Tình hình nghiên cứu đề tài
Phật giáo có một lịch sử phát triển lâu dài và đóng góp quan trọng cho tư tưởng người dân Việt Nam, thu hút sự quan tâm từ giới nghiên cứu khoa học xã hội cũng như các trí thức Phật học Các đề tài nghiên cứu về Phật giáo rất phong phú và đa dạng, trong đó tác phẩm "Việt Nam Phật giáo sử luận" của tác giả Nguyễn Lang là một công trình tiêu biểu, góp phần làm sáng tỏ những giá trị văn hóa và tư tưởng của Phật giáo tại Việt Nam.
Nội (1992) đã phân tích các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và nhấn mạnh vai trò quan trọng của các thiền sư trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước của các triều đại phong kiến Việt Nam Thông qua tác phẩm "Lịch sử Phật giáo Việt Nam" (Nxb KHXH), tác giả cung cấp cái nhìn sâu sắc về ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa và lịch sử dân tộc.
Hà Nội 1998), các tác giả đã bàn về lịch sử du nhập và quá trình phát triển của
Phật giáo, từ khi mới du nhập vào Việt Nam cho đến thế kỷ XX, đã hình thành nhiều tông phái khác nhau và đóng vai trò quan trọng trong tư tưởng chính trị của đất nước Sự phát triển của Phật giáo không chỉ ảnh hưởng đến đời sống tinh thần mà còn góp phần định hình các quan điểm chính trị xuyên suốt lịch sử Việt Nam.
Trong cuốn “Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay” do Giáo sư Nguyễn Tài Thư chủ biên, các tác giả đã phân tích vai trò quan trọng của Phật giáo trong việc hình thành hệ tư tưởng và nhân cách của người Việt Đồng thời, Nguyễn Dăng Duy trong tác phẩm “Phật giáo và văn hoá Việt Nam” cũng nhấn mạnh ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo đối với các lĩnh vực chính trị, văn hoá và đạo đức của dân tộc Việt Nam.
Tác giả Vũ Minh Tuyên trong tác phẩm "Cơ duyên tồn tại và phát triển của Phật giáo ở Việt Nam hiện nay (Qua một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ)" (Nxb chính trị quốc gia, 2010) đã nghiên cứu và phân tích các yếu tố kinh tế xã hội, tâm lý và nhận thức ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của Phật giáo tại Việt Nam Những kết quả nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về vai trò của Phật giáo trong bối cảnh hiện đại và các cơ hội phát triển của nó trong xã hội Việt Nam.
Hiện nay, Phật giáo tại Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện như số lượng tín đồ, cơ sở thờ tự, tổ chức, lễ hội và quan hệ quốc tế Những phân tích của tác giả đã vẽ nên một bức tranh toàn diện về tình hình Phật giáo ở đất nước này.
Tác phẩm "Phật giáo Hưng Yên xưa và nay" của tác giả Nguyễn Đại Đồng, xuất bản năm 2012 bởi Nxb Văn học, khám phá sự phát triển của Phật giáo tại Hưng Yên từ quá khứ đến hiện tại Tác giả cũng đề cập đến thực trạng Phật giáo hiện nay ở Hưng Yên và đánh giá các di tích Phật giáo nổi bật trong khu vực, bao gồm chùa Nôm và chùa Pháp.
Vân,… Điểm qua tình hình nghiên cứu trên, chúng ta có thể rút ra vài nhận xét sau:
Quá trình phát triển và vai trò của Phật giáo trong xã hội là chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm Các nghiên cứu này tiếp cận Phật giáo từ nhiều quan điểm và góc độ khác nhau, làm nổi bật tầm ảnh hưởng của nó trong đời sống cộng đồng.
Trong nhiều nghiên cứu về Phật giáo, các học giả đã tập trung vào việc khám phá những giá trị cốt lõi, quá trình phát triển và sự tồn tại của Phật giáo qua các thời kỳ.
Nghiên cứu về điều kiện phát triển Phật giáo tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay là cần thiết, đặc biệt khi đây là một huyện điển hình cho sự đổi mới và tiếp xúc với Phật giáo từ sớm Mặc dù gần thủ đô, huyện Văn Lâm vẫn chưa được khai thác đầy đủ tiềm năng phát triển tôn giáo này.
M ục tiêu, nh i ệ m v ụ c ủa đề tài
Mục tiêu của khóa luận là phân tích các điều kiện và tiền đề cho sự phát triển của Phật giáo tại huyện Văn Lâm, dựa trên lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện mục đích nghiên cứu nêu trên, đề tài có nhiệm vụ:
Bài viết này sẽ làm rõ các khái niệm liên quan đến tôn giáo, phân tích cơ sở tồn tại và phát triển của tôn giáo theo quan điểm của CN Mác-Lênin Đồng thời, chúng tôi sẽ khái quát tình hình Phật giáo ở Việt Nam, đặc biệt là Phật giáo huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
Huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, có những điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và tôn giáo đặc thù, ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của Phật giáo tại địa phương Chính trị ổn định tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động tôn giáo, trong khi kinh tế phát triển góp phần nâng cao đời sống người dân, khuyến khích họ tham gia các hoạt động Phật giáo Bên cạnh đó, các giá trị văn hóa và truyền thống tôn giáo ở Văn Lâm cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì và phát triển các hoạt động Phật giáo, tạo nên sự hòa quyện giữa tín ngưỡng và đời sống cộng đồng.
Phật giáo ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên hiện nay đang phát triển mạnh mẽ qua ba phương diện chính: ý thức tôn giáo ngày càng được nâng cao trong cộng đồng, nghi lễ thờ cúng Phật giáo trở nên phổ biến và đa dạng, cùng với sự hình thành và phát triển các thiết chế tổ chức Phật giáo Những biểu hiện này không chỉ thể hiện sự hồi sinh của Phật giáo mà còn góp phần vào việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tại địa phương.
Đối tƣợ ng, ph ạm vi nghiên cứ u c ủa khóa luậ n
* Đối tượng nghiên cứu: Là bước phát triển của Phật giáo ở huyện Văn Lâm từsau năm 1999 đến nay
* Phạm vi nghiên cứu của khóa luận: Chủ yếu khảo sát sự phát triển của
Phật giáo Văn Lâm được xem xét từ ba khía cạnh chính: ý thức tôn giáo, nghi lễ thờ cúng và cơ cấu tổ chức của Phật giáo tại địa phương Tuy nhiên, do thời gian có hạn, chúng tôi chưa thể phân tích sâu về những bất cập và hạn chế trong sự tác động khách quan đến Phật giáo ở Văn Lâm.
Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứ u
Đề tài này được xây dựng dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác- Lênin, cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm quán triệt đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là trong lĩnh vực tôn giáo.
Khóa luận áp dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp từ Triết học, bao gồm lôgíc, lịch sử, phân tích và tổng hợp Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng kết hợp các phương pháp xã hội học như điều tra xã hội học, thống kê so sánh, đối chiếu và nghiên cứu vùng để đạt được kết quả toàn diện.
6.Kết quảnghiên cứu khóa luận
Huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, hiện đang có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của Phật giáo, nhờ vào tình hình chính trị ổn định, kinh tế phát triển, xã hội văn minh, cùng với nền văn hóa đa dạng và tôn giáo phong phú Những yếu tố này tạo nền tảng vững chắc cho việc lan tỏa và củng cố các giá trị Phật giáo trong cộng đồng địa phương.
Phật giáo tại huyện Văn Lâm hiện nay đang phát triển mạnh mẽ qua các biểu hiện rõ nét trong đời sống tinh thần, bao gồm ý thức tôn giáo, nghi lễ thờ cúng và cấu trúc tổ chức Sự phát triển này không chỉ thể hiện qua việc người dân tham gia tích cực vào các hoạt động tôn giáo mà còn qua mối quan hệ hợp tác với các cấp chính quyền và sự hòa hợp với các tôn giáo khác trong khu vực.
Ý nghĩa khóa luậ n
Khóa luận này nghiên cứu thực trạng Phật giáo tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, nhằm làm rõ các điều kiện khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo Qua đó, khóa luận góp phần vào việc nghiên cứu tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững của Phật giáo trong khu vực.
Khóa luận là tài liệu quý giá cho việc học tập, giảng dạy và nghiên cứu về Phật giáo, đặc biệt là trong bối cảnh Phật giáo Việt Nam hiện nay.
K ế t c ấu khóa luậ n
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục Khóa luận có nội dung chính gồm: 2 chương, 5 tiết.
LÝ LUẬ N V Ề NGU Ồ N G Ố C CHO S Ự RA ĐỜ I, T Ồ N T ẠI VÀ PHÁT TRIỂ N C ỦA TÔN GIÁO THEO QUAN ĐIỂ M CH Ủ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀ QUÁ TRÌNH DU NHẬP VÀ PHÁT TRIỂ N PH ẬT GIÁO Ở Vi Ệ T
Lý luậ n v ề ngu ồ n g ố c cho s ự ra đờ i, t ồ n t ại và phát triể n c ủa tôn giáo theo
Khi nghiên cứu sự phát triển của Phật giáo tại huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, cần thiết phải xem xét lại các vấn đề cơ sở lý luận liên quan.
Chủ nghĩa Mác cung cấp cái nhìn về nguồn gốc và sự phát triển của Phật giáo, nhấn mạnh rằng nguyên nhân phát triển của tôn giáo này nằm trong bối cảnh xã hội mà nó tồn tại, bao gồm các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa và đời sống tôn giáo Sự biến đổi của Phật giáo chịu ảnh hưởng trực tiếp từ những điều kiện này Tuy nhiên, để lý giải sự phát triển của Phật giáo ở Văn Lâm, cần xem xét cả các yếu tố nội tại của chính Phật giáo, như khả năng thích nghi và tự điều chỉnh của nó Sự phát triển này không còn giống với những nguyên nhân mà Mác và Ăngghen đã chỉ ra trong thế kỷ XIX, mà đã được bổ sung bởi các yếu tố mới trong bối cảnh hiện đại Do đó, việc áp dụng các quan điểm của Mác, Ăngghen và Lênin để nghiên cứu tôn giáo là cần thiết, và chương 2 sẽ khám phá những điều kiện mới trong sự phát triển của Phật giáo tại huyện Văn Lâm, điều mà chưa được đề cập trong bối cảnh thế kỷ XIX Việc làm rõ các khái niệm liên quan là bước đầu tiên cần thiết cho quá trình nghiên cứu này.
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm tôn giáo, nguồn gốc, kết cấu chức năng của tôn giáo:
Tôn giáo xuất hiện từ rất sớm, nhưng hiện nay không có một định nghĩa duy nhất nào có thể bao quát toàn bộ nội dung của khái niệm "tôn giáo" từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây Tương tự như văn hóa, định nghĩa về tôn giáo cũng rất đa dạng và phong phú, phụ thuộc vào góc độ tiếp cận của các nhà khoa học và nhà nghiên cứu.
Tôn giáo được cấu thành từ ba yếu tố chính: ý thức tôn giáo, sự thờ cúng tôn giáo và thiết chế tổ chức tôn giáo Trong đó, ý thức tôn giáo đóng vai trò quan trọng nhất, bao gồm hai trình độ là tâm lý tôn giáo và hệ tư tưởng tôn giáo Hạt nhân của hệ tư tưởng tôn giáo chính là yếu tố quyết định trong việc hình thành niềm tin và giá trị của tín đồ.
Thần học tôn giáo tập trung vào niềm tin tôn giáo, phản ánh quan niệm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và lịch sử C Mác và Ăngghen đã định nghĩa tôn giáo như là sự phản ánh hư ảo về các thế lực bên ngoài chi phối cuộc sống con người Định nghĩa này khẳng định bản chất của "niềm tin tôn giáo" và mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, đồng thời thể hiện vai trò độc lập của ý thức này Niềm tin tôn giáo phản ánh một cách hư ảo toàn bộ đời sống thực tế, trong đó con người và các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và chính mình cũng bị biến đổi.
Một trong những tiền đề lý luận của quan niệm Mác xít về tôn giáo là luận điểm duy vật của Phoi bách, cho rằng con người sáng tạo ra Chúa trời theo "hình ảnh" của mình, chứ không phải ngược lại Ăngghen khẳng định rằng tôn giáo là sự phản ánh "hư ảo" của các mối quan hệ thực tế trong xã hội, với "Con người hiện thực" theo quan điểm của C.Mác Do đó, con người là chủ thể "sáng tạo" ra tôn giáo, nhằm thiêng hóa sức mạnh bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày Phương thức nhận thức để sáng tạo ra tôn giáo là thiêng hóa và hư ảo, dẫn đến việc hình thành cái "siêu nhiên", "thần thánh" trong ý thức con người, gắn liền với niềm tin vào "tính siêu nhiên" và "niềm tin tôn giáo".
Theo Ăngghen, niềm tin tôn giáo phản ánh bản chất của con người khi họ tin vào "lực lượng siêu nhiên" và "thế giới quan hoang đường" Sự xuất hiện của niềm tin tôn giáo là kết quả tất yếu từ quá trình nhận thức trong lịch sử tiến hóa, khi con người cảm thấy bất lực trước những sức mạnh của tự nhiên và đã tưởng tượng ra sự tồn tại của Thánh.
Thần thánh đóng vai trò quan trọng trong việc thiết lập mối liên hệ thân thiện với các thế lực siêu nhiên nhằm tìm kiếm sự bảo vệ và "bù đắp hư ảo" từ tôn giáo Điều này nhấn mạnh bản chất của tôn giáo, thể hiện rõ qua chức năng "đền bù hư ảo" mà nó mang lại.
C.Mác cũng khẳng định: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân” [53,tr.570] Đây là định nghĩa từgóc độ triết học về tôn giáo, cơ sở lý luận giúp lý giải các điều kiện, tiền đề cho sựra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo.
Tôn giáo hạt nhân không chỉ là sự phản ánh đặc biệt của con người trước thế giới hiện thực, mà còn có khả năng tác động trở lại các yếu tố xã hội thông qua các tổ chức tôn giáo Để nghiên cứu vai trò của tôn giáo, cần xem xét nó như một tiểu kiến trúc thượng tầng và một thực thể xã hội với ba yếu tố cơ bản: ý thức tôn giáo, sự thờ cúng tôn giáo và tổ chức tôn giáo, trong đó ý thức tôn giáo là yếu tố cốt lõi Sự lan tỏa và ảnh hưởng của tôn giáo được quy định bởi các tổ chức và thiết chế tôn giáo, thực hiện các hoạt động tôn giáo trong bối cảnh kinh tế xã hội Theo quan điểm Mác xít, Hồ Chí Minh khẳng định tôn giáo là một thành tố của văn hóa, có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển văn hóa Sự phát triển của Phật giáo ở huyện Văn Lâm cũng được xem xét dưới góc nhìn này.
Dựa trên học thuyết Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước ta nhận thức rõ về nguồn gốc và bản chất của tôn giáo, cho rằng tôn giáo phát sinh từ sự bất lực của con người trước thiên tai và áp bức xã hội Trong bối cảnh xã hội còn nhiều khó khăn và thiếu hụt tri thức khoa học, con người thường tìm đến "sức mạnh huyền bí" của tôn giáo Tuy nhiên, tôn giáo cũng là một thành tố văn hóa quan trọng, tồn tại lâu dài trong sự nghiệp cách mạng và có nhiều điểm tương đồng với công cuộc đổi mới Công tác tôn giáo không chỉ là nhiệm vụ của Đảng mà còn là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, với trọng tâm là công tác dân vận.
Trong phép biện chứng duy vật, nguyên nhân và kết quả là một trong sáu cặp phạm trù cơ bản Nguyên nhân được hiểu là sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong mỗi sự vật hoặc giữa các sự vật, dẫn đến những biến đổi nhất định Một phần của nguyên nhân có thể cấu thành cơ sở tồn tại của đối tượng, thể hiện sự tác động liên tục, không phải chỉ diễn ra một lần.
Khái niệm điều kiện, tiền đề:
- Tiền đề: là những sự vật hiện tượng có trước tham gia kết hợp để cho sự vật, hiện tượng mới được hình thành, ra đời
1 Cái cần phải có để cho một cái khác có thể xảy ra;
2 Điều nếu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc nào đó;
3 Những gì có thểtác động đến tính chất, sự tồn tại hoặc sự xảy ra của một cái gì đó
Điều kiện là những yếu tố bên ngoài và bên trong ảnh hưởng đến sự ra đời và phát triển của sự vật, hiện tượng Chính vì vậy, các điều kiện chính trị, kinh tế và văn hóa của Việt Nam và thế giới đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Phật giáo Trong chương 2, tôi sẽ phân tích cả điều kiện khách quan và nội tại ảnh hưởng đến sự phát triển của Phật giáo ở huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên.
1.1.2 Nguồn gốc xã hội cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của tôn giáo theo quan điểm CN Mác - Lênin
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin đã đóng góp lớn cho nhân loại trong nghiên cứu tôn giáo, mặc dù họ không coi đây là đối tượng chính Trong bối cảnh cách mạng xã hội, họ phải đối mặt với sự phản kháng từ các lực lượng bảo thủ, bao gồm cả các nhà nước tôn giáo Mặc dù không có tác phẩm chuyên biệt về tôn giáo, C.Mác và Ăngghen đã đề cập đến vấn đề này trong nhiều tác phẩm sớm như "Vấn đề Do Thái" và "Phê phán triết học pháp quyền của Heghen" Họ đã cung cấp những lý luận quan trọng về bản chất và nguồn gốc của tôn giáo, nhấn mạnh rằng việc hiểu rõ các điều kiện xã hội, nhận thức và tâm lý là cần thiết để giải thích sự tồn tại của tôn giáo một cách khoa học V.I Lênin đã gọi những phát hiện này là nguồn gốc của tôn giáo, cho thấy rằng chúng tồn tại trong chính xã hội và con người.
C.Mác đã khẳng định rằng “Con người sáng tạo ra tôn giáo chứ tôn giáo không sáng tạo ra con người,” nhấn mạnh rằng con người là sản phẩm của xã hội thực tế Tôn giáo do con người tạo ra nhưng cũng có tác động ngược lại đến họ Mác, Ăngghen và Lênin đều cho rằng nguồn gốc xã hội là yếu tố quan trọng nhất trong việc hình thành và duy trì tôn giáo Nguồn gốc xã hội của tôn giáo bao gồm những nguyên nhân và điều kiện khách quan trong đời sống, liên quan đến cả mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau.
Quá trình du nhậ p, t ồ n t ại và phát triể n c ủ a Ph ật giáo ở Vi ệ t Nam
1.2.1 Giai đoạ n du nh ậ p t ừ th ế k ỷ 1 sau Công nguyên đến trướ c th ế k ỷ X
Văn hóa Việt Nam đã hình thành sớm và nằm ở vị trí giao thoa với nhiều luồng trao đổi văn hóa thương mại, trong đó Phật giáo đã được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật giáo tại Việt Nam vẫn chưa đạt được sự thống nhất về thời điểm cụ thể của sự du nhập này Một số ý kiến cho rằng, vào những thế kỷ trước Công nguyên, nhiều thương nhân Ấn Độ đã đến Việt Nam mang theo văn hóa và Phật giáo Trong khi đó, một số nhà nghiên cứu khác lại cho rằng Phật giáo được du nhập vào khoảng thế kỷ II sau Công nguyên Đa số các nhà nghiên cứu đồng tình rằng Phật giáo đã được truyền vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu Công nguyên, với sự tiếp thu ban đầu từ Ấn Độ, và từ thế kỷ V trở đi, ảnh hưởng từ Phật giáo Trung Hoa ngày càng mạnh mẽ, cùng với một số ít ảnh hưởng sau này.
Trước thế kỷ V, Phật giáo du nhập vào Việt Nam chủ yếu qua đường biển và đường bộ từ Ấn Độ, nhờ vào sự giao lưu thương mại giữa các thương nhân Ấn Độ và Đông Á Trong giai đoạn này, người Việt đã tiếp nhận Phật giáo một cách hòa bình, dẫn đến sự hòa nhập của tôn giáo này với văn hóa bản địa Nhiều tăng sĩ Ấn Độ và Trung Á như Ma Ha Kỳ Vực, Khưu Đà La, Khương Tăng Hội, Chi Lương Cương, và Đạt Ma Đề Bà đã đến Việt Nam để truyền bá giáo lý Đến thế kỷ V, Phật giáo đã hiện diện rộng rãi trên đất Việt và xuất hiện nhiều nhà sư.
Việt Nam nổi tiếng với nhiều danh sư như Huệ Thắng, Đạo Thiền, Đạo Cao và Pháp Minh Những vị sư này không chỉ được biết đến trong nước mà còn được mời sang Trung Quốc để thuyết pháp, thể hiện tầm ảnh hưởng và giá trị của họ trong cộng đồng Phật giáo quốc tế.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam chủ yếu qua đường biển và một phần qua lưu vực sông Hồng bằng đường bộ Trong thời kỳ nước ta bị phong kiến phương Bắc đô hộ, từ thế kỷ VI đến trước thế kỷ X, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi đó, ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc ngày càng tăng Các phái thiền Trung Quốc cũng lần lượt được đưa vào Việt Nam.
- Phái Thiền Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci ) vào Việt Nam khoảng năm
Tỳ Ni Đa Lưu Chi, một nhà sư từ Ấn Độ, đã mang thiền phái này sang Việt Nam vào năm 580 và tu tập tại chùa Pháp Vân Thiền phái này đã phát triển qua 18 đời với 29 vị Đại sư và tiếp tục ảnh hưởng đến văn hóa tâm linh Việt Nam cho đến thế kỷ XII - XIII.
Thiền Vô Ngôn Thông được đưa vào Việt Nam vào năm 820 bởi Võ Ngôn Thông, người đã tu hành tại chùa Kiến Sơ Hiện nay, phái thiền này có 15 đời và 40 vị Đại sư Sau đó, thiền phái này được nhà Lý kế thừa và đến thời nhà Trần, đã được tổng hợp để xây dựng thiền phái Trúc Lâm.
Phật giáo đã được truyền bá vào Việt Nam trong suốt mười thế kỷ, trong bối cảnh đất nước đang bị xâm lược và đô hộ Thời điểm đó, các tín ngưỡng dân gian và bản địa vẫn tồn tại song song, tạo nên một môi trường văn hóa phong phú và đa dạng.
Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong việc thờ cúng Thần Tự nhiên và Tổ tiên, đồng thời chấp nhận và bản địa hóa Phật giáo để phù hợp với văn hóa dân tộc Phật giáo không chỉ ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống nhân dân mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển mới trong giai đoạn độc lập, tự chủ của đất nước.
Phật giáo đã truyền vào Việt Nam và các nước khác một cách êm thấm, mang theo tư tưởng khoan dung, từ bi, hỉ xả, vô ngã và vị tha Điều này được thực hiện thông qua con đường hòa bình, phù hợp với tinh thần “tùy duyên phương tiện” và “khế cơ, khế lý”.
1.2.2 Giai đoạ n t ừ th ế k ỷ X đến năm 1981
- Giai đoạn hưng thịnh Tk X - Tk XIV
Triều đại Nhà Lý và Nhà Trần là hai trong số những triều đại phong kiến lâu dài nhất trong lịch sử Việt Nam, đóng góp quan trọng vào sự phát triển của đất nước Đại Việt Sự trị vì của hai triều đại này không chỉ tạo ra những thành tựu văn hóa, kinh tế mà còn khẳng định sức mạnh và bản sắc dân tộc Việt Nam trong bối cảnh lịch sử đầy biến động.
Thời kỳ Lý là giai đoạn hưng thịnh nhất của Phật giáo tại Việt Nam, đánh dấu sự phát triển của tôn giáo trong lịch sử nước nhà Đây là triều đại đầu tiên thiết lập hệ thống tăng quan, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa tôn giáo và nhà nước Nhiều nhà sư nổi tiếng như Vạn Hạnh, Huệ Sinh, Viên Chiếu, Mãn Giác và Không đã có những đóng góp quan trọng cho đất nước trong thời kỳ này.
Lý Thái Tông được coi là người sáng lập phái Thiền Thảo Đường, đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của thiền học tại Việt Nam trong thời kỳ Lý, khi nhiều thiền sư từ Trung Quốc đến và tạo ra nhiều thiền phái mới Phật giáo được vua ủng hộ, lan tỏa khắp nơi với các hoạt động như học kinh, lễ hội và biểu diễn nghệ thuật, khiến chùa chiền xuất hiện ở mọi ngóc ngách của đất nước Đến triều đại Nhà Trần, Phật giáo đạt đến đỉnh cao với các vị vua như Trần Thái Tông và Trần Nhân Tông, những người có kiến thức sâu rộng về Phật học, đã đóng góp quan trọng vào sự phát triển của tôn giáo này Thời kỳ này còn chứng kiến sự ra đời của phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, một dòng thiền thuần túy Việt Nam, tạo nền tảng cho sự thống nhất Phật giáo trong cả nước Phái thiền này nổi bật với khả năng quy tụ tất cả các dòng thiền hiện có tại Việt Nam.
Thời Lý và Trần là giai đoạn Phật giáo phát triển rực rỡ tại Việt Nam, với sự ủng hộ mạnh mẽ từ các vua chúa thông qua việc xây dựng chùa chiền và tổ chức nhiều lễ hội Phật giáo Tuy nhiên, vào cuối thời Trần, Phật giáo bắt đầu suy giảm và không còn giữ được vị trí quan trọng như trước đây.
- Giai đoạn TK XV - đến năm 1981
Từ triều Lê Sơ đến triều Nguyễn, Nho giáo đã trở thành nền tảng tư tưởng chính trị và đạo đức của chế độ phong kiến Việt Nam, trong khi Phật giáo, từng phát triển mạnh mẽ, đã dần suy tàn và không còn giữ vai trò quan trọng trong triều đình như trước.
Phật giáo đã rời xa cung đình và trở về với thôn dã, nhưng dưới triều đại Nhà Nguyễn, tôn giáo này vẫn tiếp tục suy yếu Đến những năm 30 của thế kỷ XX, phong trào “chấn hưng” Phật giáo bắt đầu xuất hiện, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong nỗ lực phục hồi và phát triển tôn giáo này.
Phật giáo ", từđó Phật giáo dần có sự khởi sắc
Sau năm 1954, đất nước ta bị chia cắt làm hai miền, đã làm cho tình hình
MỘ T S Ố BI Ể U HI Ệ N CHO S Ự PHÁT TRIỂ N C Ủ A PH Ậ T GIÁO HUYỆN VĂN LÂM HIỆ N NAY (T Ừ SAU NĂM 1999)
Khái lƣợ c v ề l ị ch s ử địa lý, chi nh tr ị , kinh t ế, tôn giáo huyện Văn Lâm,
Huyện Văn Lâm, được thành lập từ năm 1999, là một huyện thuần nông nằm ở phía Bắc tỉnh Hưng Yên, cách trung tâm Hà Nội 19km Huyện giáp với huyện Thuận Thành (Bắc Ninh) ở phía Bắc, Văn Giang, Yên Mỹ, Mỹ Hào ở phía Nam, Cẩm Giàng (Hải Dương) ở phía Đông, và Gia Lâm (Hà Nội) ở phía Tây Theo số liệu năm 2018, huyện có diện tích 7.443,25 ha, với 42,17% là đất nông nghiệp, 24,73% là đất chuyên dùng và 33,1% là đất ở Dân số huyện đạt 119.229 người và thu nhập bình quân khoảng 58.000.000 VNĐ Huyện có 10 xã và 1 thị trấn, nơi có ba tôn giáo chính: Phật giáo, Công giáo và Tin lành, với các tín đồ tích cực tham gia vào các hoạt động cộng đồng.
Các xứ, họ đạo Công giáo tổ chức các hoạt động mục vụ và lễ hội như Noel, lễ Phục sinh để phục vụ giáo dân trong dịp xuân Các điểm nhóm Tin Lành hoạt động bình thường, không có biểu hiện phá hoại hay mê tín ảnh hưởng đến cộng đồng Việc xây dựng và tôn tạo cơ sở thờ tự của các tôn giáo đều tuân thủ pháp luật và chấp hành đúng thẩm quyền.
Giáo xứ Đình Tổ, với hơn 300 giáo dân, hoạt động ổn định dưới sự quản lý của Ban hành giáo gồm 1 Trưởng ban, 2 phó ban và 2 ủy viên Dòng nữ Đa Minh Đình Tổ có 12 nữ tu sĩ do bà Trần Thị Ngần đứng đầu Nhà thờ, được xây dựng từ năm 1937, có diện tích 300m2 trong khuôn viên 2.798m2, cùng với nhà Chung rộng 2.696m2 Họ giáo Hướng đạo có gần 100 giáo dân Giáo dân tuân thủ tốt các chính sách của Đảng và nhà nước, góp phần đảm bảo an ninh, trật tự xã hội, không xảy ra khiếu kiện hay tranh chấp.
Vào năm 2018, một nhóm tín đồ Tin Lành theo hệ phái "Liên hữu cơ đốc" đã xuất hiện tại huyện, hoạt động tại nhà riêng của ông Ngô Quang Tuynh, sinh năm 1964, ở đội 5, thôn Ngọc Quỳnh, với khoảng 12 tín đồ Nhóm này hoạt động bình thường và không gây ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội địa phương, trong khi các cơ quan chức năng vẫn theo dõi và nắm bắt hoạt động của họ một cách bình đẳng.
Văn Lâm hiện nay là một khu vực có tôn giáo lớn, với 58 ngôi chùa, trong đó 6 chùa được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, bao gồm chùa Nôm, chùa Hòa Lạc, chùa Hương Lãng, chùa Pháp Vân, chùa Vĩnh Thái và chùa Ông Toàn huyện có 36 Tăng, ni trụ trì tại các chùa, trong đó có 6 trụ trì chưa chính thức và 1 kiêm nhiệm Đặc biệt, 22 chùa hiện chưa có sư trụ trì, mà do ban trị sự địa phương điều hành hoạt động, theo báo cáo của phòng Văn hóa và thông tin năm 2018.
Hiện nay, tất cả các chùa trong huyện đã thành lập tổ tụng kinh và duy trì hoạt động tụng niệm vào mồng một, đầu rằm hàng tháng cùng các dịp lễ của Phật và Bồ Tát Công tác hoằng pháp đã giúp phật tử hiểu sâu về đạo, thực hiện bổn phận phụng sự Phật pháp và trách nhiệm công dân, từ đó góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc vững mạnh Ngoài việc chăm lo cho Đạo pháp, các tăng ni trong huyện cũng tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội, thể hiện trách nhiệm công dân của mình.
Huyện Văn Lâm nổi bật với nhiều ngôi chùa cổ được tu bổ, trong đó có chùa Nôm Theo các nhà sử học, chùa Nôm có thể từng là một trong bốn trấn của thành Luy Lâu xưa ở phía Nam, do vị trí của chùa nằm trong khu vực Thuận Thành Làng nơi chùa tọa lạc trước đây thuộc huyện Thuận An, xứ Kinh Bắc, không xa thành Luy Lâu về phía Nam, đặc biệt trong thời kỳ Hậu Lê, niên đại Chính Hòa năm Canh Thân.
(1680) sau khi lên ngôi, nhà vua đã cho xây dựng lại chùa này Tiếp theo vào các năm Nhâm Thân (1692), Giáp Tuất (1694), Đinh Sửu (1697), Mậu Dần (1698),
Trong thời kỳ Kỷ Mão (1699), chùa đã được tu sửa lại tiền đường, hậu cung và hành lang Đến năm Chính Hòa thứ 21 (1700), các cột trụ được sửa chữa, thêm tượng và sân chùa được mở rộng Năm Cảnh Thịnh thứ 4 (1796), chùa xây thêm gác chuông và mở rộng hai dãy hàng lang Thời kỳ nhà Nguyễn, dưới triều vua Thành Thái, chùa tiếp tục được cải tạo và nâng cấp.
Chùa Nôm, được trùng tu lần cuối vào năm 1899, hiện nay đã trở thành một ngôi chùa khang trang sau nhiều lần phục hồi Nơi đây nổi bật với hơn 100 pho tượng cổ bằng đất, bao gồm các hình ảnh như Tam thánh, A Di Đà và Bát bộ Kim Cương, có tuổi đời hàng trăm năm Những pho tượng này được thể hiện với nhiều tư thế và biểu cảm khác nhau, phản ánh nghệ thuật tạc tượng thời Lê Trung Hưng (thế kỷ XVII - XVIII) Đặc biệt, chùa còn sở hữu một tòa tượng cổ bằng đồng quý hiếm mang tên "Cửu Long Phật đản", mô tả cuộc đời của Phật Tổ Như Lai với chín con rồng uốn lượn xung quanh Ngoài ra, chùa Nôm còn lưu giữ nhiều hiện vật quý giá khác như tháp đồng, chuông đồng và đỉnh đồng.
C ổ n g chùa Linh Thông Cổ T ự (chùa Nôm)
Hay dấu vết của Phật giáo thời kỳ đầu có thể nói đến nữa là chùa Thái
Chùa Pháp Vân tự, tọa lạc tại xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm, thờ Phật và bà Pháp Vân (thần Mây) Được xây dựng từ thời Trần theo kiến trúc "Nội Công Ngoại Quốc", chùa bao gồm tiền đường năm gian và ba gian thượng điện Năm 2018, chùa được công nhận là di tích quốc gia và đã trải qua nhiều lần tu sửa, xây dựng lại trong các thế kỷ XVI, XVII, XVIII và XIX.
Phía ngoài chùa Thái Lạ c (xã Lạ c H ồ ng, huy ện Văn Lâm, tỉ nh H ưng Yên) stt CHÙA Xã - Thị Trấn Người Phụ Trách
1 An Khoái Như Quỳnh Ni Sư Thích Viễn Thông - Trụ trì
2 Ngô Xuyên Như Quỳnh Sư Cô Thích Tuệ Minh -Trụ trì
3 Hành Lạc Như Quỳnh Sư Cô Thích Diệu Nhân - Trụ trì
4 Ba La Như Quỳnh Ban Hội Tự
5 Trí Trung Tân Quang Đại Đức Thích Quảng Long - Trụ trì
6 Ông Tân Quang Đại Đức Thích Minh Hậu - Trụ trì
7 Nghĩa Trai Tân Quang Đại Đức Thích Thanh Tùng -Trụ trì
8 Tăng Bảo Tân Quang Sư Cô Thích Đàm Hương -Trụ trì
9 NgọcĐà Tân Quang Sư Cô Thích Đàm Đoan - Trụ trì
10 Ngọc Lịch Trưng Trắc Đại Đức Thích Minh Quyết - Trụ trì
11 An Lạc Trưng Trắc Ban Hội Tự
12 Tuấn Dị Trưng Trắc Ban Hội Tự
13 Mộc Ty Trưng Trắc Ban Hội Tự
14 Nhạc Lộc Trưng Trắc Ban Hội Tự
15 Pháp Điện Lạc Hồng Đại Đức Thích Thanh Nguyên - Trụ Trì
16 Pháp Vân Lạc Hồng Đại Đức Thích Quảng Hòa - Trụ trì
17 Thành Vàng Đình Dù Đại Đức Thích Thanh Huân -Trụ Trì
18 Ngải Dương Đình Dù Đại Đức Thích Nguyên Hòa - Trụ trì
19 Thị Trung Đình Dù Đại Đức Thích Quảng Hòa - Kiêm Nhiệm Trụ trì
20 Hoằng Lạc Đạo Đại Đức Thích Nguyên Quang - Trủ trì
21 Đoan Khê Lạc Đạo Đại Đức Thích Bản Ninh - Trụ trì
22 Pháp Vân Lạc Đạo Đại Đức Thích Đàm Thiện - Trụ trì
23 Đại bi Lạc Đạo Sư Cô Thích Đàm Huyên - Trủ trì
24 Tân Nhuế Lạc Đạo Ban Hội Tự
25 Hùng Trì Lạc Đạo Ban Hội Tự
26 Mụ Lạc Đạo Ban Hội Tự
27 Đông Mai Chỉ Đạo Sư Thầy Thích Đàm Hòa - Trụ trì
Sư Thầy Đàm Hương - Đàm Hồng Trụ Trì
29 Nghĩa Lộ Chỉ Đạo Ban Hội Tự
30 Trịnh Chỉ Đạo Đại Đức Thích Hồng Bảo -Trụ trì
31 Nôm Đại Đồng Đại Đức Thích Đồng Huệ - Trụ Trì
32 Đại Từ Đại Đồng Sư Thầy Thích Bảo Giang - Trụ Trì
33 Đông Xá Đại Đồng Đại Đức Thích Nguyên Hiền - Trụ trì chưa chính thức
34 Văn ổ Đại Đồng Sư Cô Chúc Tiến - Trụ Trì
35 Xuân Phao Đại Đồng Ban Hội Tự
36 Đại Bi Đại Đồng Ban Hội Tự
37 Rồng Đại Đồng Đại Đức Thích Thanh phú -Trụ trì (Đã Viên Tịch)
38 Cự Đình Việt Hưng Ni Sư Thích Đàm Sinh - Trụ Trì
39 Xe Việt Hưng Sư Cô Đàm Tự Trụ Trì chưa chính thức
40 Trầm Khúc Việt Hưng Sư Cô Bảo Giác Trụ Trì chưa chính thức
41 Đông Chung Việt Hưng Đại Đức Thích Quảng Học Trụ trì chưa Chính thức
42 Mễ Đậu Việt Hưng Sư Cô Viên Hóa Trủ trì
43 Thục Cầu Việt Hưng Ban Hội Tự
44 Tuấn Lương Lương Tài Ban Hội Tự
45 Mậu Lương Lương Tài Ban Hội Tự
46 Phú Nhuận Lương Tài Sư Cô Thích Nhuận Lý Trụ trì
47 Xuân Đào Lương Tài Ban Hội Tự
48 Bến Lương Tài Ban Hội Tự
49 Trại Lương Tài Ban Hội Tự
50 Lương tài Lương Tài Sư Cô Nhuận Lý- Trủ trì
Lương Lương Tài Ban Hội Tự
52 Nghi Cốc Lương Tài Ban Hội Tự
53 Thó Lương Tài Ban Hội Tự
54 Ông Sấm Minh Hải Đại Đức Thích Thanh Hội Trụ trì chưa chính thức
55 Thanh Khê Minh Hải Sư Thầy Thích Đàm Thơm - Trụ Trì
56 Thanh Đặng Minh Hải Sư Thầy Thích Tịnh Bảo Kiêm Nhiệm
57 Nhạc Miếu Lạc Hồng Ban Hội Tự
58 Hồng cầu Lạc Hồng Ban Hội Tự
Danh sách các chùa huyện Văn Lâm
Trên toàn huyện, ba tôn giáo đang tồn tại, trong đó Phật giáo là tôn giáo chiếm ưu thế với số lượng tín đồ đông đảo nhất Điều này không có gì ngạc nhiên, vì đây là vùng đã tiếp xúc với Phật giáo từ rất sớm.
M ộ t s ố điề u ki ện khách quan cho sự phát triể n Ph ật giáo ở huy ện Văn Lâm, tỉnh Hƣng Yên hiệ n nay
2.2.1 Quan điểm đườ ng l ối, chính sách đổ i m ớ i c ủa Đảng và nhà nướ c v ề tôn giáo: điề u ki ệ n thu ận duyên cho Phật giáo phát triể n
Hiện nay, các quốc gia và thể chế đang điều chỉnh và mở rộng ảnh hưởng trong bối cảnh tôn giáo và dân tộc có nhiều diễn biến phức tạp Để duy trì ổn định xã hội và chính trị, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã chú trọng đến việc xây dựng và ban hành Luật Tôn giáo, tín ngưỡng năm 2016, có hiệu lực từ ngày 1/1/2018 Đồng thời, việc tổ chức thực hiện pháp luật và chính sách đối với tôn giáo được tiến hành khẩn trương và hiệu quả.
Việt Nam là một quốc gia với sự đa dạng về dân tộc và tôn giáo, mang trong mình một nền tảng tín ngưỡng phong phú và lâu đời Sự phức tạp trong đời sống tôn giáo đã ảnh hưởng đến quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi mới ra đời cho đến hiện tại.
Việt Nam luôn tôn trọng tự do tín ngưỡng và tôn giáo, với chính sách bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và quyền không theo tôn giáo Đảng và nhà nước đã bảo hộ hoạt động tôn giáo, tạo môi trường ổn định để các tôn giáo phát triển, đồng thời phát huy các giá trị đạo đức và văn hóa trong quá trình đổi mới Mọi tôn giáo đều được bình đẳng, khuyến khích thực hiện "tốt đời đẹp đạo", gắn liền với lòng yêu nước và đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Từ năm 1986, Đảng và nhà nước đã nỗ lực thúc đẩy quyền lợi và tiềm năng của đồng bào có đạo.
Việt Nam đã có nhiều văn bản thể hiện chủtrương và chính sách đổi mới vềtôn giáo.
Sự đổi mới nhận thức về tôn giáo của Đảng ta được thể hiện qua Nghị quyết 24 - NQ/TW ngày 16/10/1990, nhấn mạnh rằng tôn giáo là vấn đề lâu dài, tín ngưỡng là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân và đạo đức tôn giáo phù hợp với xây dựng xã hội mới Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VII (1991) cũng ghi nhận tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng, thực hiện bình đẳng và đoàn kết giữa các tôn giáo Đảng và Nhà nước cam kết khắc phục thành kiến và phân biệt đối xử với những người có đạo, đồng thời ngăn chặn hành vi lợi dụng tôn giáo để phá hoại độc lập và đoàn kết dân tộc, cũng như chống phá chủ nghĩa xã hội.
Từ sau đổi mới đời sống tín ngưỡng, tôn giáo có sự biến đổi nhanh Ngày
Ngày 27 tháng 7 năm 1998, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị số 37-NQ/TW về công tác tôn giáo trong tình hình mới, khẳng định rằng các hoạt động tôn giáo mang lại lợi ích cho đất nước và nhân dân, phù hợp với nguyện vọng và lợi ích chính đáng của tín đồ sẽ được bảo đảm Giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp của tôn giáo cũng được tôn trọng và khuyến khích phát huy Tiếp theo, vào ngày 19 tháng 4 năm 1999, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định 26/1999/NĐ-CP, quy định về các hoạt động tôn giáo, đảm bảo quyền tự do sinh hoạt tín ngưỡng tại Việt Nam.
Vào ngày 12/3/2003, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW về công tác tôn giáo, nhấn mạnh năm quan điểm chính sách đối với tôn giáo Nghị quyết khẳng định rằng tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, sẽ tồn tại song song với quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Nội dung tôn giáo là trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị, và mọi hoạt động liên quan đến việc theo đạo, truyền đạo cũng như các hoạt động tôn giáo khác cần tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
29/06/2004 Chủ tịch nước Trần Đức Lương ký lệnh công bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo đã được Quốc Hội thông qua.
Vào ngày 08/11/2012, Chính phủ ban hành Nghị định 92/2012/NĐ-CP nhằm hướng dẫn thi hành Pháp lệnh Tín ngưỡng, Tôn giáo Nghị định này quy định về các hoạt động tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo, cũng như quyền và nghĩa vụ của tín đồ, nhà tu hành và chức sắc trong các tổ chức tôn giáo Đồng thời, nó cũng xác định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc quản lý các hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo.
Sau đó Quốc hội đã soạn thảo và thông qua Luật về tin ngưỡng tôn giáo
Vào ngày 30/12/2017, Nghị định số 162/2017/NĐ-CP đã được ban hành để hướng dẫn thực hiện Luật tín ngưỡng, tôn giáo, sau khi được Quốc hội thông qua Luật này chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 và đến nay đã đáp ứng tích cực các yêu cầu phát triển của xã hội.
Như vậy, có thể thấy điều kiện khách quan tạo môi trường thuận lợi cho
Phật giáo tại Việt Nam, đặc biệt là ở huyện Văn Lâm, đã phát triển mạnh mẽ nhờ vào đường lối đổi mới về tôn giáo của Đảng và Nhà nước, tạo ra môi trường cởi mở và công bằng cho các tôn giáo hoạt động Nhà nước bảo vệ quyền tự do hoạt động của Phật giáo trong khuôn khổ pháp luật, giúp củng cố và mở rộng cơ sở thờ tự, cũng như tăng cường hoạt động in ấn Kinh sách và hoằng dương Phật pháp Tín đồ và chức sắc Tăng ni Phật giáo ở Văn Lâm đều phấn khởi và tin tưởng vào Đảng và Nhà nước, từ đó đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc đổi mới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Chính sách đổi mới về tôn giáo đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của quần chúng, góp phần vào sự phát triển của Phật giáo trong bối cảnh đổi mới hiện nay.
Đảng và Nhà nước ta nhất quán tôn trọng và bình đẳng đối với các tôn giáo, không phân biệt hay kỳ thị Mỗi tôn giáo có những đặc điểm riêng, vì vậy Đảng và Nhà nước áp dụng cách ứng xử phù hợp với từng tổ chức tôn giáo Nội dung thần học là yếu tố quyết định sự khác biệt giữa các tôn giáo, dẫn đến sự hình thành các định chế giáo hội, hoạt động tín ngưỡng và cộng đồng tín đồ khác nhau.
Hành lang pháp lý và chính sách tôn giáo cần có sự linh động và sắc sảo để ứng xử với các tôn giáo khác nhau Tại Văn Lâm, trong số 16 tôn giáo và 42 tổ chức tôn giáo được công nhận ở Việt Nam, chỉ có 3 tôn giáo với 3 tổ chức tương ứng Phật giáo, với lịch sử lâu đời nhất tại Văn Lâm, đã bén rễ sâu vào văn hóa, lối sống và đạo đức của người dân nơi đây Mặc dù có số lượng tín đồ đông đảo, Phật giáo không gây chia rẽ hay xung đột, mà luôn đồng hành cùng người dân trong việc "hộ quốc an dân" Dựa trên những đặc điểm này, lãnh đạo Đảng và Chính quyền Văn Lâm đã xây dựng các chính sách ứng xử phù hợp.
Phật giáo, tạo điều kiện cho Phật giáo ở Văn Lâm phát triển thuận lợi đáp ứng nhu cầu nhân dân.
Lãnh đạo huyện Văn Lâm luôn chú trọng công tác Phật giáo, theo đường lối của Đảng và Nhà nước, nhằm giáo dục tăng ni, phật tử về lòng yêu nước, đoàn kết và tôn trọng pháp luật Kể từ năm 1999, với chỉ thị 37 NQ-TW của Bộ Chính trị, việc chăm sóc đời sống vật chất và tinh thần cho tăng ni đã được khẳng định Hàng năm, các cấp lãnh đạo huyện phối hợp với tỉnh hội Phật giáo tổ chức các lớp ngắn hạn để tuyên truyền, giáo dục tăng ni về chính sách, pháp luật, đồng thời ngăn chặn âm mưu của các thế lực phản cách mạng lợi dụng Phật giáo để chia rẽ và cản trở sự phát triển của đất nước.
Để đáp ứng nguyện vọng của quần chúng Phật tử và Tăng ni, lãnh đạo Đảng và Chính quyền Văn Lâm đã có chủ trương hỗ trợ Phật Giáo trong việc thống nhất thành một tổ chức chung Vào ngày 24/7/1999, sau khi huyện Văn Lâm được tách ra, các tổ chức và lãnh đạo các cấp đã chú trọng đến việc này.
Phật giáo của huyện nhà đi vào sinh hoạt ổn định trực thuộc Ban Trị sự Tỉnh hội
Phật giáo Hưng Yên đã có sự phát triển mạnh mẽ sau Đại hội VII của GHPGVN, với việc hoàn thiện tổ chức cấp cơ sở, đặc biệt là Ban Trị sự cấp huyện Sự chuyển biến này đã tạo điều kiện cho Ban Trị sự Phật giáo huyện Văn Lâm hoạt động hiệu quả hơn, đồng thời khẳng định vai trò của mình như một bộ phận quan trọng trong Mặt Trận Tổ quốc huyện.
Trận Tổ quốc tỉnh Hưng Yên của Ban Trị sự Phật giáo huyện Văn Lâm đánh dấu một bước tiến quan trọng Các thông điệp, thông báo và chỉ thị từ Giáo hội Phật giáo Trung Ương đã được truyền tải đến huyện Văn Lâm qua Ban Trị sự, từ đó lan tỏa đến các xã, thôn và các tự viện trong khu vực.
Tóm lại, qua phân tích trên đây, chúng ta thấy Đảng và Nhà nước Việt
Điề u ki ệ n n ộ i t ạ i cho s ự phát triể n Ph ật giáo ở huy ện Văn Lâm
2.3.1 Vai trò ch ủ th ể c ủa Giáo hộ i Ph ật giáo Việ t Nam n ỗ l ự c th ự c hi ệ n các chương trình hoạt động toàn diệ n ho ằng pháp theo phương châm "Đạo pháp
- dân tộ c - Ch ủ nghĩa xã hộ i ”
Phật giáo ở Văn Lâm không chỉ tồn tại vững bền mà còn phát triển mạnh mẽ nhờ vào nhiều nguyên nhân khách quan Một trong những yếu tố quan trọng không thể không nhắc đến là tổ chức huyện hội Phật giáo Văn Lâm, đóng vai trò then chốt trong việc tạo điều kiện phát triển cho "thực thể" Phật giáo tại đây Sự hoàn thiện về mặt tổ chức và thiết chế của Phật giáo là yếu tố nội tại quyết định cho sự phát triển bền vững của nó.
Ban Trị Sự huyện hội Phật giáo Văn Lâm đã nỗ lực không ngừng để duy trì sự phát triển bền vững của Phật giáo trong suốt hai mươi thế kỷ qua Sự tồn tại và phát triển này có thể được lý giải bởi những ưu việt của Phật giáo, như tính dân chủ và tự giác Hơn nữa, với bản chất khoan dung, Phật giáo đã tiếp nhận nhiều yếu tố gần gũi và phù hợp với truyền thống văn hóa dân chủ của các làng xã tại địa phương.
Việt Nam có thể hòa quyện và tồn tại lâu dài nhờ vào giáo lý vị tha, yêu thương người nghèo, nhân đạo và khoan dung của Phật giáo Sự tiếp nhận các yếu tố bên ngoài của Phật giáo là nhờ vào nỗ lực của các lãnh đạo và tín đồ Phật tử, tạo ra sự đồng lòng trong việc hoằng pháp, từ đó giúp Phật pháp phát triển mạnh mẽ như hiện nay.
Phật giáo đã du nhập vào Văn Lâm từ xa xưa một cách hòa bình, nhanh chóng được người dân đón nhận nhờ vào hệ thống giáo lý hoàn chỉnh và phong phú Trong hàng ngàn năm qua, Phật giáo đã mang đến cho người dân những quan niệm về vũ trụ, nhân sinh và đạo đức, có nhiều điểm tương đồng với khoa học hiện đại Mặc dù còn một số hạn chế lịch sử, nhưng những quan niệm này vẫn phù hợp với xã hội Văn Lâm hiện tại, thu hút đông đảo tín đồ Ngoài ra, nhiều tư tưởng đạo đức và văn hóa của Phật giáo cũng hòa hợp với tư duy truyền thống dân tộc và không xung đột với chủ nghĩa Mác - Lênin, nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam Do đó, Phật giáo vẫn giữ được vị thế quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân, với sinh hoạt thường xuyên tại các chùa làng Sự phát triển của Phật giáo tại Văn Lâm hiện nay không chỉ tạo dựng nền tảng đạo đức mà còn hòa quyện vào lối sống và văn hóa dân gian truyền thống.
Trong 20 năm qua, Ban đại diện Phật giáo huyện Văn Lâm đã nỗ lực tu sửa và mở rộng các cơ sở chùa chiền, đồng thời phổ biến Kinh sách bằng chữ quốc ngữ Các hoạt động thuyết pháp và tổ chức lớp học đạo tràng, kỳ tu tập cho tăng ni, cùng các khóa an cư kiết hạ đã được triển khai tích cực Ngoài ra, các giới đàn quy y tam bảo cũng được tổ chức cho tín đồ Phật tử trong huyện, giúp họ tiếp cận với giáo lý từ bi của Phật giáo Những hoạt động này không chỉ đáp ứng nhu cầu tâm linh của người dân mà còn góp phần giải quyết những vấn đề khó khăn mà họ phải đối mặt, thu hút đông đảo tín đồ tham gia.
Phật giáo nhấn mạnh tầm quan trọng của việc quý trọng sinh mạng con người và mọi loài vật, khuyến khích không sát sanh và tránh gây đau thương, chết chóc, hận thù Các tăng ni truyền giảng giáo lý này thông qua việc giảng Kinh Định hướng, nhằm nâng cao nhận thức và lòng từ bi trong cộng đồng.
Phật tử và người dân luôn trân trọng hòa bình, ghét chiến tranh và sẵn sàng kết bạn với mọi người xung quanh Điều này giúp ánh sáng hòa bình của đạo Phật trở nên gần gũi hơn với cộng đồng Đạo Phật dạy con người cần làm việc thiện và sống theo đạo lý, với văn hóa dân tộc thấm nhuần lòng từ bi và hỷ xả Những câu tục ngữ như “Một miếng khi đói bằng một gói khi no” và “Xởi lởi trời gửi của cho” thể hiện tinh thần sẻ chia Đạo Phật nhấn mạnh luật nhân quả: “Gieo nhân nào, gặt quả đấy”, khuyến khích mọi người sống công bằng Ban đại diện huyện hội Phật giáo Văn Lâm đã tích cực tham gia công tác từ thiện xã hội trong các dịp lễ lớn như Tết dương lịch, Tết âm lịch và ngày lễ Vu Lan, giúp người dân có cái nhìn "tự do".
Giải thoát khỏi những ràng buộc và định kiến, con người có thể tự do tư duy và phát triển Các lớp tu ngắn ngày không chỉ tập trung vào việc bảo vệ môi trường mà còn truyền đạt giáo lý về thuyết "nhân quả", giúp người tham gia hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa hành động và kết quả trong cuộc sống.
Duyên khởi nhấn mạnh rằng mọi sự vật đều có nguyên nhân, và mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình Điều này khuyến khích mọi người tạo ra nghiệp lành để nhận được quả lành, trong khi nghiệp ác sẽ dẫn đến quả dữ Vận mệnh của con người không phải do một thế lực siêu hình hay siêu nhiên quyết định, mà không phải là “thiên định”, từ đó mang lại sự nhẹ nhõm và an định cho tâm tư của người dân.
Các vị trụ trì chùa làng hiện nay đang tích cực giáo dục thanh thiếu niên và nhi đồng, nhằm hoàn thiện đạo đức con người theo hình mẫu Phật tử lý tưởng, không tham, sân, si Các chương trình giáo dục được cụ thể hóa qua hệ thống hoạt động rèn luyện đạo đức trong các khóa tu mùa hè xanh, với nhiều phẩm chất cao đẹp Các bậc tăng ni sống gương mẫu, gần gũi với dân, thực hiện chủ trương “Tứ đại vô lượng tâm” gồm từ, bi, hỷ, xả, đồng thời nêu cao tư tưởng cứu khổ, cứu nạn Họ giải thích về Thuyết nhân quả và luân hồi, mặc dù còn hạn chế, nhưng đã góp phần giáo dục ý thức sống có trách nhiệm với bản thân và gia đình Những nỗ lực của tổ chức Ban đã tạo ra những tác động tích cực đến cộng đồng.
Trị sự Phật giáo huyện Văn Lâm tuân theo định hướng của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không phải là sự tùy tiện Giá trị đạo đức và văn hóa Phật giáo đang ngày càng lan tỏa, tạo nên sức hút kỳ lạ, mang lại sự an tâm cho người dân Điều này góp phần cân bằng và ổn định các mối quan hệ xã hội trong toàn huyện Văn Lâm.
Phật giáo Văn Lâm đã phát triển mạnh mẽ và tự hoàn thiện trong tổ chức cơ sở, với sự đại diện của Giáo hội Phật giáo Việt Nam - tổ chức hợp pháp duy nhất đại diện cho Tăng ni và Phật tử Việt Nam cả trong và ngoài nước Sự vững mạnh của tổ chức này đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của Phật giáo tại Việt Nam.
Phật giáo Văn Lâm đang nỗ lực phát triển mạnh mẽ, góp phần tích cực vào sự phát triển của Phật giáo tại Việt Nam Tôn giáo này duy trì mối quan hệ tốt đẹp với Đảng và Chính quyền các cấp, luôn hỗ trợ các chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc xây dựng Chủ nghĩa xã hội.
Nam Phật giáo Văn Lâm cũng ứng xử hài hòa thân thiện với các tôn giáo Công giáo, Tin lành.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam theo phương châm “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, luôn đồng hành cùng dân tộc trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội Đường hướng này phù hợp với chính sách đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng hướng tới lý tưởng phấn đấu cho một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh Vai trò của Phật giáo tại Văn Lâm ngày càng gia tăng, khẳng định sự đóng góp tích cực vào mục tiêu dân giàu, nước mạnh.
2.3.2 Điề u ki ệ n n ộ i t ạ i Để có được như hôm nay thì chính bản thân tăng ni Phật tử Văn Lâm cũng đã không ngừng cố gắng, nỗ lực hoàn thiện mình Bộ máy lãnh đạo Giáo hội Phật giáo ngày càng được hoàn thiện, củng cố và mở rộng nhân sự đã cho phép tổ chức huyện hội Phật giáo Văn Lâm ra đời Năm nhiệm kỳ đầu giáo hội