nội dung và ph−ơng pháp nghiên cứu
Đối t−ợng nghiên cứu
Các yếu tố tự nhiên như thời tiết, đất đai và chế độ nước đóng vai trò quan trọng trong việc trồng lúa Bên cạnh đó, điều kiện kinh tế, xã hội và thói quen canh tác của cộng đồng địa phương cũng ảnh hưởng đến việc bảo tồn các giống lúa bản địa.
Nội dung nghiên cứu
1 Điều tra, đánh giá sự đa dạng các giống lúa địa phương trên các lĩnh vực giá trị văn hoá, khả năng, chống chịu, số l−ợng và diện tích trồng
2 Điều tra, nghiên cứu các thuận lợi và hạn chế của điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tập quán canh tác lúa đến việc sản xuất lúa địa phương
3 Điều tra, phân tích đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố: kinh tế, văn hoá, xã hội, kỹ thuật đến nguy cơ xói mòn nguồn gen lúa địa phương Từ đó đề xuất các mô hình giải pháp kỹ thuật nông nghiệp nhằm tăng cường sự đa dạng các giống lúa địa phương trên đồng ruộng
4 Tiến hành các thí nghiệm so sánh các giải pháp kỹ thuật đã đề xuất với biện pháp canh tác truyền thống của địa phương
5 Đánh giá hiệu quả của các giải pháp.
Các ph−ơng pháp nghiên cứu
3.3.1 Ph−ơng pháp điều tra thu thập thông tin
Thu thập thông tin thứ cấp từ các cơ quan chuyên môn địa phương là cần thiết, bao gồm số liệu về khí hậu, thời tiết, dân số, dân tộc, cũng như thống kê diện tích tự nhiên và diện tích trồng trọt.
Điều tra đất đai được thực hiện qua các lát cắt ngang và dọc sườn dốc tại hiện trường, nhằm lấy mẫu đất phục vụ cho việc phân tích các chỉ tiêu đánh giá độ phì nhiêu của đất.
Khảo sát chế độ và nhiệt độ nước trên mặt ruộng được thực hiện theo các lát cắt ngang và dọc các con suối tại hai thời điểm quan trọng: lần đầu vào lúc cấy lúa từ 5 đến 10 tháng 6 và lần thứ hai sau 40 ngày cấy lúa, từ 10 đến 15 tháng 7.
Phương pháp điều tra phỏng vấn trực tiếp hộ kết hợp với điều tra nông thôn có sự tham gia của người dân (PRA) là một cách tiếp cận hiệu quả để thu thập thông tin Kỹ thuật này không chỉ giúp hiểu rõ hơn về nhu cầu và mong muốn của cộng đồng mà còn khuyến khích sự tham gia tích cực của người dân trong quá trình điều tra Việc sử dụng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn giúp đảm bảo tính hệ thống và khoa học trong việc thu thập dữ liệu.
Viện Tài nguyên Di truyền Thực vật Thế giới đang tiến hành điều tra nhằm sử dụng phương pháp điều tra đa dạng sinh học và thu thập quỹ gen cây trồng Những hoạt động này không chỉ giúp bảo tồn nguồn gen quý giá mà còn đóng góp vào việc phát triển bền vững trong nông nghiệp.
Điều tra lấy mẫu giống tại hộ gia đình với mỗi mẫu nặng 0,5 kg, được đóng gói trong các túi có dán nhãn rõ ràng Đồng thời, cần ghi chép đầy đủ các đặc điểm nông sinh học và yêu cầu về điều kiện đất đai.
* Điều tra lấy mẫu thực địa trên đồng ruộng vào thời kỳ thu hoạch theo ở các vị trí khác nhau
3.3.2 Các chỉ tiêu nghiên cứu
+ Tính toán hệ số đa dạng (Hg) hay còn gọi là Simpson Index
Tính hệ số đa dạng giống lúa theo công thức: Hg = 1 - ∑f P 2 PB (xi) B
Hệ số đa dạng Hg cho thấy tính đa dạng sinh học, với giá trị gần 1 biểu thị sự gia tăng tính đa dạng Tỷ lệ diện tích của giống i (f B (xi) B) so với tổng diện tích của tất cả các giống được tính từ i chạy từ 1 đến n giống quan sát.
Xử lý tương quan số liệu điều tra bằng phương pháp phân tích chùm PCA (Principal Component Analysis) trên phần mềm Pcord 4, đồng thời xác định tương quan giữa hai nhân tố thông qua phần mềm Excel.
3.3.3 Sử dụng ph−ơng pháp phân tích hệ sinh thái trong việc phân tích mối liên quan của các yếu tố canh tác đến năng suất lúa
Bước 1 Xác định các hệ phụ trong hệ thống canh tác lúa và các thành phần có liên quan đến chúng: thời tiết, nguồn nước, đât đai…
Bước 2 Xác định các mặt thuận lợi và hạn chế của điều kiện tự nhiên, kinh tế
– xã hội, văn hoá trong quản lý hệ thống
Bước 3 Nghiên cứu các giải pháp giải quyết các hạn chế đó nhằm nâng cao năng suất lúa và tính đa dạng của lúa địa phương
3.3.4 Ph−ơng pháp bố trí thí nghiệm
Sau khi phân tích các yếu tố tác động đến sự đa dạng của lúa địa phương, chúng tôi đã đề xuất các giải pháp kỹ thuật nhằm khắc phục những yếu tố này, từ đó tăng cường việc sử dụng các giống lúa địa phương Đồng thời, chúng tôi cũng tiến hành bố trí các thí nghiệm để kiểm chứng hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật đã đề ra.
Thí nghiệm 1 So sánh tác dụng của chọn lọc đến độ thuần và năng suất một số giống lúa địa ph − ơng
Nghiên cứu tập trung vào hai giống lúa địa phương quý hiếm tại Bản Khoang cần được bảo tồn: Bèo brụt búa, một giống lúa nếp nổi tiếng với chất lượng ngon và khả năng chịu nước lạnh tốt, và Tầm bào ngạnh, giống lúa tẻ có khả năng nở cơm và cũng chịu nước lạnh hiệu quả.
Mỗi giống lúa được nghiên cứu thông qua hai công thức thí nghiệm: một mẫu giống từ hộ dân được duy trì theo phương thức truyền thống của cộng đồng hiện tại, và một mẫu giống đã trải qua quá trình chọn lọc trong vụ lúa năm 2003, áp dụng phương pháp chọn lọc hỗn hợp quần thể một lần.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã tiến hành bố trí thí nghiệm để so sánh các giống cây trồng, với mỗi giống được đặt trong một lô riêng biệt Mỗi lô bao gồm 3 thửa ruộng, và mỗi thửa được chia thành 2 phần để thực hiện 3 lần lặp Các ô thí nghiệm trong mỗi lô được bố trí theo cặp và vị trí được chọn ngẫu nhiên Kích thước của mỗi ô thí nghiệm là 2 x 8m, tương đương với 16 m².
- Sơ đồ thí nghiệm nh− sau:
Lô trồng Bèo brụt búa Lô trồng Tầm bèo ngạnh
I - 2 I - 1 II – 2 II - 1 Ghi chó: I: gièng lóa BÌo brôt bóa
II: giống lúa Tầm bèo ngạnh 1: mẫu giống lúa đã qua chọn lọc
2: mẫu giống lúa của hộ gia đình (Chảo Phù Ngan) Thí nghiệm đ−ợc tiến hành trên đất: Đào giằng
Tên đất theo địa ph−ơng
Tỷ lệ lẫ n đá (%) PH B H2O B PH B KCL B OM (% ) Cát Limon Sét
Tiến hành cấy lúa với tuổi mạ 50 ngày, nông dân gieo mạ nh− và cấy 1 dảnh/khóm, với mật độ 45 khóm trên 1 mét vuông Các kỹ thuật chăm sóc khác phải phù hợp với điều kiện của địa phương, chỉ bổ sung lân khi cấy và không bón phân cho lúa đã cấy.
Các chỉ tiêu theo dõi và đo đếm năng suất bao gồm: số khóm trên mỗi mét vuông, số bông trên mỗi khóm, số hạt trên mỗi bông, tỷ lệ lép, và khối lượng 1000 hạt Những yếu tố này giúp tính toán năng suất lý thuyết một cách chính xác.
Tiến hành gặt và cân năng suất thực thu
Xác định số cây lẫn giống đ−ợc phân biệt do sự chênh lệch chiều cao cây, thời gian sinh tr−ởng dài hoặc ngắn hơn quần thể
Để xác định số hạt lẫn trong thóc sau thu hoạch, cần lấy mẫu thóc từ các ô, mỗi mẫu gồm 3 vị trí với mỗi vị trí 300 gam Sau đó, trộn các mẫu lại và chia thành 3 phần, sử dụng 1 phần để xác định số hạt lẫn không đúng giống.
Xử lý kết quả thống kê trên phần mềm excel và Irristar 403
Thí nghiệm 2 á p dụng bón phân viên cho lúa địa ph − ơng
+ Vật liệu là mẫu giống lúa địa phương đã được chọn lọc như ở thí nghiệm 1
+ Bố trí trên 3 nền phân bón:
Công thức 1: không bón phân
Công thức 2: phân lân bón lót và bón phân viên nén NK bón sâu sau khi cấy 3 ngày với l−ợng t−ơng đ−ơng với 21,5N + 27 K B 2 B O + 30 P B 2 B O B 5 B /ha
Kết quả nghiên cứu
Đa dạng lúa ở bản khoang
4.2.1 Hiện trạng đa dạng lúa ở Bản Khoang
4.2.1.1 Phong phú về số lượng và tên gọi các giống lúa địa phương
Bản Khoang có địa hình, đất đai và khí hậu đa dạng, nơi sinh sống của hai dân tộc Dao và H’mông, đã tạo nên sự phong phú về các giống lúa địa phương Cây lúa không chỉ quan trọng cho kinh tế mà còn cho văn hóa tinh thần của người dân Tên gọi của các giống lúa được đặt bằng tiếng địa phương, cho thấy chúng đã được tuyển chọn và sử dụng từ lâu Mỗi giống lúa có tên gọi riêng, được cộng đồng công nhận, khẳng định vai trò và giá trị to lớn của chúng trong đời sống cộng đồng.
Kết quả điều tra, thu thập mẫu và phân loại cho đến nay đã xác định có
20 giống lúa địa phương và 01giống lúa lai đã và đang được trồng trên địa bàn xã (bảng 4.3)
Bảng 4.3 Danh sách các giống lúa địa phương ở Bản Khoang
TT Tên tiếng Dao Tên tiếng
1 Bèo ông củ Lúa ông (Nếp cẩm)
2 Bèo brụt búa Blề blạn mống
3 Bèo brụt shí Nếp đỏ
4 Bèo brụt chùn Blề blạn cay Nếp tròn
5 Bèo brụt giằng Bèo ý tý shí
6 Bèo brụt pẻ Nếp trắng
7 Bèo chọp Blề blạn chó
8 Bèo cù oàng Blề blạn lá
10 Bèo còn shí Blề la cáng Tẻ đỏ
12 Bèo ngạch ton Mê blề tou
13 Bèo pờ ây Bèo pa i (ê)
14 Bèo sống Blề đớ Tẻ trắng
16 Bèo tồng lông Blề blá
17 Tầm bèo búa Lúa trồng trên n−ơng
18 TÇm bÌo mau BÌo mau ton
21 Tam mưu Tam mưu Shan ưu 63
* Nguồn: Dự án tăng c−ờng cơ sở khoa học bảo tồn in – situ đa dạng cây trồng SaPa, 2002
Mặc dù có nhiều giống lúa, người dân địa phương dễ dàng phân biệt và đánh giá chúng nhờ vào tên gọi được đặt bằng tiếng dân tộc của họ Họ thường dựa vào các đặc điểm hình thái, màu sắc và công dụng để đặt tên cho từng giống Do đó, khi quan sát các đặc điểm này, họ có thể nhanh chóng xác định tên gọi của giống lúa hoặc ngược lại.
Ví dụ nh− trong tên tiếng Dao: “bèo” có nghĩa là lúa’ “brụt” nghĩa là lúa nếp; “shí” là màu đỏ và “giằng” là màu vàng…
Bảng tên gọi các giống lúa địa phương giữa người Dao và H’mông cho thấy rằng nhiều giống lúa có tên tiếng Dao nhưng chưa có tên tiếng H’mông, điều này chứng tỏ người Dao đã sử dụng lúa lâu đời hơn người H’mông Có thể do một số nguyên nhân như: (i) các giống lúa đó chưa được người H’mông trồng; (ii) người H’mông tiếp nhận giống lúa từ người Dao và gọi theo tiếng Dao để dễ phân biệt; (iii) các giống này không phổ biến trong các hộ người H’mông Lịch sử cư trú cho thấy trước đây, người H’mông chủ yếu canh tác trên rẫy với cây ngô là lương thực chính, và chỉ sau khi di chuyển xuống nơi thấp họ mới bắt đầu trồng lúa.
4.2.1.2 Đa dạng về khả năng chống chịu với các điều kiện ngoại cảnh Đây là đặc tính vô cùng quý đối với các lúa địa phương: mức độ chống chịu sâu bệnh cao, nhu cầu đầu t− phân bón thấp và có thể trồng trọt tại các nơi đất xấu (nghèo chất dinh d−ỡng)…kết quả chi tiết đánh giá mức độ chống chịu đ−ợc trình bày trong (bảng 4.4)
Diện tích trồng lúa tại Bản Khoang chủ yếu nằm trên các ruộng bậc thang với độ dốc lớn Đất ở đây còn chứa nhiều đá và có hàm lượng chất dinh dưỡng thấp.
Nguồn nước cung cấp cho khu vực này phụ thuộc vào lượng mưa và nước chảy ra từ các dòng suối, khe núi đá trong rừng đầu nguồn Do đó, nhiệt độ nước suối ở đây rất thấp, chênh lệch với nhiệt độ không khí trung bình từ 2–7 độ C.
Kết quả phân tích ở bảng 4.4 cho thấy:
Trong nghiên cứu về khả năng thích nghi với đất xấu, có 3/20 giống lúa địa phương (bèo còn shí, bèo brụt shí, tầm bèo búa) cho thấy khả năng chịu đựng tốt nhất, chiếm 15% tổng số giống Ngoài ra, 5/20 giống có khả năng chịu đựng ở mức trung bình và 12/20 giống ở mức thấp, tổng cộng chiếm tới 60% số giống lúa Kết quả này chỉ ra rằng phần lớn các giống lúa tại Bản Khoang có khả năng chống chịu tốt với điều kiện đất nghèo dinh dưỡng.
Trong nghiên cứu về khả năng chống chịu điều kiện nước lạnh của 20 giống lúa địa phương, có 5 giống (chiếm 25%) cho thấy khả năng chịu đựng tốt, bao gồm bèo brụt búa và bèo còn shí Bên cạnh đó, 6 giống (30%) có khả năng chịu đựng ở mức trung bình, trong khi 9 giống còn lại (45%) chỉ chịu đựng ở mức thấp.
Nước lạnh là điều kiện đặc biệt quan trọng đối với vùng trồng lúa ruộng bậc thang ở Bản Khoang và Sa Pa Giống lúa địa phương được chọn lọc để chống chịu với nước lạnh, điều này rất cần thiết cho sự phát triển của cây trồng Những giống lúa có khả năng chịu lạnh tốt mới có thể được trồng tại đây, điều này cũng là cơ sở quan trọng cho chính quyền và khuyến nông địa phương trong việc thử nghiệm các giống lúa mới có năng suất cao.
Khả năng chống chịu với điều kiện đầu tư phân bón ít tương tự như khả năng chịu đựng đất nghèo dinh dưỡng Tuy nhiên, có tới 60% tổng số giống lúa địa phương có khả năng chịu đựng mức đầu tư phân bón từ ít đến trung bình.
Các giống lúa địa phương có khả năng chống chịu tốt, nhưng điều kiện canh tác trên ruộng bậc thang và việc vận chuyển vật tư nông nghiệp cũng như sản phẩm thu hoạch gặp nhiều khó khăn, khi 100% nông dân phải sử dụng gùi và thồ Hơn nữa, điều kiện kinh tế của đồng bào dân tộc còn thấp, dẫn đến việc đầu tư phân bón cho trồng lúa bị hạn chế.
Nhiều ng−ời Dao còn quan điểm rằng: bón phân chuồng cho lúa thì rất
Việc sử dụng thóc để ăn và cúng dẫn đến tình trạng "bẩn" trong canh tác Khi bón phân cho lúa, cây sẽ quen với phân bón, và ở vụ sau, nông dân sẽ phải bón nhiều hơn Điều này phản ánh sự hiểu biết hạn chế của người dân về kỹ thuật canh tác lúa, cũng như tập quán canh tác của các dân tộc ít người.
Bảng 4.4 Mức độ chống chịu của các giống lúa địa phương đối với đất, nhiệt độ nước, đầu tư phân bón và chống chịu sâu bệnh
TT Tên giống Đất xấu N−ớc mặt ruộng lạnh §Çu t− Ýt ph©n bãn
Chống chịu sâu bệnh tốt
* Nguồn: Dự án tăng c−ờng cơ sở khoa học bảo tồn in – situ đa dạng cây trồng SaPa, 2002
Các giống lúa địa phương có khả năng kháng sâu bệnh cao, với 55% số giống đạt mức chống chịu từ khá đến tốt Trước đây, việc trồng lúa địa phương không cần sử dụng thuốc trừ sâu hay thuốc trừ bệnh, nhờ vào một số nguyên nhân chính: (i) Bản Khoang là một tiểu vùng sinh thái kín, được bao bọc bởi núi cao, tạo sự cách ly với môi trường bên ngoài (ii) Thời gian không trồng lúa kéo dài qua mùa đông lạnh giá, khiến đất không có nước và nhiệt độ thấp, làm giảm khả năng tồn tại của mầm bệnh (iii) Hạt giống được bảo quản trên sàn tre, gỗ trong nhà và thói quen đun bếp liên tục, giúp hạn chế sự phát triển của sâu bệnh trong hạt giống.
Kể từ năm 1998, nhiều giống lúa mới và lúa lai đã được thử nghiệm tại địa phương với sự hỗ trợ của Nhà nước Mặc dù nhiều giống lúa không thể chịu đựng được điều kiện nước lạnh và không được người dân chấp nhận, nhưng giống lúa lai Tam Mưu (Shan ưu 63) đã chứng tỏ khả năng chịu nước lạnh tốt và phù hợp với điều kiện địa phương.
Giống lúa Tam Mưu chỉ đạt năng suất cao khi được trồng ở những vùng có nước ấm đến lạnh trung bình và đất tốt Ngược lại, giống này không cho năng suất ở các khu vực có nước rất lạnh và năng suất thấp ở những chân ruộng kém chất lượng Khi mới đưa vào trồng, giống lúa lai này có thể cho năng suất khá mà không cần bón phân, nhưng hiện nay, nếu không đầu tư vào phân bón, năng suất sẽ giảm, đặc biệt là ở những vùng đất xấu.
4.2.1.3 Đánh giá sự đa dạng của các giống lúa địa phương
Tập quán canh tác, thuận lợi và khó khăn đến việc nâng cao năng suất và chất lượng giống lúa địa phương
4.3.1 Thuận lợi và khó khăn trong trồng lúa địa phương ở Bản Khoang
Quá trình sản xuất lúa địa phương của người dân Bản bao gồm các bước từ giữ giống, gieo mạ, cấy lúa, chăm sóc sau cấy đến thu hoạch Mặc dù quy trình này tương tự như sản xuất lúa thông thường, nhưng vẫn có nhiều đặc điểm riêng biệt trong từng công đoạn canh tác.
Cung cấp hạt giống lúa địa phương là rất quan trọng, đặc biệt là các giống lúa thuần đã được chọn lọc qua nhiều thế hệ và có khả năng thích nghi cao với điều kiện khó khăn của địa phương Hầu hết các hộ gia đình (84%) tự để giống, trong khi chỉ 16% có sự trao đổi giống, chủ yếu diễn ra trong cộng đồng Việc trao đổi giống thường xảy ra khi gia đình muốn trồng một giống lúa nhưng không có sẵn, hoặc khi thấy giống của nhà khác đồng đều và năng suất cao hơn, hoặc khi giống hiện tại không nảy mầm được.
Nguồn giống chủ yếu hiện nay chủ yếu dựa vào tự cung cấp, dẫn đến việc lựa chọn và bảo quản giống tại hộ gia đình không tuân thủ đầy đủ quy định và yêu cầu sản xuất hạt giống Hơn nữa, Nhà nước vẫn chưa có tiêu chuẩn và biện pháp hỗ trợ cho việc sản xuất giống, đặc biệt là đối với các giống lúa địa phương trong cộng đồng.
Giống lúa đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, là yếu tố quyết định đến năng suất thông qua các biện pháp kỹ thuật Giống lúa được coi là kiểu gen, và dưới tác động của môi trường tự nhiên cũng như nhân tạo, nó tạo ra kiểu hình với các đặc tính như năng suất, sức chống chịu và chất lượng gạo Do đó, để đạt được các biểu hiện kiểu hình mong muốn, cần chú trọng đến kiểu gen và chất lượng của nó.
* Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Biểu đồ 4.6 Nguồn cung cấp giống lúa địa phương
Các giống lúa địa phương đã được canh tác qua nhiều thế hệ với độ thuần cao Hoạt động chọn giống của cộng đồng chủ yếu dựa vào phương pháp chọn lọc hỗn hợp, thực hiện hàng năm hoặc khi phát hiện lẫn nhiều Người dân thường tiến hành chọn lọc theo ba khâu của phương pháp 3 tốt: chọn ruộng tốt, chọn khóm tốt và chọn bông tốt Trước đây, việc chọn lọc theo phương pháp này giúp giảm thiểu sự lẫn tạp, nhưng trong vài năm gần đây, sự chú ý và thực hiện đã giảm sút Nhiều hộ gia đình chỉ thực hiện một số khâu chọn lọc, như chọn ruộng tốt hoặc thu hoạch lúa tốt để làm giống Việc chọn lọc cẩn thận và tuân thủ từng bước của phương pháp là rất cần thiết.
3 tốt chỉ còn thấy xuất hiện ở các hộ gia đình truyền thống, có người già tham gia chọn giống
Kết quả điều tra trên đồng ruộng vụ lúa năm 2003 cho thấy 50% số ruộng lúa bị lẫn giống ở nhiều mức độ khác nhau, với sự xuất hiện của những cây hoặc khóm lúa cao hơn hoặc thấp hơn quần thể Ngoài ra, nhiều ruộng cũng có hiện tượng lẫn tạp ngay trong bông lúa, thể hiện sự đa dạng không đồng nhất trong sản xuất lúa.
Tự để giống của gia đình
Lấy giống của anh em họ hàng Đổi giống với các hộ trong thôn Đổi giống với các ở khác thôn
% hé hạt có màu sắc vỏ trấu khác nhau, có râu và không có râu khác với đặc điểm của giống…
Kết quả phỏng vấn cho thấy hiện tượng lẫn giống lúa trước đây ít xảy ra, nhưng gần đây, khi lúa lai xuất hiện với năng suất cao, nhiều hộ nông dân đã giảm quan tâm đến lúa địa phương và không còn tiến hành chọn giống như trước Đặc biệt, thanh niên hiện nay cũng không mấy chú ý đến vấn đề này.
Chúng tôi đã tiến hành lấy mẫu giống lúa của hộ dân vào đầu vụ gieo mạ năm 2004 để xác định tỷ lệ hạt lẫn giống Kết quả cho thấy tỷ lệ lẫn giống cao, đặc biệt là ở lúa tẻ, và phần lớn mức độ lẫn dưới 3% Điều này cho thấy độ thuần của các giống lúa địa phương hiện nay không đạt yêu cầu sản xuất, ảnh hưởng đến năng suất và chất lượng gạo Để nâng cao chất lượng giống, cần tiến hành chọn lọc hoặc phục tráng các giống lúa địa phương có chất lượng tốt, đồng thời chọn lọc theo hướng chống chịu với các điều kiện ngoại cảnh bất thuận.
* Nguồn: Tổng hợp từ kết quả điều tra
Biểu đồ 4.7 Tỷ lệ mẫu giống lúa địa phương bị lẫn giống (vụ lúa 2004)
+ Khâu kỹ thuật làm mạ
Trong các kỹ thuật liên quan đến khâu làm mạ, qua nghiên cứu cho thấy có 2 vấn đề liên quan:
Nông dân đã nắm vững kỹ thuật làm mạ và chủ động trong quá trình này, từ ngâm ủ, làm đất gieo mạ đến chăm sóc mạ Nhiều người cho rằng khâu mạ rất quan trọng, vì mạ tốt sẽ dẫn đến lúa tốt Dù không bón phân cho lúa, nhưng trong giai đoạn mạ xấu, người dân đã biết cách bón phân cho mạ Chúng tôi nhận thấy rằng kỹ thuật làm mạ của người dân đã được cải thiện đáng kể.
Tuổi mạ quá dài thường gặp ở bà con nông dân khi gieo mạ sau Tết Thanh Minh (5/4) và cấy vào đầu tháng 6, dẫn đến tuổi mạ thường trên 50 ngày Kỹ thuật hiện đại cho thấy cấy mạ non có tiềm năng năng suất cao, nhưng nghiên cứu tại Nhật Bản chỉ ra rằng thời gian sinh trưởng của cây lúa được chia thành ba giai đoạn: 1/3 mạ, 1/3 sinh trưởng, và 1/3 sinh thực Phỏng vấn người già tại Bản Khoang cho thấy cấy mạ già có thể cho thu hoạch, trong khi cấy non quá sẽ không đạt bông Đây là kinh nghiệm quý giá của bà con dân tộc tại Bản Khoang và vùng Sa Pa, cần nghiên cứu sâu hơn để làm rõ vấn đề này.
Khâu kỹ thuật cấy lúa đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, với mật độ cấy lúa địa phương thường từ 20 đến 25 khóm/m² Số dảnh cấy trong mỗi khóm thường dao động từ 5 đến 6 dảnh, nhưng có thể lên tới 10 dảnh/khóm tùy thuộc vào điều kiện cụ thể.
Trước đây, người dân thường nhổ mạ và để 1-2 ngày mới cấy, khi thấy rễ mạ trắng mới tiến hành cấy Hiện nay, vẫn có thói quen để 1 ngày sau mới cấy Trong quá trình cấy, 100% hộ phỏng vấn áp dụng biện pháp chấm gốc lúa vào chậu lân, giúp cung cấp lân cho cây mạ ngay lập tức Tuy nhiên, nếu cấy trong điều kiện nắng gắt, không có mưa và ruộng cạn nước, cây lúa có thể chết Ngược lại, nếu cấy trong điều kiện nhiệt độ trung bình và ruộng đủ nước, cây lúa sẽ phát triển tốt Đầu tháng 6, điều kiện thời tiết lý tưởng với nhiệt độ trung bình phù hợp, số giờ nắng thấp (92 giờ/tháng) và lượng mưa nhiều, tạo thuận lợi cho vụ cấy lúa.
+ Đất đai và bón phân cho lúa
Do điều kiện địa hình rất dốc, nên trồng lúa đ−ợc tiến hành trên ruộng bậc thang Kết quả phân tích đất ở phụ lục 2 cho thấy:
Đất trồng lúa chủ yếu có thành phần cơ giới từ đất cát đến đất thịt trung bình, với phần lớn là đất cát pha, và chỉ một ít là đất thịt nhẹ và thịt trung bình Độ chua của đất, được đo bằng pH B KCL B, dao động từ 3,98 đến 5,10, tập trung chủ yếu ở mức pH khoảng 4,1 đến 4,3.
Hàm lượng hữu cơ tổng số (OM) trong đất ở mức trung bình, dao động từ 2,28% đến 4,88%, chủ yếu tập trung ở mức 3% đến 4% Tuy nhiên, do điều kiện nhiệt độ không khí và nước mặt ruộng thấp, hoạt động của vi sinh vật phân hủy mùn diễn ra chậm Thêm vào đó, trong điều kiện ruộng bậc thang với nước chảy liên tục, dinh dưỡng trong đất dễ bị rửa trôi.
- Hàm l−ợng các chất dinh d−ỡng đều ở mức thấp; hàm l−ợng đạm tổng số từ 0,1 – 0,2%; kali tổng số (K B 2 B O%) dao động từ 0,3 – 1% và lân tổng số (P B 2 B O B 5 B %) 0,19 – 0,28%
Hầu hết đất trồng lúa hiện nay vẫn còn lẫn đá và sỏi với tỷ lệ dao động từ 0 đến 12% Trong đó, loại đất đào giằng sai và đào giằng shí có tỷ lệ lẫn đá cao nhất, từ 10 đến 12% Các loại đất đào mành và đào búa, theo phân loại của người dân địa phương, có tỷ lệ lẫn đá ở mức trung bình.
Kết quả phân tích cho thấy đất rất xấu, hàm l−ợng chất dinh d−ỡng thấp, đất còn lẫn đá gây nhiều khó khăn cho canh tác lúa
Xây dựng mô hình kỹ thuật thử nghiệm
Qua kết quả nghiên cứu ở trên cho thấy:
Ngoài các yếu tố kinh tế, xã hội và văn hóa, năng suất lúa thấp và chất lượng giống suy giảm là nguyên nhân chính khiến nông hộ từ bỏ việc trồng các giống lúa địa phương.
Để nâng cao giá trị sản xuất lúa địa phương, cần thực hiện các biện pháp nhằm tăng năng suất và cải thiện chất lượng giống lúa, từ đó khuyến khích việc sử dụng lúa địa phương trong trồng trọt.
Chúng tôi đề xuất áp dụng hai nhóm biện pháp kỹ thuật nhằm cải thiện năng suất lúa Đầu tiên, tiến hành chọn lọc giống hỗn hợp tại cộng đồng; thứ hai, cung cấp dinh dưỡng cho lúa thông qua việc bón phân Những biện pháp này sẽ được sử dụng để thí nghiệm so sánh ảnh hưởng đến độ đồng đều quần thể và năng suất lúa.
Thí nghiệm được thực hiện trên hai giống lúa đặc trưng là Tầm bèo ngạnh, đại diện cho nhóm lúa tẻ, và Bèo brụt búa, đại diện cho nhóm lúa nếp Cả hai giống này thuộc nhóm lúa địa phương cần được bảo tồn in-situ.
4.4.1 Thí nghiệm đánh giá ảnh hưởng của việc chọn lọc giống đến độ đồng đều quần thể và năng suất lúa địa phương
Kết quả theo dõi, đánh giá độ đồng đều trên một số khía cạnh có liên quan sau:
+ Độ đồng đều về chiều cao của của cây lúa
Chiều cao cây lúa phản ánh tính trạng di truyền của giống và khả năng cung cấp dinh dưỡng liên tục Sự không đồng đều về chiều cao trong quần thể lúa, do lẫn giống, có thể dẫn đến sự sinh trưởng không đồng nhất, với những cây mạnh mẽ hút nhiều dinh dưỡng và che khuất ánh sáng Điều này khiến các cây sinh trưởng chậm hơn bị thiếu hụt dinh dưỡng, dẫn đến sự phát triển kém và tạo điều kiện cho cỏ dại phát triển, làm giảm năng suất chung của quần thể.
Giống của gia đình Đã qua chọn lọc
Biểu đồ 4.9 Tỷ lệ cây lẫn giống phân biệt bằng chênh lệch chiều cao cây
Sau khi tiến hành chọn giống, tỷ lệ cây bị lẫn đã giảm đáng kể, chỉ còn 0,4% đối với giống TBN (Tầm bèo ngạnh) và 0,2% đối với giống BBB (Bèo brụt búa), trong khi tỷ lệ này trước khi chọn lọc là 1,2% đối với TBN và 0,9% đối với BBB Kết quả cho thấy các công thức đã qua chọn lọc của hai giống lúa TBN và BBB có tỷ lệ cây bị lẫn thấp hơn, được phân biệt bởi sự chênh lệch chiều cao cây.
+ Độ đồng đều của quần thể về thời gian sinh trưởng
Quần thể ruộng lúa có độ đồng đều giúp các cá thể sinh trưởng đồng nhất, nhưng sự xuất hiện của các cá thể khác biệt về thời gian sinh trưởng có thể gây ra hiện tượng phát dục sớm hoặc muộn Điều này dẫn đến việc thu hoạch không đồng đều, làm giảm năng suất do có cây chín quá hoặc xanh quá Hơn nữa, sự khác biệt trong thời gian sinh trưởng còn tạo điều kiện cho sâu bệnh phát triển mạnh, với những nơi tốt trở thành ổ ký sinh bệnh, từ đó bùng phát dịch bệnh trong quần thể khi có điều kiện thuận lợi.
Biểu đồ 4.10 cho thấy tỷ lệ cây lẫn sau khi chọn giống là 0,5%, trong khi tỷ lệ này chưa chọn lọc lên tới 1,0% đối với giống BBB và 1,3% với giống TBN Sự chênh lệch tỷ lệ cây lẫn ở giống TBN (0,8%) cao hơn so với giống BBB (0,5%) Đối với giống Bèo brụt búa, sự khác biệt về tỷ lệ cây lẫn giữa hai công thức chọn lọc và không chọn lọc không có ý nghĩa thống kê ở mức 95%.
Giống của gia đình Đã qua chọn lọc
Biểu đồ 4.10 thể hiện tỷ lệ cây lẫn giống dựa trên chênh lệch thời gian sinh trưởng Độ đồng đều của quần thể sản phẩm hạt sau thu hoạch phản ánh kết quả và mức độ thuần của quần thể Tiêu chí này rất quan trọng trong việc sử dụng sản phẩm để làm giống cho vụ tiếp theo Nếu có nhiều hạt lẫn, độ thuần sẽ giảm, dẫn đến chất lượng sản phẩm gạo kém và làm giảm giá trị của thóc gạo.
Giống của gia đình Đã qua chọn lọc
Biểu đồ 4.11 Tỷ lệ hạt lẫn giống sau khi thu hoạch
Biểu đồ 4.11 trình bày số hạt lẫn giống sau thu hoạch, cho thấy các công thức chọn lọc có tỷ lệ hạt không đúng giống thấp hơn so với giống của hộ gia đình chưa qua chọn lọc Dựa vào tỷ lệ lẫn hạt giống, các mẫu giống sản xuất đã qua chọn lọc chỉ đạt độ thuần hạt giống cấp 2 và cấp 3.
+ Chọn lọc và khả năng cho năng suất
Kết quả nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến năng suất, cùng với việc đánh giá năng suất lý thuyết và năng suất thực thu của thí nghiệm, được trình bày chi tiết trong bảng 4.7.
Các chỉ tiêu quan trọng trong nghiên cứu bao gồm số hạt trên bông, khối lượng 1000 hạt và tỷ lệ hạt lép Những chỉ tiêu này cho thấy sự tương đồng giữa các giống lúa đã được chọn lọc và giống lúa hộ gia đình, không chỉ ở giống TBN mà còn ở giống BBB.
Chỉ tiêu số bông/khóm cho thấy rằng các công thức giống chọn lọc có năng suất cao hơn giống hộ gia đình từ 0,2 đến 0,27 bông/khóm Sự khác biệt này có thể là do giống được chọn lọc có hạt đồng đều, cây lúa sinh trưởng tốt, khả năng đẻ nhánh cao và đồng đều hơn.
Bảng 4.7 Bảng các yếu tố cấu thành năng suất thí nghiệm chọn lọc giống
Tầm bèo ngạch Bèo brụt búa Chỉ tiêu ĐVT Giống của gia đình Đã qua chọn lọc
Giống của gia đình Đã qua chọn lọc
N¨ng suÊt lý thuyÕt kg/ha 3506.5 3977.8 3220 3578
N¨ng suÊt thùc thu kg/ha 2632 3180 2515 2745
Chênh lệch năng suất Kg 548 230
Sai số thí nghiệm CV% 7,2 8,0
* Kết quả thí nghiệm năm 2004,
Kết quả tính toán năng suất lý thuyết cho thấy rằng giống có chọn lọc cao hơn mang lại hiệu quả tốt hơn so với giống hộ gia đình, với chênh lệch năng suất đạt 230 kg/ha đối với giống BBB và 548 kg/ha đối với giống TBN Điều này chứng tỏ rằng việc chọn lọc giống đã đóng góp quan trọng vào việc nâng cao tiềm năng năng suất của các giống lúa địa phương.
Kết quả từ phụ lục 12 cho thấy sai số thí nghiệm của cả hai thí nghiệm đều chấp nhận được Năng suất lúa có chọn lọc đã tăng 20,28% (tương ứng với 548 kg/ha) trên giống lúa TBN, trong khi giống lúa BBB chỉ tăng 9,14% (tương ứng với 230 kg/ha) Mức tăng năng suất đối với giống lúa TBN có ý nghĩa thống kê ở mức tin cậy 95%, trong khi đối với giống lúa BBB, sự khác biệt về năng suất không có ý nghĩa thống kê, cho thấy việc chọn lọc không ảnh hưởng rõ đến năng suất của giống lúa BBB.
Đánh giá tính khả thi của biện pháp kỹ thuật
Lúa địa phương tại xã Bản Khoang hiện có 20 giống với mức đa dạng cao (Hg 0,7136), nhưng sự đa dạng này đang giảm dần trong 4 năm qua Hiện có 10 giống lúa đang có nguy cơ biến mất rất cao cần được bảo tồn ex-situ, cùng với 8 giống có nguy cơ biến mất thấp hơn cần tiến hành bảo tồn in-situ, bao gồm: bèo brụt búa, bèo ông củ, bèo brụt giằng, bèo pờ ây, tầm bèo ngạnh, bèo sống và bèo chọp.
Việc duy trì các giống lúa địa phương phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện tự nhiên, kinh tế hộ, khả năng thích nghi của giống Trong đó, kinh tế hộ, diện tích đất trồng lúa, nhân lực gia đình và đặc biệt là năng suất lúa thấp cùng với chất lượng giống giảm là những nguyên nhân chính khiến người dân từ bỏ việc trồng các giống lúa địa phương.
Năng suất lúa địa phương đang giảm dần do nhiều yếu tố, trong đó có bản chất di truyền của giống, điều kiện đất trồng kém, nhiệt độ nước mặt ruộng thấp, thiếu nước, độ thuần giống giảm và kỹ thuật canh tác yếu Một số yếu tố như di truyền và điều kiện tự nhiên khó thay đổi, nhưng có thể cải thiện năng suất bằng cách áp dụng các kỹ thuật như chọn lọc giống để nâng cao độ thuần và chất lượng, cũng như bón phân hợp lý cho lúa.
Biện pháp kỹ thuật chọn lọc hỗn hợp đã cải thiện độ thuần và năng suất lúa địa phương từ 9,14% đến 20,28%, tương đương với 230 đến 548 kg thóc/ha Giá trị sản xuất cũng tăng lên 0,69 triệu đồng/ha đối với giống lúa bèo brụt búa và 1,26 triệu đồng/ha với giống tầm bèo ngạnh so với trước khi áp dụng biện pháp chọn lọc.
5, Biện pháp kỹ thuật bón phân viên nén cho lúa địa phương trên ruộng