Tình hình nghiên c ứ u
Nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 - 1930 đã có nhiều công trình thuộc các ngành như chính trị học, triết học,
Thứ nhất, các chuyên khảo lịch sử, các tác phẩm viết về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, như: “Chủ tịch Nguyễn Ái
Ban chấp hành Trung ương Đảng đã thực hiện các công trình nghiên cứu như “Quốc – tiểu sử và sự nghiệp”, “Trần Dân Tiên – Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ chủ tịch” và “Nguyễn Ái Quốc tiểu sử” Những đề tài này nằm trong chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.02, giai đoạn 1991-2020, nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử quan trọng.
Vào năm 1995, hội thảo quốc tế mang tên “Hội thảo quốc tế về chủ tịch Nguyễn Ái Quốc – Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn” được tổ chức nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của Chủ tịch Nguyễn Ái Quốc (1890-1990) Tại hội thảo, nhiều báo cáo đã được trình bày, nghiên cứu sâu sắc về thân thế, sự nghiệp, và những đóng góp đa dạng của Nguyễn Ái Quốc Một trong những tác phẩm đáng chú ý là “Nguyễn Ái Quốc – Một con người, một dân tộc, một thời đại, một sự nghiệp” trích từ cuốn “Nguyễn Ái Quốc – Tinh hoa và khí phách của dân tộc” của Phạm Văn Đồng, đã giới thiệu một cách cô đọng về cuộc đời và những cống hiến của Nguyễn Ái Quốc.
Quốc đối với dân tộc, nhân loại, “Chiến sĩ quốc tế Nguyễn Ái Quốc – Hoạt động thực tiễn và lý luận” của Phan Ngọc Liên
Tác phẩm “Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Nguyễn Ái Quốc” của Trần Văn Giàu đã phân tích sâu về nguồn gốc và cơ sở hình thành tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, trong khuôn khổ đề tài “Tư tưởng Nguyễn Ái Quốc và con đường cách mạng Việt Nam” thuộc chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX.02 giai đoạn 1991-1995 Công trình này trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về tư tưởng Nguyễn Ái Quốc, làm rõ những đóng góp quan trọng trong quá trình hình thành và phát triển tư tưởng của ông, cùng với những luận điểm sáng tạo lớn về đường lối, phương pháp, chiến lược, tổ chức lực lượng cách mạng, tư tưởng quân sự, tư tưởng nhân văn, và đạo đức, văn hóa Nguyễn Ái Quốc.
Trong tác phẩm “Nguyễn Ái Quốc nhà tư tưởng lỗi lạc”, tác giả Song Thành phân tích sâu sắc quan niệm và tiêu chí đánh giá một nhà tư tưởng, đồng thời làm rõ các tiền đề lý luận và thực tiễn liên quan.
M ục đích, nhiệ m v ụ nghiên c ứ u
3.1 Mục đích của khóa luận
Khóa luận này phân tích sự chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc giai đoạn 1911 – 1930, làm rõ những ảnh hưởng của tư tưởng này đối với lịch sử tư tưởng Việt Nam Qua đó, bài viết nêu bật giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc trong sự nghiệp cách mạng, khẳng định tầm quan trọng của ông trong việc định hình con đường đấu tranh giành độc lập cho dân tộc.
- Phân tích bối cảnh và những tiền đềhình thành tư tưởng Nguyễn Ái
- Phân tích sự chuyển biến tư tưởng Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn
1911 – 1930 về hai nội dung chính: vấn đề dân tộc thuộc địa và cách mạng giải phóng dân tộc
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Quá trình chuyển biến tư tưởng Nguyễn Ái
Đề tài nghiên cứu tập trung vào sự chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong giai đoạn 1911 – 1930, thông qua việc phân tích một số tác phẩm trong Hồ Chí Minh toàn tập tập I, tập II và tập III (Hồ Chí Minh, 2000, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội).
5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa Mac – Lênin và các nghiên cứu trước đó có liên quan đến đề tài.
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu văn bản học, phân tích, so sánh và tổng hợp, cùng với phương pháp quy nạp và diễn dịch, cũng như phương pháp lịch sử - cụ thể để đạt được kết quả nghiên cứu toàn diện.
6 Đóng góp của khóa luận
Khóa luận này phân tích sự chuyển biến trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến 1930, dựa trên Hồ Chí Minh toàn tập Qua đó, bài viết khẳng định giá trị của tư tưởng Nguyễn Ái Quốc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo quý giá cho việc học tập và nghiên cứu tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đồng thời hữu ích cho những ai quan tâm đến lĩnh vực nghiên cứu này.
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của bài nghiên cứu được kết cấu thành 2 chương, 6 tiết
CHƯƠNG I: ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CHO SỰ CHUYỂN BIẾN TƯ TƯỞNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC GIAI ĐOẠN 1911-1930
1.1 Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội thế giới và Việt Nam đầu thế kỷ
1.1.1 Điều kiện kinh tế, chính trị thế giới đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn độc quyền sang cạnh tranh và đế quốc, với Anh, Pháp, Đức, và Mỹ là những ví dụ tiêu biểu Trong khoảng thời gian này, các nước phương Tây đã gia tăng các cuộc xâm lược thuộc địa, dẫn đến việc "miếng bánh thế giới đã bị phân chia xong" Sự xâm lược thuộc địa của các quốc gia tư bản đã gây ra mâu thuẫn dân tộc giữa các dân tộc áp bức và bị áp bức.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, kỹ thuật, văn hóa và tư tưởng ở các quốc gia phương Tây đã mang lại nhiều thành tựu lớn Tuy nhiên, điều này cũng gây ra những tác động tiêu cực và không thể biện minh cho bản chất bóc lột và xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.
Các quốc gia phương Đông như Triết Tiên, Nhật Bản và Việt Nam đã chịu ảnh hưởng từ mô hình nhà nước tập quyền của nền văn minh Trung Hoa, dẫn đến sự phát triển đỉnh cao nhưng cũng rơi vào bế tắc và khủng hoảng Mô hình kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp lúa nước, kết hợp giữa hộ gia đình và cộng đồng công xã nông thôn Mặc dù thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển sớm, nhưng không đủ để hình thành nhà nước phong kiến do tư tưởng “trọng nông ức thương” và chính sách “bế quan tỏa cảng” Cơ cấu xã hội điển hình ở các quốc gia này bao gồm các giai cấp như vua chúa, quý tộc, quan lại, nông dân, nông nô, trí thức, thợ thủ công và thương nhân.
Sự xâm lược của các nước phương Tây đã tác động mạnh mẽ đến các quốc gia phương Đông, dẫn đến những biến đổi sâu sắc trong xã hội Những thay đổi này đã tạo ra những yếu tố đầu tiên của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời hình thành một cơ cấu xã hội và kiến trúc thượng tầng mới.
1.1.2 Chuyển biến chính trị, kinh tế, xã hội Việt Nam
Nửa cuối thế kỷ XIX, Pháp nhanh chóng phát triển chủ nghĩa đế quốc, hình thành một hệ thống thuộc địa lớn thứ hai sau Anh Từ 1858 đến 1883, Pháp xâm lược Việt Nam nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa khai thác trọng yếu Trong quá trình này, Pháp áp dụng nhiều chính sách, bao gồm "chia để trị", dẫn đến việc Việt Nam bị chia thành ba kỳ với ba chế độ cai trị khác nhau: Bắc Kỳ và Trung Kỳ là hai xứ bảo hộ giữ lại chính quyền phong kiến, trong khi Nam Kỳ hoàn toàn do Pháp nắm quyền Hệ thống chính quyền dưới tỉnh được quản lý bởi người Việt với các chức vụ như tri phủ, tri huyện, tri châu, chánh tổng, xã trưởng, và lý trưởng.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp, với tư cách là nước thắng trận, đã tích cực khai thác thuộc địa, đặc biệt tại Đông Dương và Châu Phi Chính quyền Pháp tiếp tục duy trì giai cấp địa chủ và tay sai người Việt để cai trị, đồng thời thực hiện các chính sách nhằm lôi kéo một bộ phận nhỏ trong giới thượng lưu Việt Nam, bao gồm một số nhà tư sản và địa chủ lớn, để bảo vệ quyền lợi cá nhân và chống lại nhân dân Hành động này đã làm gia tăng tình trạng phân hóa và căng thẳng chính trị trong xã hội Việt Nam.
Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu của Việt Nam thời phong kiến đã chịu sự tác động mạnh mẽ từ phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa do Pháp áp đặt, dẫn đến sự chuyển biến thành nền kinh tế thuộc địa – tư bản chủ nghĩa Sự chuyển đổi này diễn ra nhanh chóng, tạo ra một cơ cấu kinh tế mất cân đối và dẫn đến sự phân hóa giai cấp, tầng lớp trong xã hội một cách không triệt để.
Cuối thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam chứng kiến sự xuất hiện của một bộ phận tư sản và quan cai trị người Pháp, dẫn đến sự thay đổi trong cấu trúc xã hội Cấu trúc tứ dân truyền thống: sĩ, nông, công, thương bị xóa bỏ, thay vào đó là sự phân chia giai cấp dựa trên quyền lợi kinh tế và các mối quan hệ theo kiến trúc thượng tầng phương Tây, bao gồm các giai cấp cơ bản như địa chủ phong kiến, nông dân, công nhân, tư sản và tiểu tư sản Đầu thế kỷ XX, hệ thống giáo dục Việt Nam có ba hình thức khác nhau tại Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, trong đó ở Nam Kỳ, chữ Hán gần như bị bãi bỏ và hầu hết các tổng xã đều có trường tiểu học bằng tiếng Pháp.
Trong bối cảnh giáo dục Việt Nam thời kỳ Pháp thuộc, việc dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ diễn ra chủ yếu ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ, nơi mà các trường lớp dạy chữ Hán vẫn phổ biến Sự khác biệt trong các chế độ giáo dục đã gây khó khăn cho người Pháp trong việc thống nhất chính sách cai trị, dẫn đến việc thực hiện các cuộc cải cách giáo dục Năm 1906, cải cách giáo dục đầu tiên do toàn quyền P.Beau khởi xướng, cho phép giáo dục Pháp – Việt và Nho giáo cùng tồn tại Tiếp theo, cuộc cải cách thứ hai diễn ra từ năm 1917 đến 1929 với mục tiêu xóa bỏ nền giáo dục Nho giáo và củng cố nền giáo dục mới.
Việt Nam do người Pháp thóng nhất, tổ chức và nhằm phục vụ mục đích nô dịch của người Pháp