Bắc Ninh nằm gần tỉnh Hải Dương, có vị trí địa lý thuận lợi trong tam giác kinh tế vùng Đông Bắc, cách Hà Nội 60 km, Hải Phòng 39 km và Quảng Ninh 70 km.
Thời tiết miền Bắc Việt Nam có đặc trưng với nhiệt độ trung bình khoảng 23,7°C và độ ẩm không khí dao động từ 75% đến 85% Sự ổn định của thời tiết diễn ra đều đặn trong suốt các tháng trong năm.
Vị trí địa lý và khí hậu thuận lợi tạo điều kiện cho sự phát triển chăn nuôi toàn diện, bao gồm việc tiếp cận thông tin, ứng dụng khoa học kỹ thuật và tiêu thụ sản phẩm hiệu quả.
* ðặc ủiểm về ủất ủai của huyện
Theo số liệu thống kê từ tỉnh Hải Dương, huyện Nam Sách là huyện có diện tích đất nông nghiệp nhỏ thứ hai toàn tỉnh, và diện tích này đang giảm dần qua các năm, đặc biệt là trong những năm gần đây Dựa vào đồ thị 3.1, có thể thấy rõ sự suy giảm diện tích đất nông nghiệp tại huyện Nam Sách.
Dien tich dat nong nghiep huyen Nam Sach
Nguyên nhân chính của việc giảm diện tích đất nông nghiệp là sự phát triển của công nghiệp và quá trình đô thị hóa, điều này ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân, đặc biệt là những nông dân mất đất Từ năm 2000 đến năm 2009, diện tích đất nông nghiệp đã giảm khoảng gần 1000 ha.
Sự giảm diện tích đất nông nghiệp dẫn đến sự suy giảm mạnh về diện tích các loại cây trồng, đặc biệt là cây lương thực, cây lúa và cây vụ đông, trong khi diện tích cây lâu năm không có sự thay đổi Biến động này làm thay đổi cơ cấu sản phẩm trong ngành nông nghiệp cũng như ảnh hưởng đến cơ cấu ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ của huyện.
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương) ðồ thị 3.2: Biến ủộng diện tớch ủất nụng nghiệp của huyện Nam Sỏch
3.1.2 ðặc ủiểm kinh tế - xó hội
Huyện Nam Sách có diện tích khoảng 109,1 km² và dân số trung bình năm 2009 là 111.852 người, với mật độ dân số tương đối cao.
Biến ủộng diện tớch cõy nụng nghiệp của huyện
Cây lương thực, đặc biệt là lúa, đóng vai trò quan trọng trong tỉnh và cả nước Tuy nhiên, trong 10 năm qua, dân số của huyện đã giảm mạnh, với mức giảm khoảng 18,01% chỉ trong ba năm gần đây, bắt đầu từ năm 2007 Đây là một con số đáng chú ý, cho thấy sự biến động dân số trong khu vực này.
Bảng 3.1: Biến ủộng dõn số huyện Nam Sỏch trong vũng 10 năm qua
Chỉ tiêu 2000 2005 2006 2007 2008 Sơ bộ năm 2009 Tổng dân số 136,013 137,719 138,207 136,420 113,132 111,852
- Dân số sống ở thành thị 7,542 7,858 7,840 7,987 10,790 10,235
- Số người trong tuổi lao ủộng 74,347 86,587 87,505 88,892 69,144 69,505
(Nguồn: Thống kê tỉnh Hải Dương)
Nguyên nhân giảm dân số trong những năm qua chủ yếu là do sự phát triển kinh tế và nhận thức cao hơn của người dân về kế hoạch hóa gia đình Thêm vào đó, lượng lao động di cư ra khỏi huyện và tỉnh ngày càng tăng, dẫn đến sự suy giảm mạnh của dân số Năm 2009, tỷ lệ người trong độ tuổi lao động chiếm 62,14% tổng dân số huyện, tạo ra một lực lượng lao động dồi dào Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra nhiều thách thức trong việc giải quyết vấn đề việc làm.
* Tình hình phát triển kinh tế
Hải Dương là một tỉnh phỏt triển mạnh ở ủồng bằng sụng Hồng với GDP năm
2009 khoảng 12.195 tỷ ủồng, trong ủú GDP theo lĩnh vực kinh tế ủược thể hiện qua ủồ thị 3.3
Nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản vẫn đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP của tỉnh, mặc dù trong 5 năm qua tỷ lệ này đã giảm nhưng không đáng kể Diện tích nông nghiệp giảm mạnh, tuy nhiên giá trị sản xuất nông nghiệp lại tăng, cho thấy năng suất ngày càng cao và sự thâm canh cây trồng cũng đang diễn ra nhanh chóng.
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010 tỉnh Hải dương) ðồ thị 3.3: Cơ cấu GDP phân theo khu vực kinh tế (Giá Thực tế) (%)
Nam Sách hiện có số lượng trang trại nhiều nhất so với các huyện khác, nhưng trong hai năm qua, số lượng này đã giảm mạnh, khiến huyện tụt xuống vị trí thứ 7 trong 12 huyện của tỉnh.
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2010 tỉnh Hải dương) ðồ thị 3.4: Số lượng trang trại của huyện qua 5 năm
Số lượng trang trại của các huyện qua 5 năm
Hải D−ơng Chí Linh Nam Sách Kinh Môn
Kim Thành Thanh Hà Cẩm Giàng Bình Giang
Gia Lộc Tứ Kỳ Ninh Giang Thanh Miện
Phương pháp nghiên cứu
3.2.1 ðể hiểu rừ hơn quỏ trỡnh nghiờn cứu tụi ủó thực hiện theo khung phõn tớch sau:
Khung phân tích núi lờn quá trình nghiên cứu đề tài được thực hiện nhằm mục tiêu phân tích rủi ro trong chăn nuôi lợn ở huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương Nội dung tiếp cận bao gồm hệ thống hóa cơ sở lý luận về rủi ro, những thành tựu mà các nước đạt được, cũng như hạn chế trong các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam và một số quốc gia khác Để giải quyết nội dung này, chúng tôi đã tiếp cận và tìm hiểu các sách, báo, tạp chí, bài báo cáo trong nước và quốc tế về rủi ro, tài liệu từ thư viện và trang web Các tiêu chí về khái niệm, phân loại rủi ro, đặc điểm chăn nuôi lợn trong nước và thế giới, cũng như biến động về số lượng và giá cả sẽ được xem xét kỹ lưỡng.
Nội dung nghiên cứu tập trung vào địa bàn và tình hình kinh tế xã hội của huyện Nam Sách, nhằm xác định những thuận lợi và khó khăn trong phát triển chăn nuôi lợn Để thực hiện điều này, chúng tôi đã tiếp cận thông tin từ UBND huyện và ba xã Nam Hồng, Hiệp Cát và An Lâm, cùng với số liệu từ phòng nông nghiệp, văn phòng, phòng địa chính, thú y và khuyến nông của huyện và xã Các chỉ tiêu được xem xét bao gồm diện tích, năng suất, dân số, mức sống, phát triển cơ sở hạ tầng và số lượng các loại vật nuôi trong huyện qua các năm.
Nội dung nghiên cứu tập trung vào thực trạng chăn nuôi lợn của các hộ nông dân tại ba xã, phân tích các loại rủi ro mà họ gặp phải và mức độ xảy ra của những rủi ro này Đối tượng khảo sát bao gồm 120 hộ chăn nuôi lợn được chọn ngẫu nhiên, cùng với các cán bộ khuyến nông và thú y trong khu vực Các chỉ tiêu được xem xét bao gồm số lượng lợn, thu nhập, chi phí hàng năm và thiệt hại do rủi ro gây ra Phương pháp thu thập dữ liệu thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình chăn nuôi lợn và phản ứng của người dân khi gặp rủi ro.
Sơ ủồ 3.1: Khung phõn tớch
Phân tích rủi ro trong chăn nuôi lợn của các hộ chăn nuôi huyện
- Cơ sở lý luận và thực tiễn về rủi ro
- Thực trạng phát triển CN lợn trong nước và thế giới.
Những phương pháp phân tích rủi ro hiện nay
- Thực trạng CN & rủi ro của hộ chăn nuôi lợn ở NS
- Mức ủộ rủi ro & nguyờn nhân xảy ra rủi ro
- Thỏi ủộ của người dõn khi gặp rủi ro
Sách, báo, tạp chí, các trang Web về rủi ro và chăn nuôi trong nước và trên thế giới.
Nghiên cứu tại sách, báo, tạp chí về phương pháp phân tích rủi ro trong và ngoài nước.
Hộ nụng dõn: Trờn ủịa bàn
3 xã, mỗi xã lấy ngẫu nhiên 40 hộ Lập phiếu ủiều tra bảng hỏi, phỏng vấn trực tiếp
- Khái niệm rủi ro, phân loại rủi ro, rủi ro trong NN Quản trị rủi ro trên thế giới và VN Biến ủộng về SL, giỏ lợn …
- Ưu nhược ủiểm của cỏc phương pháp
- Sô lượng CN của hộ, quy mô chăn nuôi, thu nhập, chi phí từ chăn nuôi
- Các loại rủi ro thường gặp, mức thiệt hại, Cách xử lý khi gặp rủi ro…
3.2.2 Các phương pháp sử dụng
3.2.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
Dữ liệu được thu thập từ các báo cáo nghiên cứu trước đây, Cục Thống kê và các phòng thống kê tại tỉnh, huyện, xã, nhằm tổng kết hàng năm về các vấn đề kinh tế - xã hội.
Phương pháp chọn điểm nghiên cứu sẽ thu thập thông tin sơ cấp thông qua điều tra mẫu theo tỷ lệ, dựa trên vựng và trọng điểm liên quan đến chăn nuôi lợn cũng như các yếu tố rủi ro trong lĩnh vực này.
Nghiên cứu điều tra về chăn nuôi và rủi ro trong quá trình chăn nuôi được thực hiện trên ba xã đại diện của huyện Nam Sách, gồm Nam Hồng, Hiệp Cót và An Lõm Đối tượng khảo sát bao gồm các hộ chăn nuôi, cán bộ thú y địa phương, cán bộ khuyến nông và các cán bộ quản lý cấp địa phương Để đảm bảo tính đại diện và phản ánh đúng thực trạng chăn nuôi, nghiên cứu đã tiến hành điều tra 120 mẫu, với mỗi xã 30 mẫu đại diện Các mẫu sẽ được chọn ngẫu nhiên, đồng thời có sự chọn lọc trong các hộ chăn nuôi lợn.
Phương pháp điều tra theo bộ câu hỏi phỏng vấn thu thập số liệu chưa qua xử lý từ các hộ nông dân, bao gồm các vấn đề về kinh tế gia đình, tình hình chăn nuôi, doanh thu, chi phí, loại rủi ro gặp phải và phản ứng khi có rủi ro xảy ra, nhằm phục vụ cho quá trình nghiên cứu.
Nghiên cứu được thực hiện trên tất cả các hộ chăn nuôi lợn tại huyện Nam Sách, với phương pháp thu thập dữ liệu vừa ngẫu nhiên vừa có tính chọn lọc, nhằm đảm bảo tính đa dạng và phản ánh đúng thực trạng chăn nuôi trong khu vực.
3.2.2.2 Phương phỏp phõn tớch cõy vấn ủề
Câu vấn đề là công cụ phân tích giúp mô tả mối quan hệ nguyên nhân – hậu quả giữa các vấn đề Các mối quan hệ này sẽ được thể hiện qua nhiều tầng khác nhau.
Một vấn đề thường vừa là nguyên nhân gây ra một hậu quả, vừa là kết quả của một vấn đề khác Trong mỗi vấn đề, có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân lớn và nhỏ, được thể hiện qua cấu trúc cây vấn đề.
Trong một cây vấn đề, nguyên nhân gây ra các vấn đề chủ yếu nằm ở bộ rễ, trong đó rễ chính là nguyên nhân chính, còn các rễ nhỏ là những nguyên nhân phụ Trên cùng của cấu trúc này là kết quả, với nhiều kết quả khác nhau, bao gồm kết quả trước và kết quả sau, tất cả tạo nên cây vấn đề.
Rủi ro trong chăn nuôi lợn xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có những nguyên nhân chính và những yếu tố nhỏ hơn Những yếu tố này có thể dẫn đến các kết quả khác nhau trong quá trình nuôi dưỡng.
Trong chăn nuôi lợn, xảy ra rất nhiều loại rủi ro gây thiệt hại lớn cho hộ gia ủỡnh
Các kết quả khác nhau:
3.2.2.3 Phương pháp phân tích rủi ro
Rủi ro trong chăn nuụi ảnh hưởng nhiều mặt ủến ủời sống của người chăn nuụi
Do ủú cần tiến hành phõn tớch rủi ro, một trong những bước quan trọng trong quỏ trỡnh quản trị rủi ro
Phân tích rủi ro là quá trình xác định các loại rủi ro có thể xảy ra, đánh giá mức độ thiệt hại, tìm hiểu nguyên nhân gây ra rủi ro và xây dựng chiến lược phản ứng phù hợp cho người chăn nuôi với từng loại rủi ro.
Xỏc ủịnh cỏc loại rủi ro
- Những rủi ro nào thường phỏt sinh ủối với chăn nuụi lợn
- Xỏc ủịnh loại rủi ro nào là chớnh và nguy cơ xảy ra cỏc loại rủi ro mới
- Thời gian duy trì từng loại rủi ro là bao lâu ðo lường mức ủộ thiệt hại
- Ảnh hưởng của rủi ro ủú ủến hộ chăn nuụi là trực tiếp hay giỏn tiếp
- Mức ủộ thiệt hại là bao nhiờu ủối với từng loại rủi ro
- Thiệt hại về rủi ro ủú kộo theo thiệt hại về loại rủi ro nào
Nguyên nhân xảy ra rủi ro
- Nguyờn nhõn ủú ủến từ phớa người chăn nuụi và ủến từ phớa tỏc nhõn khỏc
- Cỏc nguyờn nhõn này cú thể tự khắc phục ủược hay khụng
- ðối với các hộ nông dân thì thường phòng rủi ro hay chống rủi ro
- Cỏc biện phỏp ủú thường ủược thực hiện như thế nào? Chớnh thụng hay phi chính thống…
3.2.2.4 Phương pháp phân tích khác
Phương pháp thống kê mô tả cho phép phân loại các hộ chăn nuôi lợn ở Việt Nam dựa trên quy mô chăn nuôi Chúng tôi chia thành ba nhóm: quy mô nhỏ (1-20 con), quy mô vừa (20-50 con) và quy mô lớn (trên 50 con) Phân loại này giúp so sánh mức độ rủi ro xảy ra và nguyên nhân gây ra rủi ro cho từng quy mô khác nhau trong ngành chăn nuôi lợn.
Phương pháp so sánh là công cụ hữu ích để đánh giá mức độ rủi ro giữa các quy mô khác nhau và qua các năm Nó cũng cho phép phân tích mối tương quan giữa các loại rủi ro và biến động của chúng, từ đó giúp đưa ra những quyết định chính xác hơn trong quản lý rủi ro.
3.2.3 Các chỉ tiêu nghiên cứu
Tình hình chăn nuôi tại huyện Nam Sách – Hải Dương
Chăn nuôi là một nghề truyền thống và mang lại thu nhập cao cho người nông dân ở miền Bắc, đặc biệt là tại huyện Nam Sách Sự phát triển kinh tế toàn tỉnh và ảnh hưởng từ nhiều yếu tố khác đã dẫn đến sự biến đổi trong cơ cấu chăn nuôi.
Theo số liệu, số lượng các loại gia súc gia cầm có sự biến động khác nhau Lượng trâu giảm mạnh, trong khi số lượng đàn bò lại tăng từ 2005 đến 2007 Đối với đàn lợn, số lượng tăng mạnh từ năm 1995 đến 2006, đạt đỉnh gần 120 nghìn con, nhưng sau đó giảm gần một nửa Tuy nhiên, sản lượng lợn xuất chuồng lại tăng gấp 3 lần sau gần 15 năm nhờ vào năng suất cải thiện và quá trình đầu tư về kỹ thuật, vốn, và cơ sở hạ tầng Sản lượng thịt lợn cũng tăng mạnh từ khoảng 3 nghìn tấn năm 1995 lên gần 8 nghìn tấn năm 2009.
Bảng 4.1 Thực trạng phát triển chăn nuôi ở huyện Nam Sách ðVT: Con
Cơ cấu chăn nuôi 1995 2000 2005 2006 2007 2008 2009 đàn trâu 6,060 4,154 1,292 1,037 717 590 545 đàn bò 4,434 4,389 8,070 9,587 9,320 5,981 4,677 đàn lợn 44,431 58,964 85,650 101,969 72,525 67,677 61,058 đàn gia cầm 511,557 724,500 698,583 683,336 680,017 548,378 554,776 Sản lượng thịt hơi xuất chuồng (tấn) 3,654 5,012 10,871 11,875 9,855
Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuống (tấn) 2,842 4,022 8,011 9,416 9,109 9,808 7,954 Sản lượng thủy sản (tấn)
(Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Hải Dương)
Trong gần 15 năm qua, sản lượng thủy sản đã tăng trưởng mạnh mẽ, gấp hơn 4 lần so với năm 1995 Đây được coi là một trong những thành tựu đáng mừng của ngành chăn nuôi tại huyện.
Nam Sách hiện đang là một trong những huyện có số lượng đàn lợn giảm mạnh nhất tỉnh Xu hướng giảm này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm dịch bệnh xảy ra thường xuyên, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao trong khi giá thịt lợn tăng chậm, cùng với sự công nghiệp hóa và đô thị hóa nhanh chóng trong huyện Những yếu tố này đã góp phần làm giảm nhanh số lượng đàn lợn tại Nam Sách và các huyện khác trong tỉnh.
(Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Hải Dương năm 2010) ðồ thị 4.1 Xu hướng biến ủộng ủàn lợn ở cỏc huyện trong 10 năm qua
Nam Sỏch là huyện có số lượng đàn gia súc lớn tại tỉnh Hải Dương, với quy mô chăn nuôi tăng mạnh trong những năm gần đây Đặc biệt, chăn nuôi quy mô vừa và lớn phát triển đáng kể, dẫn đến lượng thịt tiêu thụ cũng gia tăng Điều này cho thấy sự chuyển mình của ngành chăn nuôi theo hướng hàng hóa, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho người chăn nuôi trong huyện.
Biến ủộng ủàn lợn ở cỏc huyện của tỉnh trong 10 năm qua
Hải Dương Chí Linh Nam Sách Kinh Môn Kim Thành Thanh Hà
Cẩm Giàng Bình Giang Gia Lộc Tứ Kỳ Ninh Giang Thanh Miện
Quy mô nhỏ Quy mô vừa Quy mô lớn Quy mô
Quy mô chăn nuôi ở huyện Nam Sách
(Nguồn: Tổng hợp theo số liệu ủiều tra) ðồ thị 4.2: Quy mô chăn nuôi ở huyện Nam Sách
Theo điều tra, chăn nuôi hiện chiếm tỷ lệ lớn nhất tại địa phương, với hơn 50% hộ gia đình tham gia Các hộ chăn nuôi từ 20 đến 50 con/lứa phù hợp với diện tích đất, lao động và điều kiện kinh tế, đồng thời mang lại thu nhập ổn định Những hộ này thường áp dụng nhiều phương thức chăn nuôi khác nhau, chủ yếu là hình thức bán công nghiệp, cho phép họ kết hợp với các hoạt động kinh tế khác Theo ý kiến của các hộ chăn nuôi, phương thức này giúp họ vừa chăn nuôi hiệu quả vừa tăng cường thu nhập.
Quy mô chăn nuôi nhỏ hiện vẫn chiếm khoảng 31%, mặc dù đã giảm nhiều trong những năm qua Hình thức này mang lại nhiều lợi ích cho các hộ nông dân, cho phép họ chăn nuôi kết hợp, tận dụng thức ăn thừa và tự chế biến Điều này giúp duy trì hiệu quả kinh tế tốt cho những gia đình có điều kiện kinh tế hạn chế, khi chăn nuôi không phải là nguồn thu nhập chính mà chỉ là một phần trong các hoạt động kinh tế khác Hơn nữa, họ có thể thực hiện chăn nuôi ngay trong khu dân cư mà không cần đầu tư nhiều.
Chăn nuôi quy mô lớn với 50 con/lứa đang dần gia tăng, nhưng chỉ chiếm khoảng 16% tổng số hộ được khảo sát Các hộ chăn nuôi này chủ yếu là trang trại, áp dụng hình thức công nghiệp và cách xa khu dân cư Tuy nhiên, do điều kiện khó khăn và ô nhiễm môi trường từ chăn nuôi, quy mô chăn nuôi lớn hiện nay đang gặp nhiều hạn chế.
Diện tích đất sử dụng cho chăn nuôi ở huyện Nam Sách chủ yếu là đất thổ cư từ các hộ gia đình, với diện tích trung bình cho hộ chăn nuôi nhỏ chỉ khoảng 500 m², hộ chăn nuôi vừa khoảng 600 m² và hộ chăn nuôi lớn khoảng 800 m² Diện tích này quá nhỏ để đáp ứng nhu cầu chăn nuôi và sinh hoạt của gia đình, dẫn đến nguy cơ ảnh hưởng đến vệ sinh môi trường xung quanh do chất thải chăn nuôi Tình trạng này là một thách thức lớn đối với quy mô chăn nuôi hiện tại và ảnh hưởng trực tiếp đến việc sản xuất hàng hóa chăn nuôi của huyện.
Bảng 4.2: Tình hình chăn nuôi của các hộ ở huyện Nam Sách theo quy mô
Chỉ tiêu ðVT QM nhỏ
- Tổng số lợn thịt/lứa Con 14 31 115
- Tổng số lứa lợn thịt/năm Lứa 2.5 3 3
- Thời gian nuôi một lứa lợn thịt Tháng 4 4 3.75
- Số lợn thịt nuôi sau dịch (lứa) Con 11 29 80
- Tổng số con/lứa/nái Con 10 11 12
- Số lứa con/năm Lứa 2 2 2
- Thời gian nuôi lợn con Tháng 2 2 2
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu ủiều tra)
Các hộ chăn nuôi có kinh nghiệm lâu năm, từ 5 năm trở lên, thường có khả năng phòng và chống rủi ro tốt hơn so với những hộ mới bắt đầu Tại huyện, không có hộ chăn nuôi lớn nào có kinh nghiệm dưới 5 năm, cho thấy tầm quan trọng của kinh nghiệm trong ngành chăn nuôi.
Bảng 4.3: Kinh nghiệm nuôi lợn theo từng vùng khác nhau ðVT: %
(Nguồn: Tổng hợp từ phiếu ủiều tra)
Hầu hết các hộ chăn nuôi có kinh nghiệm nuôi quy mô từ 20 – 50 con, chiếm 46% số hộ được khảo sát, trong khi 30% có kinh nghiệm nuôi quy mô nhỏ và 24% chăn nuôi từ 51 con trở lên, tức là quy mô lớn Cụ thể, 31,46% số hộ chăn nuôi quy mô nhỏ, 52,81% quy mô vừa và 15,73% quy mô lớn Đặc biệt, nhiều hộ chăn nuôi quy mô lớn đã phải thu hẹp quy mô do dịch bệnh tai xanh kéo dài trong 4 năm qua Để đối phó với rủi ro, người chăn nuôi đã chuyển sang mô hình kết hợp giữa gia súc và gia cầm, cũng như giữa chăn nuôi và trồng trọt Theo ý kiến của nhiều hộ chăn nuôi, quy mô vừa vẫn đảm bảo cho họ một nguồn lợi nhuận ổn định khi rủi ro xảy ra.
* ðất ủai của ủơn vị chăn nuụi
Diện tích đất của các hộ chăn nuôi thường không lớn, trong khi các hộ quy mô nhỏ có diện tích đất nhiều hơn và chủ yếu đầu tư vào trồng trọt, tạo ra nguồn thu nhập chính Các hộ chăn nuôi vừa và lớn thường sở hữu diện tích đất thổ cư nhỏ hơn, với diện tích trung bình cho hộ quy mô vừa khoảng 548 m² và hộ quy mô lớn cũng tương tự Đối với sản xuất nông nghiệp, hộ quy mô vừa có diện tích đất khoảng 2.686 m², trong khi hộ quy mô lớn là 2.582 m².
Bảng 4.4: Diện tớch ủất cỏc hộ chăn nuụi lợn huyện Nam Sỏch ðVT: m 2
Chỉ tiêu Hộ quy mô nhỏ
- ðất sản xuất nông nghiệp 4077 2686 2582
(Nguồn: Tổng hợp từ số liệu ủiều tra)
Diện tích đất sản xuất và đất thổ cư thấp là tình trạng chung của các hộ ở huyện Nam Sách, do dân số tăng nhanh trong khi diện tích đất lại hạn chế Điều này gây ra nhiều khó khăn trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là trong ngành chăn nuôi.
Hệ thống cơ sở chăn nuôi của các hộ gia đình hiện nay đã có sự đầu tư tích cực, với hơn 90% số hộ xây dựng chuồng trại kiên cố và bán kiên cố Chăn nuôi là nguồn thu nhập chính, vì vậy các hộ chăn nuôi lớn thường đầu tư vào chuồng trại quy mô lớn, trong đó khoảng 53,33% là kiên cố, 44,44% là bán kiên cố và chỉ 2,22% là tạm bợ Dự kiến, mức độ đầu tư sẽ giảm dần theo quy mô từ lớn đến nhỏ, như thể hiện trong bảng 4.5.
Ngành chăn nuôi của huyện đang dần công nghiệp hóa nhờ vào điều kiện vị trí thuận lợi và khả năng tiếp cận thông tin cũng như thị trường tiêu thụ dễ dàng Chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp đang gia tăng và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số hộ chăn nuôi Tuy nhiên, phương thức chăn nuôi có sự khác biệt giữa các quy mô Hơn 95% hộ quy mô lớn áp dụng phương thức chăn nuôi công nghiệp và bán công nghiệp, trong khi đó, hộ quy mô vừa và nhỏ chỉ đạt gần 80%.
Bảng 4.5: Chuồng trại và phương thức chăn nuôi ðVT: % hộ
Loại chuồng QM nhỏ QM vừa QM lớn
Liền kề khu dân cư 16.13 18.11 35.56 ðịa ủiểm
Nguồn: Số liệu ủiều tra
Cỏc loại rủi ro thường gặp và mức ủộ thiệt hại trong chăn nuụi lợn
4.2.1 Cỏc loại rủi ro và mức ủộ thiệt hại theo quy mụ chăn nuụi
Rủi ro trong chăn nuôi là điều không thể tránh khỏi ở bất kỳ đơn vị nào, bất kể quy mô hay địa điểm Tuy nhiên, mức độ rủi ro có thể khác nhau giữa các đơn vị chăn nuôi, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như kinh nghiệm, kỹ thuật chăn nuôi và mức đầu tư.
Nam Sỏch là huyện chăn nuôi lớn tại tỉnh Hải Dương và miền Bắc, nhưng cũng là nơi tiềm ẩn nhiều rủi ro cho người chăn nuôi Các loại rủi ro phổ biến bao gồm rủi ro trong sản xuất, thị trường, thể chế, con người và kỹ thuật Theo điều tra và thông tin từ Cục Thú y tỉnh Hải Dương, rủi ro chủ yếu hiện nay vẫn là rủi ro trong sản xuất và rủi ro về thị trường.
Rủi ro trong sản xuất nông nghiệp có thể gây thiệt hại nghiêm trọng cho người nông dân, bao gồm các yếu tố như giống lợn không đảm bảo chất lượng, kỹ thuật phối giống kém, thức ăn chăn nuôi không đạt chuẩn, kỹ thuật chăn nuôi yếu kém và sự xuất hiện của dịch bệnh.
Theo kết quả thống kê từ bảng 4.6, trong giai đoạn 2007 – 2010, dịch bệnh là mối lo ngại hàng đầu đối với người chăn nuôi, với tần suất xuất hiện ngày càng tăng Tất cả các quy mô chăn nuôi đều bị ảnh hưởng, đặc biệt là các hộ quy mô lớn, với hơn 60% gặp phải rủi ro về dịch bệnh, gây thiệt hại trung bình hơn 17 triệu đồng/năm Trong khi đó, tỷ lệ hộ quy mô vừa gặp dịch bệnh lên tới 65%, nhưng thiệt hại trung bình chỉ khoảng 9 triệu đồng/năm Hộ quy mô nhỏ có tỷ lệ gặp dịch bệnh thấp hơn, nhưng vẫn đáng kể với trên 45%.
Bảng 4.6: Mức ủộ thiệt hại ở cỏc quy mụ khỏc nhau ở Nam Sỏch
Quy mô lớn (>50 con) Bình quân Chỉ tiêu
% hộ Thiệt hại bình quân
% hộ Thiệt hại bình quân
% hộ Thiệt hại bình quân
- Tỷ lệ thiệt hại/ doanh thu (%) 30 - 298 21 - 53 13 - 41
Qua thực tế ủiều tra ta thấy mức ủộ thiệt hại do dịch bệnh xảy ra là rất lớn, trong
Trong ba năm qua, Nam Sỏch đã trở thành tâm điểm của nhiều dịch bệnh, đặc biệt là bốn đợt dịch tai xanh liên tiếp từ năm 2007 đến 2010, gây thiệt hại ngày càng nghiêm trọng cho người chăn nuôi Ngoài ra, các bệnh thường gặp hàng ngày ở lợn cũng gây ra thiệt hại không nhỏ cho ngành chăn nuôi.
Rủi ro thị trường là thách thức lớn đối với người chăn nuôi tại Hải Dương, chủ yếu do biến động giá cả thức ăn đầu vào và giá lợn đầu ra Kết quả khảo sát cho thấy, các hộ chăn nuôi chịu thiệt hại chủ yếu từ giá lợn đầu ra, đặc biệt là đối với những hộ có quy mô vừa và lớn Trong ba năm qua, gần 43% hộ gặp rủi ro về giá đầu ra, với tỷ lệ thiệt hại tăng theo quy mô; khoảng 62% hộ quy mô lớn gặp khó khăn, trong khi đó con số này đối với hộ quy mô vừa là hơn 41% và chỉ 25% đối với hộ quy mô nhỏ Ngoài ra, các hộ chăn nuôi lớn và vừa cũng phải đối mặt với rủi ro về giá thức ăn đầu vào, trong khi hộ chăn nuôi nhỏ ít bị ảnh hưởng hơn, do họ thường tận dụng thức ăn thừa và tự chế biến, trong khi các hộ lớn chủ yếu sử dụng cám công nghiệp, khiến giá cám ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động chăn nuôi của họ.
Giống lợn và phối giống là những rủi ro đáng kể ảnh hưởng đến người chăn nuôi ở nông thôn Tỷ lệ hộ thiệt hại do rủi ro về giống lợn vượt quá 20% ở cả ba quy mô, với mức thiệt hại bình quân qua 3 năm đạt 4,5 triệu đồng/năm Đây là một con số lớn đối với người chăn nuôi.
Kết quả cho thấy, trong điều kiện rủi ro thấp, các hộ chăn nuôi lớn có thu nhập cao hơn nhiều so với hộ nhỏ Tuy nhiên, khi xảy ra rủi ro, mức độ thiệt hại của hộ lớn lại cao gấp đôi so với hộ quy mô nhỏ Các hộ chăn nuôi nhỏ thường gần gũi với khu sinh hoạt gia đình, giúp họ dễ dàng theo dõi tình hình dịch bệnh Họ cũng tận dụng thức ăn từ sản phẩm phụ nông nghiệp, dẫn đến mức độ thiệt hại thấp hơn khi dịch bệnh xảy ra Thêm vào đó, do quy mô nuôi ít, các hộ này có khả năng phục hồi hậu quả nhanh chóng hơn khi gặp dịch bệnh.
Tỷ lệ thiệt hại so với tổng doanh thu khi xảy ra rủi ro khác nhau giữa các quy mô hộ chăn nuôi Cụ thể, đối với hộ chăn nuôi lớn, tỷ lệ thiệt hại dao động từ 13% đến 41%, trong khi hộ quy mô vừa là từ 21% đến 53%, và hộ quy mô nhỏ có tỷ lệ thiệt hại từ 30% đến 298% Mặc dù tổng mức thiệt hại của hộ chăn nuôi lớn cao, nhưng tỷ lệ thiệt hại so với doanh thu lại thấp hơn nhiều so với hộ quy mô vừa và nhỏ, cho thấy rằng những hộ chăn nuôi lớn có khả năng chống chọi với rủi ro tốt hơn.
Phân tích cho thấy rủi ro dịch bệnh và thị trường là hai loại rủi ro chính, gây thiệt hại lớn nhất cho các quy mô chăn nuôi Trong trường hợp xảy ra rủi ro, các hộ chăn nuôi lớn thường chịu thiệt hại lớn nhất, nhưng tỷ lệ thiệt hại so với doanh thu của họ vẫn thấp hơn so với các hộ chăn nuôi nhỏ Điều này thể hiện ưu thế của các hộ chăn nuôi lớn trong bối cảnh hiện nay.
4.2.2 Cỏc loại rủi ro và mức ủộ thiệt hại theo thời gian
Thiệt hại trong chăn nuôi lợn ở Nam Sách rất lớn, đặc biệt từ năm 2007 đến nay, do dịch bệnh xảy ra thường xuyên và giá thức ăn chăn nuôi tăng cao Trong khi giá thịt lợn không tăng đáng kể, người chăn nuôi gặp khó khăn và cảm thấy "bất lực" trong giai đoạn này Đây là một trong những nguyên nhân khiến chăn nuôi lợn ở Nam Sách và một số huyện khác của Hải Dương có xu hướng giảm, nhiều trang trại lớn đã bị xóa sổ sau các đợt dịch.
Theo thống kờ ở bảng , tỷ lệ thiệt hại tăng lờn qua từng năm, ủặc biệt là năm
Năm 2008, thiệt hại bình quân của người chăn nuôi đạt hơn 50 triệu đồng/hộ/năm, một con số rất lớn, trong khi năm 2007 và 2009 cũng ghi nhận thiệt hại khoảng 25 triệu đồng/hộ/năm Tỷ lệ thiệt hại cao cùng với giá thức ăn ngày càng tăng đã khiến người chăn nuôi không còn mặn mà, dẫn đến việc họ có thể bỏ hoặc không tiếp tục đầu tư Trong số các loại rủi ro gây thiệt hại, dịch bệnh là nguyên nhân chính, tiếp theo là rủi ro về thị trường đầu ra và đầu vào, ba loại rủi ro này chiếm tới 65% tổng thiệt hại của người chăn nuôi.
Bảng 4.7: Mức thiệt hại của các hộ chăn nuôi ở Nam Sách qua các năm
Trong ba năm qua, thiệt hại mà người chăn nuôi phải chịu do dịch bệnh là rất lớn, đặc biệt là vào năm 2010 Dịch bệnh tai xanh đã bùng phát ở hầu hết các huyện của Hải Dương, với Nam Sách là khu vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất Theo thống kê, tổng thiệt hại do dịch bệnh năm 2010 đối với hộ chăn nuôi lớn lên tới gần 89 triệu đồng mỗi hộ, trong khi đó hộ chăn nuôi vừa và nhỏ cũng gánh chịu thiệt hại không nhỏ, lần lượt là hơn 36 triệu đồng mỗi hộ.
Thiệt hại do rủi ro Năm
(Nguồn: Tổng hợp theo số liệu ủiều tra)
Bảng 4.8: Tình hình thiệt hại do dịch tai xanh năm 2010 ở Nam Sách ðVT: %
QM nhỏ QM vừa QM lớn
% thiệt hại % thiệt hại % thiệt hại
Tổng thiệt hại BQ (1000ủ/hộ) 29059.33 36238.10 88567.50
- Thiệt hại do lợn bị chết 89.47 75.61 84.00
- Thiệt hại do chi phí phòng bệnh thêm 0.14 2.76 1.98
- Thiệt hại do chi phí nuôi kéo dài 9.49 19.97 12.55
(Nguồn: Tổng hợp từ ủiều tra )
Phân tích thiệt hại của người chăn nuôi cho thấy thiệt hại lớn nhất đến từ việc lợn bị chết Bên cạnh đó, còn có các chi phí kèm theo không nhỏ, như chi phí nuôi kéo dài Khi dịch bệnh xảy ra, lợn đến thời kỳ xuất bán nhưng phải nuôi thêm 1-2 tháng, trong thời gian này, lợn không lớn thêm, dẫn đến chi phí thức ăn và chi phí phòng bệnh tăng cao Những yếu tố này tạo thành một phần thiệt hại đáng kể cho người chăn nuôi.
Cụ thể về các chi phí này có thể thấy qua bảng số liệu 4.9
Khi dịch xảy ra, các hộ chăn nuôi nhỏ chịu thiệt hại về giá lớn nhất do họ thường bán hàng theo hình thức nhỏ lẻ và tự phát Trong khi đó, các hộ chăn nuôi lớn và vừa thường có mối tiêu thụ ổn định hơn Tuy nhiên, thiệt hại về giá không chỉ ảnh hưởng đến một quy mô mà còn lan rộng ra tất cả các quy mô với mức độ khác nhau Cụ thể, tỷ lệ thiệt hại so với doanh thu của hộ chăn nuôi nhỏ là 1.93%, trong khi con số này với hộ chăn nuôi lớn chỉ là 0.43%.
Phõn tớch nguyờn nhõn dẫn ủến rủi ro và phản ứng của người dõn khi gặp rủi ro
Xác định mức độ rủi ro và thiệt hại đối với người chăn nuôi lớn là công việc quan trọng nhưng khó khăn Sau khi xác định các loại rủi ro, việc phân tích nguyên nhân xảy ra các rủi ro này cũng không kém phần quan trọng Phân tích nguyên nhân giúp xác định nguồn gốc và căn nguyên của rủi ro, từ đó cung cấp cho người chăn nuôi các biện pháp phù hợp để ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro Quá trình phân tích nguyên nhân nên được thực hiện theo thứ tự mức độ gây thiệt hại đối với người chăn nuôi.
4.3.1 Nguyên nhân xảy ra rủi ro dịch bệnh
4.3.1.1 Nguyên nhân từ phía người chăn nuôi và nhà nước
Dịch bệnh lụn là vấn đề nghiêm trọng đối với người chăn nuôi, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi Kết quả điều tra cho thấy có nhiều loại bệnh thường gặp, đặc biệt là ở người dân Nam Sách.
Lợn thường gặp nhiều loại bệnh, đặc biệt là lở mồm long móng và tai xanh Đối với quy mô nhỏ, bệnh lở mồm long móng và tai xanh là phổ biến, trong khi quy mô lớn, lợn thường gặp vấn đề về suy giảm hệ sinh sản, tai xanh và tiêu chảy Đối với quy mô vừa, bệnh tai xanh và tiêu chảy cũng thường xuyên xảy ra Nhìn chung, các hộ chăn nuôi nhỏ thường gặp phải nhiều bệnh hơn.
Trong ba năm qua, lợn thịt thường mắc phải các bệnh như tai xanh, tiêu chảy và tụ huyết trùng, trong đó bệnh tai xanh chiếm tỷ lệ cao nhất Tỷ lệ mắc bệnh khác nhau giữa các hộ chăn nuôi phụ thuộc vào quy mô, phương pháp chăn nuôi, mức đầu tư cho phòng bệnh và kinh nghiệm của người chăn nuôi Ngoài những nguyên nhân chủ quan từ người chăn nuôi, còn có những yếu tố khách quan khác ảnh hưởng đến tình hình dịch bệnh Thống kê từ cuộc điều tra về nguyên nhân phát dịch tai xanh năm 2010 cho thấy sự quan tâm của người dân đối với vấn đề này.
Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự bùng phát dịch tai xanh là do việc kiểm soát dịch kém, chiếm tới 67.74% Thứ hai, ý thức của người dân cũng đóng vai trò quan trọng; thực tế cho thấy khi dịch bệnh xảy ra, nhiều người thường không chú ý đến việc xử lý xác súc vật đúng quy định Hậu quả là có nhiều xác súc vật chết nằm cạnh hoặc nổi trên sông, gây nguy cơ lây lan dịch bệnh.
Bệnh chính Nhỏ Vừa Lớn
- Suy giảm hệ sinh sản 7.14 2.17 26.67
Theo số liệu điều tra, một số người dân vẫn tiếp tục bán lợn dù biết chúng bị bệnh, nhằm bù đắp phần nào chi phí Mặc dù tỷ lệ này chỉ chiếm 36.51%, nhưng nó có nguy cơ lây lan sang các vùng khác.
Bảng 4.11: Nguyờn nhõn bựng phỏt bệnh dịch tai xanh theo ý kiến cỏc ủơn vị chăn nuôi
Xếp hạng thứ tự ảnh hưởng (%)
- ðịa phương không tuyên truyền 0.00 3.70 15.07 27.86 47.31
- Ý thức của người dân kém 3.70 36.51 17.19 37.83 0.00
- Trỡnh ủộ của cỏn bộ thỳ y thấp 0.00 2.38 38.66 25.66 28.53
- Vệ sinh phòng dich kém 20.50 20.50 27.78 12.04 14.42
(Nguồn: Tổng hợp từ ủiều tra)
Thú y cơ sở ở nước ta, đặc biệt là tại Nam Sách, đang gặp khó khăn về lực lượng và trình độ chuyên môn Theo khảo sát, có tới 38.66% người dân cho rằng trình độ thú y kém là nguyên nhân thứ ba dẫn đến dịch bệnh không được dập tắt và lây lan nhanh chóng Bên cạnh đó, việc thiếu thông tin tuyên truyền về vệ sinh phòng dịch cũng được xem là một trong những nguyên nhân chính khiến dịch bệnh lây lan nhanh, ảnh hưởng nghiêm trọng đến người chăn nuôi.
Bên cạnh những thành tựu trong công tác tiêm phòng hiện nay, huyện vẫn gặp nhiều yếu kém, một phần do chi phí cao của công tác này Theo Quyết định 63/2005/QĐ-BNN về tiêm phòng bắt buộc cho gia súc gia cầm, quy định rất rõ về đối tượng tiêm phòng, phạm vi tiêm phòng và chế độ tiêm phòng Chính sách này được đưa ra nhằm giúp người dân yên tâm sản xuất và giảm thiểu rủi ro do dịch bệnh.
Lợn tiêm phòng được thực hiện hai lần mỗi năm, theo quy định hàng năm thay vì theo lứa Điều này dẫn đến một số hạn chế trong chính sách như sau:
Tiêm phòng cho lợn là việc quan trọng, diễn ra 2 lần trong năm Khi tổ chức tiêm phòng, cần tiêm đồng loạt một lượt Hai đợt tiêm phòng nên cách nhau khoảng 6 tháng Thời gian nuôi lợn trung bình hiện nay của người chăn nuôi ở Nam Sách là 4 tháng, với mỗi lứa lợn được chăm sóc chu đáo.
Hiện nay, mỗi gia đình có thể nuôi được 3 lứa gà mỗi năm, với tần suất tiêm vaccine 2 lần cho mỗi lứa Điều này có nghĩa là họ chỉ tiêm cho 2 lứa gà trong năm Ngoài ra, còn có những gia đình nuôi đến 4 lứa trong năm và áp dụng hình thức nuôi xen kẽ.
Rủi ro về dịch bệnh đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các xã và huyện trong những năm qua Nhiều nguyên nhân đã dẫn đến tình trạng này, theo kết quả PRA tại huyện Nam Sách và các cuộc điều tra trực tiếp, cho thấy rõ vấn đề RỦI RO DỊCH BỆNH.
Trong ủú nguyờn nhõn dẫn ủến rủi ro cú cả nguyờn nhõn từ phớa người chăn nuôi và nguyên nhân từ phía nhà quản lý
Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro về dịch bệnh trong chăn nuôi có thể được chia thành hai nhóm chính Đầu tiên, từ phía nhà quản lý, các vấn đề như kiểm soát dịch bệnh, an toàn thực phẩm và khuyến nghị về chăm sóc sức khỏe động vật đóng vai trò quan trọng Thứ hai, từ phía người chăn nuôi, ý thức trong việc đầu tư, duy trì vệ sinh chuồng trại hàng ngày và cách ứng xử trong thời gian lợn mắc dịch cũng là những yếu tố quyết định.
Hậu quả của rủi ro dịch bệnh ảnh hưởng nghiêm trọng đến chiến lược phát triển kinh tế xã hội của huyện, làm giảm tỷ trọng ngành chăn nuôi lợn trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp Số lượng trang trại và đàn gia súc giảm mạnh, dẫn đến khó khăn trong đời sống và kinh tế của các hộ chăn nuôi Bên cạnh đó, dịch bệnh còn gây ô nhiễm môi trường do việc chôn cất và vứt lợn chết không đúng quy định, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và làm gia tăng nguy cơ mầm bệnh tồn tại và lây lan.
RỦI RO VỀ DỊCH BỆNH Ảnh hưởng ủến chiến lược phỏt triển kinh tế xã hội của huyện Nam Sách
Hoạt ủộng sản xuất và ủời sống kinh tế của người chăn nuụi thay ủổi
Rủi ro về dịch bệnh và thị trường làm số lượng ủàn lợn của huyện giảm mạnh từ
2006 chỉ còn 61 nghìn con năm 2009
Thiệt hại về doanh thu:
(2007 – 2009) hộ quy mô nhỏ thiệt hại 17,77%/năm so với doanh thu Hộ quy mô vừa là 10,68%, quy mô lớn là 6,31%
Gõy ra biến ủộng giỏ trong ngắn hạn tại ủịa bàn huyện
- Trước khi có dịch bệnh giá lợn hơi là 28.000/kg
- Trong thời gian dịch bệnh giá là 18.000/kg
- Sau thời gian có bệnh 3 tháng giá 26.000/kg
- 38,66% người CN cho rằng nguyên nhân số 1 làm cho dịch bệnh lây lan nhanh là do không kiểm soát ủược dịch
- Chốt kiểm dịch mỏng và mang tính hình thức
- Mỗi xã có một nhân viên thú y, tuy nhiên không chuyên trách
- Trợ cấp cho nhân viên thú y 10 công/tháng nên lòng nhiệt tình với công việc chưa cao
Mặc dự ủó tập huấn rất nhiều nhưng tỷ lệ tham gia tập huấn chỉ chiếm 70%
Tỷ lệ tiếp thu và áp dụng là rất thấp Trỡnh ủộ của cỏn bộ khuyến nông còn hạn chế, chỉ có cán bộ
Tỷ lệ vệ sinh hàng ngày cao, nhưng vẫn chưa ủảm bảo
Hệ thống chăn nuôi hơn 60% chưa ủạt tiêu chuẩn, chủ yếu chăn nuôi trong các khu dân cư
- Số lượng trang trại chăn nuôi giảm: Năm
- Tốc ủộ phỏt triển của ngành âm Ảnh hưởng ủến mụi trường xum quanh: Mầm bệnh tồn tại, nguồn nước bị ảnh hưởng, mùi gia súc khi chết…
- Ý thức của người CN kém là 31,51% hộ CN cho rằng là nguyên nhân thứ 2
- Bán chạy lợn khi có dịch
SƠ ðỒ 4.2: CASE STUDY VỀ DỊCH BỆNH TRONG CHĂN NUÔI LỢN Ở HUYỆN NAM SÁCH
4.3.2.2 Nguyên nhân từ phía các tác nhân khác trong thị trường
Ngoài nguyên nhân từ phía người chăn nuôi và chính quyền địa phương về rủi ro dịch bệnh, một nguyên nhân không nhỏ khiến dịch bệnh lây lan nhanh là tác nhân khác như: đơn vị thu gom, đơn vị giết mổ và đơn vị chế biến.
Một số giải pháp nhằm giảm thiểu rủi ro trong chăn nuôi lợn
Công tác tuyên truyền về phòng bệnh và chữa bệnh cho người chăn nuôi là rất quan trọng, vì ý thức của họ ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi ứng xử Để nâng cao nhận thức, tổ chức thường xuyên các buổi tập huấn và tuyên truyền thông qua hệ thống thông tin của xã, mời thú y viên và chuyên gia từ các viện, trường đại học giảng dạy cho người dân Ngoài ra, việc tổ chức tham quan các mô hình chăn nuôi tốt ở các địa bàn khác cũng góp phần nâng cao kiến thức Để đạt được hiệu quả trong công tác này, cần có sự liên kết chặt chẽ giữa người chăn nuôi và chính quyền địa phương, trong đó người chăn nuôi đóng vai trò quyết định.
Để nâng cao hiệu quả công tác tiêm phòng cho lợn, cần cải thiện nhận thức của người chăn nuôi, đặc biệt là những hộ chăn nuôi lớn thường tự tiêm phòng Hiện nay, số lần tiêm phòng còn thấp so với số lứa nuôi, dẫn đến tình trạng tiêm phòng không đầy đủ Do đó, cần linh hoạt điều chỉnh số lần tiêm phòng phù hợp với thực tế chăn nuôi tại huyện, không nên cứng nhắc quy định 2 lần/năm Việc tuyên truyền và áp dụng các chính sách bắt buộc sẽ giúp người dân tin tưởng hơn vào công tác tiêm phòng Chính quyền cần giám sát chặt chẽ để đảm bảo hiệu quả Ngoài ra, cần có chính sách hỗ trợ giá tiêm phòng hợp lý, vì theo ý kiến của người chăn nuôi, giá hiện tại còn cao và mức giá khoảng 2/3 so với hiện tại là phù hợp.
Quản lý thị trường thuốc thú y hiệu quả cần sự phối hợp chặt chẽ giữa hệ thống thú y cơ sở, chính quyền địa phương và các cơ quan quản lý thị trường Hiện nay, nhiều loại thuốc thú y không được kiểm soát về chất lượng và chủng loại, dẫn đến việc người chăn nuôi sử dụng thuốc không đảm bảo Do đó, thuốc thú y nên được phân phối bởi nhân viên thú y có chuyên môn, đồng thời cần tăng cường công tác hướng dẫn trực tiếp cho người chăn nuôi để đảm bảo an toàn và hiệu quả trong việc sử dụng thuốc.
Để nâng cao năng lực mạng lưới thu y cơ sở, cần tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn chuyên môn cho thú y viên và các khóa đào tạo ngắn hạn, áp dụng thực tiễn tại từng xã trong công tác phòng bệnh và chữa bệnh Cần tăng cường số lượng thú y cơ sở tại các xã, đặc biệt là những vùng chăn nuôi nhiều như Hiệp Cát, hiện chỉ có 2 nhân viên thú y, chưa đáp ứng đủ nhu cầu Đồng thời, cần tăng phụ cấp cho thú y viên cơ sở phù hợp với mức giá thực tế, hiện tại mức phụ cấp chỉ khoảng 500 đến 900 nghìn/tháng, trong khi thời gian làm việc của họ tương đương với các công chức bình thường.
Để phòng bệnh hiệu quả, cần ưu tiên phát triển các khu chăn nuôi tập trung và đầu tư vào cơ sở hạ tầng Việc xây dựng khu chăn nuôi tập trung không chỉ giảm nguy cơ dịch bệnh mà còn giúp thực hiện các biện pháp phòng bệnh một cách đồng bộ và quy mô Đồng thời, điều này sẽ giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường do chăn nuôi lợn gây ra tại các khu dân cư, đặc biệt là ở các xã Công tác này cần được thực hiện bởi chính quyền cấp xã trong quy hoạch, dưới sự chỉ đạo và giám sát của chính quyền huyện, đồng thời phối hợp chặt chẽ với các hộ chăn nuôi để phù hợp với điều kiện cụ thể của từng xã.
Bảo hiểm vật nuôi, đặc biệt trong chăn nuôi lợn, đang được nhiều người chăn nuôi, đặc biệt là các hộ chăn nuôi lớn, ủng hộ Sự kết hợp giữa chính quyền địa phương và các công ty bảo hiểm là cần thiết để thực hiện các chương trình bảo hiểm vật nuôi cho người chăn nuôi Tuy nhiên, việc triển khai bảo hiểm vật nuôi vẫn gặp nhiều khó khăn, và hiện nay, bảo hiểm này chưa thể thực hiện rộng rãi trên toàn quốc Cần có các chương trình và kế hoạch cụ thể để phát triển các loại bảo hiểm về vật nuôi.
Hỗ trợ các hiệp hội và tổ chức liên kết là một cách hiệu quả để cung cấp kinh phí, thông tin và tuyên truyền, giúp các hiệp hội này hoạt động tốt hơn Điều này cũng khuyến khích sự phát triển tự giác của các hộ chăn nuôi tại địa phương, tạo cơ hội cho họ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, đồng thời giảm thiểu rủi ro về dịch bệnh và ổn định giá cả đầu vào cũng như đầu ra.
Giỏm sỏt thực hiện công tác kiểm dịch và hạn chế dịch lây lan là nhiệm vụ quan trọng Chính quyền địa phương, cơ quan y tế và người chăn nuôi cần phối hợp chặt chẽ, đặc biệt là cơ quan thú y trong việc kiểm dịch tại các chốt kiểm dịch.
Hệ thống truyền thông cần đảm bảo thông tin chính xác để tránh phát tán tin sai lệch, nhằm bảo vệ tâm lý người dân trong quá trình ứng phó với dịch bệnh Việc này có tác động lớn đến những vùng chăn nuôi không có dịch, giúp duy trì ổn định và phát triển kinh tế.
Hệ thống thông tin thị trường cần được minh bạch, đặc biệt là thông tin về giá cả, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong việc tiếp cận Dù hệ thống thông tin hiện có, người dân vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin chính xác về giá cả đầu vào và đầu ra Các hộ chăn nuôi nhỏ là những đối tượng dễ bị thiệt hại nhất do thiếu thông tin đầu ra thường xuyên và đầy đủ Do đó, thông tin về giá cả cần được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Nâng cao khả năng tiếp cận thông tin thị trường cho người chăn nuôi là rất quan trọng Để đạt được điều này, bên cạnh việc minh bạch hệ thống thông tin, người chăn nuôi cần được tập huấn để phân tích, xác định và phân loại các loại thông tin thị trường từ nhiều kênh khác nhau Tại huyện Nam Sách, vị trí địa lý thuận lợi giúp người chăn nuôi dễ dàng tiếp cận thị trường; tuy nhiên, để giảm thiểu rủi ro và đảm bảo tính minh bạch, cần có sự tư vấn từ các bên liên quan, đặc biệt là chính quyền địa phương.
Liên kết các nhà chăn nuôi là biện pháp quan trọng được thực hiện tại huyện, nhưng vẫn chưa được nhân rộng Hiệp hội này hoạt động hiệu quả không chỉ trong việc tiêu thụ sản phẩm và mua thức ăn chăn nuôi, mà còn trong cả kỹ thuật nuôi Do đó, cần hỗ trợ về kinh phí, kỹ thuật và thông tin để các hiệp hội hoạt động hiệu quả hơn Đồng thời, cần nhân rộng mô hình sang các xã khác, phù hợp với từng địa bàn.
Chăn nuôi theo hình thức hợp tác là một phương thức mới xuất hiện tại huyện, thể hiện rõ những ưu điểm trong việc chia sẻ rủi ro giữa người chăn nuôi và các nhà tiêu thụ Hình thức này cần được tuyên truyền, tham quan và nhân rộng, đặc biệt đối với những hộ chăn nuôi lớn.
Hình thành chuỗi giá trị chăn nuôi từ đầu vào đến người chăn nuôi và người tiêu dùng là một quá trình quan trọng Việc liên kết các tác nhân trong chuỗi giúp tạo ra giá trị gắn lợi ích cho tất cả các bên liên quan Điều này không chỉ giảm thiểu tác nhân tiêu cực trong chuỗi mà còn tạo ra giá hợp lý cho các tác nhân, đảm bảo sự phát triển bền vững trong ngành chăn nuôi.
Quy hoạch các vùng nhiên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi là một yếu tố quan trọng để giảm rủi ro về giá thức ăn chăn nuôi tại Việt Nam, nơi hiện tại hoàn toàn phụ thuộc vào việc nhập khẩu nguyên liệu Việc này không chỉ giúp giảm chi phí sản xuất mà còn đảm bảo nguồn cung ổn định, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành chăn nuôi trong nước.
Kết luận
Ngành chăn nuôi luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay Mặc dù có nhiều nghiên cứu về rủi ro trong chăn nuôi ở các nước phát triển như Mỹ và Canada, nhưng tại Việt Nam, ngành chăn nuôi, đặc biệt là chăn nuôi gia cầm và lợn, đã gặp phải nhiều rủi ro trong thập kỷ qua Do đó, việc nghiên cứu và phân tích rủi ro trong ngành chăn nuôi lợn trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết Tuy nhiên, hiện tại chưa có nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này Nghiên cứu này sẽ tập trung phân tích rủi ro trong chăn nuôi lợn tại huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương, nhằm hệ thống hóa các lý luận và kết quả liên quan.
Trong ngành chăn nuôi lợn, có nhiều loại rủi ro như dịch bệnh, thị trường, giống và phối giống, tài chính và kỹ thuật Trong số đó, rủi ro về dịch bệnh là phổ biến nhất, vì khi xảy ra, nó dẫn đến hiện tượng rủi ro kép, bao gồm rủi ro về giá cả, tài chính và sản xuất do chi phí nuôi kéo dài, cùng với các vấn đề môi trường và tình trạng thất nghiệp ngắn hạn.
Trong những năm gần đây, chăn nuôi lợn ở Nam Sỏch đã có sự chuyển mình mạnh mẽ, với nhiều hộ chăn nuôi chuyển sang sản xuất theo hướng hàng hóa quy mô vừa và lớn Mô hình trang trại hiện chiếm tới 68,54% tổng số hộ chăn nuôi Người chăn nuôi cũng dần chuyển sang hình thức nuôi công nghiệp và bán công nghiệp, sử dụng chủ yếu thức ăn công nghiệp để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Rủi ro trong chăn nuôi lợn ở huyện Nam Sách tương tự như rủi ro trên toàn quốc, chủ yếu do dịch bệnh, thị trường và giống vật nuôi Về dịch bệnh, 58,21% hộ gặp thiệt hại, đặc biệt là hộ quy mô lớn với mức thiệt hại trên 17,5 triệu đồng/hộ/năm; tuy nhiên, hộ quy mô nhỏ lại mất mát nhiều nhất với tỷ lệ 24,63% năm 2008 và 15,13% năm 2009 Về thị trường, 42,74% hộ gặp thiệt hại về giá đầu ra và 17,22% về giá đầu vào, với giá đầu ra trung bình là 6,5 triệu đồng/hộ/năm và đầu vào là 5,2 triệu đồng/hộ/năm Hộ quy mô lớn chịu rủi ro nhiều nhất trong giá đầu ra (61,54%) và đầu vào (30,77%), trong khi hộ quy mô nhỏ gặp khó khăn hơn do ít sử dụng thức ăn chăn nuôi công nghiệp Đối với giống và phối giống, 22,97% hộ bị thiệt hại do giống vật nuôi, với mức thiệt hại trung bình khoảng 4,5 triệu đồng/hộ/năm Hộ quy mô nhỏ bị thiệt hại nhiều nhất, nhưng quy mô lớn lại có thiệt hại lớn nhất với 6,6 triệu đồng/hộ/năm Về phối giống, 26,56% hộ gặp thiệt hại, trong đó hộ quy mô vừa chịu thiệt hại cao nhất với 39,29%, nhưng hộ quy mô nhỏ lại là nhóm bị thiệt hại lớn nhất về giá trị, với hơn 3 triệu đồng/hộ/năm.
Có nhiều nguyên nhân để giải thích tình hình chăn nuôi hiện nay từ cả phía người dân và chính quyền Người chăn nuôi ngày càng có khả năng tự chủ và hiểu biết nhưng vẫn phụ thuộc vào biến động về dịch bệnh và giá cả, đồng thời còn nặng tính truyền thống tự cung tự cấp và chấp nhận rủi ro mà không có biện pháp khắc phục Phía chính quyền, việc tiêm phòng không đồng bộ, hệ thống thú y và khuyến nông yếu kém, chưa tạo được niềm tin cho người chăn nuôi, và kiểm soát dịch bệnh còn hạn chế Để cải thiện tình hình chăn nuôi, cần thực hiện các giải pháp như liên kết trong chăn nuôi, nâng cao khả năng tiếp cận thị trường, chuyển đổi sang quy mô lớn và hướng công nghiệp Về phía nhà nước, cần quy hoạch chăn nuôi theo hướng tập trung, tiêm phòng và sản xuất vắc xin, kiểm soát dịch bệnh, cho vay vốn sản xuất, và tạo thông tin minh bạch nhằm phát triển ngành chăn nuôi bền vững và hạn chế rủi ro trong nền kinh tế thị trường.
Kiến nghị
Việc dọn dẹp vệ sinh chuồng trại hàng ngày là cần thiết để tạo ra môi trường thông thoáng cho các trại chăn nuôi, đặc biệt trong mùa ẩm ướt Tôi khuyến khích việc tham gia vào các khu chăn nuôi tập trung và chuyển đổi sang chăn nuôi công nghiệp với quy mô lớn hơn để nâng cao hiệu quả sản xuất.
Nâng cao khả năng tiếp cận thị trường đầu vào và đầu ra là rất quan trọng, đồng thời tích cực tham gia các khóa tập huấn để học hỏi kỹ thuật mới trong chăn nuôi Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức bảo vệ và ngăn chặn dịch bệnh cùng với cộng đồng, nhằm tránh dịch bệnh lây lan.
- Tham gia tớch cực vào cỏc hiệp hội ủể khụng ngừng học tập kinh nghiệm lẫn nhau, ủồng thời trỏnh rủi ro về giỏ cả
Khi khám và chữa bệnh cho lợn, cần tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ thú y Đồng thời, trong quá trình chọn giống và phối giống, nên làm theo sự chỉ dẫn của nhân viên khuyến nông để đảm bảo hiệu quả và sức khỏe cho đàn lợn.
- Chuyển từ tập quán sản xuất cũ sang sản xuất theo hướng hàng hóa trên toàn bộ ủịa bàn huyện
Để đảm bảo nguồn giống chất lượng cho người chăn nuôi, cần thực hiện quy hoạch và phát triển hệ thống cung cấp giống Việc này đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa các khuyến nông tuyến xã, huyện, các cơ sở cung cấp giống và người chăn nuôi trong quá trình chọn giống.
Cần nghiên cứu và phát triển vaccine để điều trị các loại dịch bệnh, đặc biệt là dịch tai xanh, đã tồn tại trong 4 năm qua nhưng hiện tại vẫn chưa có vaccine chữa trị hiệu quả.
Tiếp tục phát triển các khu chăn nuôi tập trung và cấp giấy chứng nhận Vietghap, đồng thời xác nhận các cơ sở chăn nuôi an toàn sinh học nhằm nâng cao chất lượng và an toàn trong ngành chăn nuôi.
Nâng cao năng lực cho hệ thống thú y là cần thiết, bao gồm việc tăng cường đội ngũ nhân lực tại các xã Đồng thời, cần có chế độ hợp lý để họ có thể tập trung vào công việc chuyên môn, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống thú y cơ sở.
Trong công tác quản lý dịch bệnh, tất cả các cơ sở chăn nuôi bắt buộc phải tiêm vaccine cho cả lợn giống và lợn thịt Số lần tiêm vaccine cho người chăn nuôi được điều chỉnh từ 2 lần/năm thành linh hoạt hơn, phù hợp với việc cung cấp dịch vụ dưới sự quản lý và giám sát của hệ thống thú y.
Xây dựng chương trình bảo hiểm nông nghiệp cần sự tham gia của các chuyên gia trong và ngoài nước, đặc biệt từ những quốc gia có thành công trong lĩnh vực này, nhằm áp dụng linh hoạt vào điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Thanh tra và kiểm tra là cần thiết để đảm bảo an toàn vệ sinh trong chăn nuôi Cần có quy định cụ thể cho từng cấp xã, huyện về việc kiểm tra vệ sinh tại các khu vực chăn nuôi và kiểm soát chặt chẽ việc vận chuyển gia súc vào và ra khỏi địa bàn Việc xử lý vi phạm hành chính đối với những đối tượng cố ý vi phạm, đặc biệt là trong trường hợp vận chuyển lợn trong thời gian có dịch, là rất quan trọng để bảo vệ sức khỏe cộng đồng.