Mục tiêu và yêu cầu của đề tài
Mục tiêu
Nghiên cứu nhằm xây dựng mô hình rừng cây bản địa tại trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, với mục tiêu tạo ra cảnh quan sinh thái và vườn thực vật đa dạng cây bản địa.
Yêu cầu
Đề xuất các biện pháp kỹ thuật nhằm nhân rộng việc trồng các loài cây bản địa, mở rộng địa bàn trồng của vườn thực vật đến nhiều khu vực khác.
Ý nghĩa của đề tài
Ý nghĩa trong học tập
Việc củng cố kiến thức đã học giúp bạn kiểm chứng lý thuyết trong thực tế, thể hiện rõ phương châm "học đi đôi với hành".
Tích lũy kiến thức và kinh nghiệm thực tế trong nghiên cứu và xây dựng mô hình rừng cây bản địa là rất quan trọng, vì chúng sẽ hỗ trợ cho quá trình học tập và làm việc trong tương lai.
Ý nghĩa thực tiễn sản xuất
Kết quả nghiên cứu góp phần lựa chọn được một vài loài cây như:
Cây Long não, Bách xanh, Sưa đỏ, Gù hương và Re hương là những lựa chọn lý tưởng để phát triển mô hình cảnh quan sinh thái và vườn thực vật cây bản địa tại Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên Những loại cây này không chỉ góp phần nâng cao giá trị cảnh quan mà còn thúc đẩy bảo tồn đa dạng sinh học trong khuôn viên trường.
TỔNG QUAN VỀ TÀI LIỆU
Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu
Đánh giá sinh trưởng cây rừng và các loài cây bản địa là rất quan trọng trong việc trồng cây tại địa điểm mới Điều này giúp xác định sự phù hợp của các loài cây với khu vực, từ đó hỗ trợ xây dựng vườn thực vật và mở rộng quy mô Nghiên cứu tỷ lệ sống và sinh trưởng của các loài cây bản địa tại vườn thực vật chuyển vị thuộc mô hình khoa Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên là cần thiết để đảm bảo hiệu quả trong công tác trồng trọt.
Vườn thực vật chuyển vị là nơi lưu giữ nhiều loài cây quý hiếm, nằm trong danh sách đỏ và các nghị định bảo vệ, đang ở tình trạng nguy hiểm Việc xây dựng vườn thực vật không chỉ nhằm bảo tồn nguồn gen mà còn tạo ra không gian nghiên cứu khoa học cho cộng đồng, rất cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Biện pháp chuyển vị là một phương pháp quan trọng trong bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học, nhằm chuyển dời và bảo tồn các loài sinh vật ra khỏi môi trường sống tự nhiên của chúng Bảo tồn ngoại vi không chỉ bao gồm việc bảo quản giống và loài, mà còn bao gồm nuôi cấy mô, thu thập cây trồng và động vật để duy trì nguồn gen quý hiếm Điều này không chỉ phục vụ cho nghiên cứu khoa học mà còn góp phần nâng cao nhận thức và giáo dục lòng yêu thiên nhiên cho cộng đồng.
Chúng tôi đang xây dựng một vườn thực vật trong mô hình khoa Lâm nghiệp, nhằm tạo ra một tế bào nhỏ và nuôi dưỡng nó phát triển theo thời gian Mục tiêu của dự án là bảo tồn và giữ gìn các loài cây bản địa, đồng thời góp phần vào sự phát triển bền vững của rừng Các vườn thực vật này sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ đa dạng sinh học và môi trường.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới và trong nước
Tình hình nghiên c ứ u trên th ế gi ớ i
Tại Trung tâm Công nghệ Rừng Kasma ở Nhật Bản, các nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa đã thiết lập nhiều mô hình rừng nhiều tầng tán Những mô hình này bao gồm nhiều loài cây ở các cấp tuổi khác nhau và được trồng với mật độ khác nhau, đặc biệt tại vùng Tsukuba với độ cao dưới.
Tại độ cao 876 m so với mực nước biển, loài cây Tuyết tùng (Japanese cedar) đã được trồng nhằm tạo ra các lâm phần bền vững có giá trị Các nhà nghiên cứu nhận thấy sự tương tác giữa các loài cây khi trồng rừng hỗn giao và ảnh hưởng của môi trường đến từng loài cây Khi nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài, các tác giả khẳng định rằng cách bố trí các loài cây trong mô hình rừng trồng hỗn loài có ảnh hưởng rõ rệt đến sự sinh trưởng của chúng, tùy thuộc vào đặc điểm từng loài và khoảng cách trồng giữa các cá thể.
Vào năm 1999, tại Malaysia, một dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã được triển khai, giới thiệu mô hình rừng hỗn loài bao gồm ba loại: rừng tự nhiên, rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) từ 10 đến 15 tuổi và rừng trồng Keo tai tượng 2 đến 3 tuổi.
Dự án đã trồng 23 loài cây bản địa quý giá trong rừng tự nhiên, với các băng rộng 30m, mỗi băng bao gồm 6 hàng cây bản địa Đồng thời, 14 loài cây bản địa cũng được trồng dưới tán rừng Keo tai tượng Thí nghiệm trong rừng Keo tai tượng được chia thành 2 khu vực khác nhau.
Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa;
Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa;
Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa;
Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa;
Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa;
Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa;…
Kết quả nghiên cứu cho thấy ba loài cây bản địa Shorea roxburrghii, S ovalis và S leprosula có khả năng sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất Tỷ lệ sống không có sự khác biệt giữa các công thức trồng, trong đó cây trồng ở băng 10m và 40m phát triển tốt hơn so với băng 20m Thí nghiệm cho thấy trồng theo hàng một cây có tỷ lệ sống và khả năng sinh trưởng chiều cao cao hơn so với trồng từ 2-4 hàng, trong khi khả năng sinh trưởng đường kính lại tốt nhất ở công thức trồng 6 hàng và 16 hàng Dự án cũng đã lập kế hoạch điều chỉnh các công thức trồng vào các thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41 và 47 năm sau khi trồng (theo Lê Minh Cường, 2007).
Tại Bayern - Đức, việc trồng Vân sam (Abies) kết hợp với Sồi (Terminalia Catappa) cho sản lượng cao hơn so với trồng thuần loài, trong khi Sồi lại phát triển tốt hơn trong các quần thụ thuần Hỗn giao giữa Bạch dương (Bulô) và Vân sam đã nâng cao sản lượng lên từ 135-160% (theo Nguyễn Đức Thế, 2007) Linh sam Douglas (Pseudotsuga menziesii) trong quần thụ hỗn giao với Tuyết tùng đỏ (Cryptomeria Japonica) đạt sản lượng 217m³/ha, cao hơn so với 203m³/ha của quần thụ thuần loài Linh sam Douglas và 175m³/ha của Tuyết tùng đỏ Điều này chứng minh rằng trồng hỗn loài mang lại năng suất vượt trội hơn so với trồng thuần loài.
Nghiên cứu của Jensen (1983) tại Đan Mạch cho thấy rằng cây Vân sam (Abies) trồng hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba) có sản lượng cao hơn so với trồng thuần loài Tương tự, Bulô khi trồng hỗn giao với Thông cũng cho năng suất tốt hơn so với Bulô thuần loài Hơn nữa, sự kết hợp giữa Betula pendula và Abies với tỷ lệ 25-50% đã làm tăng sản lượng của Abies ở mọi độ tuổi (theo Nguyễn Đức Thế, 2007).
Tại Costa Rica, có ba kiểu rừng trồng, mỗi kiểu là sự kết hợp của bốn loài cây bản địa chịu bóng, phát triển trong vùng đất thấp ẩm ướt và có độ tuổi từ 2 đến 6 năm Đường kính ngang ngực của các quần thụ hỗn giao lớn hơn so với các quần thụ thuần loài của những loài cây mọc nhanh (Nguyễn Đức Thế, 2007).
Một nghiên cứu tại Costa Rica của Haggar.J và J.Ewel (1995) cho thấy rằng hai loài cây Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora trồng theo phương thức hỗn loài phát triển tốt hơn so với trồng thuần loài Sự phối hợp giữa hai loài này rất phù hợp nhờ vào việc phân bố hệ thống rễ và tán lá ở các vị trí khác nhau, tạo ra sự hỗ trợ lẫn nhau thay vì cạnh tranh về không gian dinh dưỡng Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng Cordia alliodora sinh trưởng nhanh hơn trong rừng hỗn loài, với chiều cao đạt 7,9m sau 2 năm, so với 4,9m trong quần thụ thuần loài (Nguyễn Đức Thế, 2007).
Tại Nga, nghiên cứu của G.S A.A Montanoop về sự sinh trưởng của loài Dẻ cho thấy rằng loài này phát triển tốt nhất ở băng rộng 50m, so với các băng có chiều rộng khác như 20m, 100m và 200m.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu về trồng rừng dưới tán, trồng theo băng và rạch với độ tàn che nhẹ đã được thực hiện, sử dụng cây bản địa Các dự án thành công tại Nigeria, Congo và Cameroon đã tận dụng thảm che tự nhiên, hỗ trợ hiệu quả cho sự phát triển của cây bản địa trong giai đoạn đầu.
Nghiên cứu của Mathew (1995) về mô hình rừng trồng hỗn loài giữa cây thân gỗ và cây họ đậu cho thấy cây họ đậu hỗ trợ rất tốt cho cây trồng chính Việc xác định loài cây phù trợ và nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật điều chỉnh lâm phần trong quá trình sinh trưởng là rất quan trọng Ball, Wormald và Russo (1994) đã thực hiện các biện pháp giảm bớt sự cạnh tranh giữa các loài cây trong rừng trồng hỗn loài Kết quả cho thấy, sau khi áp dụng các biện pháp tỉa cành và tỉa thưa, các loài cây mục đích đã phát triển tốt hơn.
Nghiên cứu trồng rừng hỗn loài cần chú ý đến cấu trúc tầng thứ, đặc biệt là việc tạo ra rừng hỗn loài nhiều tầng Theo Bennar Dupuy (1995), cấu trúc tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh học và tính hợp quần của các loài cây Để xây dựng mô hình rừng trồng hỗn loài hiệu quả, cần xem xét khả năng sinh trưởng và mối quan hệ giữa các loài cây nhằm chọn lựa các loài cây phù hợp Điều này là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại của các mô hình rừng trồng hỗn loài.
Năm 1999, tại Malaysia, một dự án xây dựng rừng nhiều tầng đã được triển khai nhằm thiết lập mô hình trồng rừng hỗn loại Mô hình này bao gồm ba loại rừng: rừng tự nhiên, rừng Acacia mangium từ 10 đến 15 tuổi và rừng Acacia mangium từ 2 đến 3 tuổi Dự án này đã áp dụng nhiều phương pháp nhằm tối ưu hóa sự phát triển của các loại rừng khác nhau.
Trong nghiên cứu về trồng cây trong rừng, 23 loài cây bản địa có giá trị được trồng theo băng 30 m với 6 hàng cây Đối với rừng Acacia mangium, băng 10 m trồng 3 hàng, băng 20 m trồng 7 hàng, và băng 40 m trồng 15 hàng cây Sau khi chặt, trồng 3 loài sau 5 năm và 7 loài sau 7 năm Trong 14 loài cây khối A, 3 loài S roxburrghii, S ovanlis và S leprosula cho thấy sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất Tỉ lệ sống không khác biệt, nhưng sinh trưởng chiều cao cây trồng tốt ở băng 10 m và băng 40 m, trong khi băng 20 m không đáp ứng yêu cầu sinh trưởng chiều cao Khối B có tỷ lệ sống và sinh trưởng chiều cao tốt khi trồng 1 hàng, và sinh trưởng đường kính tốt với công thức trồng 6 hàng.
Tình hình nghiên cứu trong nước
* Nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài cây bản địa:
Việt Nam nổi bật với sự đa dạng loài phong phú, đặc biệt là hệ thực vật nhờ vào khí hậu nhiệt đới ẩm Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế và nhu cầu cuộc sống đã dẫn đến suy giảm đa dạng sinh học Để bảo vệ nguồn gen các loài cây bản địa, Nhà nước đã triển khai nhiều chương trình và dự án xây dựng vườn hỗn loài và khu bảo tồn, phục vụ cho mục đích nghiên cứu và giáo dục.
Trong giai đoạn 1930-1980, nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài rất hạn chế, chủ yếu tập trung vào một số loài cây thuộc họ Dầu Kể từ năm 1985, nghiên cứu về trồng rừng hỗn loài với các loài cây bản địa đã gia tăng đáng kể, cả về số lượng loài và diện tích rừng trồng Nhiều loài cây lá rộng bản địa có giá trị kinh tế cao đã được lựa chọn để nghiên cứu cho các vùng sinh thái trên toàn quốc.
Một số loài cây bản địa được lựa chọn cho vùng Tây nguyên và Nam bộ như: Gõ đỏ (Afzelia xylocarpa), Cẩm lai (Dalbergia oliveri), Căm xe
Cây Xylia xylocarpa và Tếch (Tectona grandis) được trồng chủ yếu tại các trạm thực nghiệm ở Trảng Bom, Đồng Nai, Lang Lanh và Măng Linh, Lâm Đồng, Ekmat, Đắc Lắc, và Tân Tạo, Thành phố Hồ Chí Minh Ở miền Bắc, những loài cây chủ yếu được lựa chọn cho việc trồng rừng hỗn loài bao gồm Lim xanh (Erythurophleum fordii), Lim xẹt (Peltophorum tonkinnensis), Giổi xanh (Mechelia mediocris), Re gừng (Cinamomum ilcidioides), Mỡ (Manglietia conifera), Bồ đề (Styrax tonkinensis), Lát hoa (Chukrasia tabularis), Ràng ràng mít (Ormosia balansae), Xoan đào (Prunus arborea), và Vạng trứng.
Trần Ngũ Phương (2000) đã nghiên cứu các mô hình trồng rừng hỗn loài nhằm tạo ra rừng nhiều tầng tán phục vụ cho mục đích phòng hộ và sản xuất Nghiên cứu dựa trên các quy luật của rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam cho thấy thảm thực vật rừng thường phân thành từ 2 đến 3 tầng cây gỗ, chưa kể tầng cây nhỡ và thảm tươi Tác giả đã đề xuất mô hình trồng rừng hỗn loài để bảo vệ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó nổi bật với hai mô hình: rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Vào năm 1962, các nhà lâm học thuộc Học viện Nông lâm đã thực hiện thí nghiệm trồng rừng hỗn loài, với cây Mỡ (Manglietia glauca) làm đối tượng chính Họ đã kết hợp cây Mỡ với các loài cây bạn theo từng cặp, cụ thể là Mỡ (Manglietia glauca) kết hợp với Lim Xanh (Erythrophloeum).
Xà cừ (Khay senegalensis), Mỡ (Manglietia glauca) và Tếch (Tectona grandis) được trồng theo hàng cách hàng 2m và cây cách cây 2m Tuy nhiên, kết quả cho thấy Xà cừ và Tếch không phù hợp với phương pháp trồng này, dẫn đến tốc độ sinh trưởng chậm và bị cạnh tranh bởi các loài cây khác.
Mỡ thuần loài là một loại cây quan trọng trong hệ sinh thái, trong đó Lim xanh có sự phát triển đặc biệt Trong hai năm đầu, Lim xanh có tốc độ sinh trưởng chậm, nhưng sau đó, từ năm thứ 3 trở đi, cây này phát triển chiều cao nhanh chóng và đạt đến độ cao tương đương với Mỡ khi được 10-12 tuổi Trần Nguyên Giảng đã chỉ ra rằng Lim xanh có khả năng trồng hỗn loài với Mỡ, tuy nhiên, tỷ lệ trồng vẫn chưa được xác định chính xác Về khả năng cải tạo đất, Lim xanh được xem là cây cải tạo đất hiệu quả, trong khi Xà cừ và Tếch chưa thể hiện rõ tác dụng này.
Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) và Nguyễn Ngọc Lung cùng Võ Đại Hải (1996) đã thiết lập 20 khu nghiên cứu tại Tây Nguyên, tập trung vào các dạng thảm thực vật khác nhau Những công trình này cung cấp cái nhìn toàn diện về xói mòn đất rừng ở Việt Nam, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của rừng trong việc phòng chống xói mòn và điều tiết nước Kết quả nghiên cứu cho thấy, khi giảm độ tàn che từ 0,7-0,8 xuống 0,3-0,4, dòng chảy mặt tăng 30,4% ở rừng tự nhiên và 33,8% ở rừng Le Ngoài ra, khi độ dốc tăng lên, lượng dòng chảy cũng tăng theo, với mức tăng 58,1% khi độ dốc gấp đôi.
Từ năm 1980, nghiên cứu phục hồi rừng bằng cây bản địa lá rộng đã thu hút sự chú ý của nhiều tác giả Nổi bật trong số đó là công trình của Nguyễn Bá Chất (1994) về phục hồi rừng vùng Sông Hiếu, trong đó ông đã xây dựng cấu trúc hỗn loài Lát hoa (Chukrasia tabularis) kết hợp với các loài cây bản địa khác như Lim xẹt (Peltophorum tonkinense), Giổi xanh (Michelia mediocris), Thôi chanh (Alangium barbatum) và Lõi thọ (Gmelina arborea).
Ràng ràng (Orosia Pinnata) đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành cấu trúc rừng hợp lý Kết quả theo dõi sau 10 năm cho thấy rừng Lát hoa trồng theo mô hình hỗn loài phát triển tốt hơn so với rừng Lát hoa trồng thuần loài.
Nguyễn Bá Chất (1996) đã chỉ ra rằng việc lựa chọn loài phối hợp với Lát hoa vẫn còn thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn Nghiên cứu của ông tập trung vào thí nghiệm trồng hỗn giao Lát hoa với các loài như Trai (Garcinia fagraeo) và Nghiến (Burretiodendron).
13 tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia)… ở tuổi 5 chưa thấy có ảnh hưởng đến sinh trưởng của Lát hoa [4]
Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) đã đánh giá các mô hình trồng rừng hỗn loài giữa cây bản địa và Keo tai tượng ở các tỉnh phía Bắc, nhận thấy rằng cây phù trợ (Keo tai tượng) thường lấn át cây trồng chính Tuy nhiên, trong nghiên cứu, việc điều chỉnh kịp thời cây phù trợ đã giúp cây trồng chính sinh trưởng tốt, với tỷ lệ sống cao từ 80 – 93% và tổng tỷ lệ sống đạt trên 90% Tác giả đề xuất hai mô hình triển vọng nhất: mô hình trồng hỗn loài với thảm che Keo tai tượng 7 tuổi tại Ngọc Lặc - Thanh Hóa và mô hình trồng hỗn loài với cây phù trợ Keo tai tượng trồng trước 1 năm tại Cầu Hai - Phú Thọ.
Nguyễn Thế Hưng (2008) đã chỉ ra rằng khả năng giữ nước của các thảm thực vật giảm dần từ thảm cây bụi cao đến rừng trồng Keo, rừng trồng Bạch đàn và thấp nhất là thảm cây bụi thấp Cụ thể, tổng lượng nước hàng năm mà các thảm thực vật này giữ được lần lượt là 988,97 tấn/ha, 639,07 tấn/ha, 724,58 tấn/ha và 660,62 tấn/ha.
Nghiên cứu của Nguyễn Đức Thế (2007) tại Đoan Hùng – Phú Thọ cho thấy rằng cây Giổi xanh (Michelia mediocris) trồng xen kẽ với Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) có khả năng sinh trưởng cao gấp 1,5 lần so với việc trồng thuần loài.
Ngoài việc nghiên cứu tạo lập các lâm phần rừng trồng hỗn loài bằng cây lá rộng, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác tập trung vào việc hình thành rừng hỗn loài giữa cây lá kim và cây lá rộng, cũng như giữa các loài cây ngoại nhập Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là của Phùng Ngọc Lan.
Tổng quan khu vực nghiên cứu
Đất đai
Đất đai tại xã Quyết Thắng có nguồn gốc từ hai yếu tố chính: một phần được hình thành tại chỗ thông qua quá trình phong hóa đá mẹ, và phần còn lại là đất phù sa được bồi tụ từ các dòng sông.
Nhóm đất phù sa chiếm tỷ lệ nhỏ và thường xuất hiện ở địa hình bằng phẳng, được hình thành từ sản phẩm phù sa do dòng chảy của các suối và ảnh hưởng của thời tiết qua thời gian Đất phù sa có đặc điểm là ít được bồi tụ hàng năm, có tính chất trung tính và ít chua, với thành phần cơ giới chủ yếu là thịt trung bình và cát pha thịt nhẹ.
Nhóm đất xám bạc màu phát triển trên nền đất phù sa cổ với sản phẩm Feralitic, có đặc điểm là đất bạc màu với thành phần cơ giới nhẹ, dễ bị xói mòn và rửa trôi.
Nhóm đất Feralit chủ yếu phân bố ở địa hình đồi núi, phát triển trên phù sa cổ, dăm cuội kết và cát kết, với diện tích khá lớn Đất khu vực vườn ươm là loại đất tụ pha cát lẫn đá nhỏ, có màu xám đen và hàm lượng dinh dưỡng thấp do đã được sử dụng nhiều năm Nguồn gốc của đất Feralit xuất phát từ đá sa thạch, có độ pH thấp và nghèo mùn, dẫn đến độ màu mỡ thấp, khiến cây con sinh trưởng và phát triển ở mức trung bình, thậm chí có cây phát triển kém.
Đặc điểm khí hậu, thời tiết
Mô hình khoa Lâm nghiệp của trường Đại học Nông lâm tọa lạc tại xã Quyết Thắng, thành phố Thái Nguyên, nơi có khí hậu nhiệt đới gió mùa với bốn mùa rõ rệt: Xuân, Hạ, Thu và Đông Khu vực này trải qua hai mùa chính là mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.
Khái quát chung v ề đặc điể m sinh thái c ủ a các loài cây nghiên c ứ u
Long Não (Cinnamomum camphora)
Tên khoa học: Cinnamomum camphora
Cây Long não hay còn gọi là cây Dã hương, cây gỗ lớn có thể cao tới 40m, đường kính đạt 200cm.
Long não, có nguồn gốc từ Đông Á như Đài Loan, miền nam Nhật Bản, đông nam Trung Quốc và Đông Dương, được trồng chủ yếu để sản xuất dầu Ở Việt Nam, cây này phát triển chậm, ra hoa vào tháng 3-4 và cho quả vào tháng 10-11 Long não ưa sáng, thích khí hậu ấm và ẩm với nhiệt độ trung bình hàng năm từ 15-20°C và lượng mưa trên 1.000mm Cây phát triển tốt trên đất sét pha dày, không chịu được đất mặn, đất trũng hoặc quá khô.
2.3.1.2 Đặc điểm sinh học và sinh thái
Cây Long não có thể cung cấp tinh dầu từ tất cả các bộ phận, được ứng dụng trong công nghiệp và y dược Ngoài ra, cây còn có thể được trồng ven đường để tạo bóng mát và hình thành rừng phòng hộ.
2.3.1.3 Phân bốđịa lý Ở điều kiện thích hợp long não có thể tái sinh hạt và chồi tốt Cây Long não mọc tự nhiên và đã được gây trồng trên diện tích nhỏ ở các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam Một số nơi trồng ven đường để lấy bóng mát như Hà Tây (cũ), Hà Nội, Hà Bắc (cũ), Thừa Thiên- Huế, Gia Lai… Gỗ cây Long não màu nâu hồng Giác mỏng màu xám trắng, là loài gỗ chịu nước, không bị mối mọt có mùi thơm, dùng để đóng đồ, làm đồ mỹ nghệ…
Cây Long não có tác dụng thanh lọc không khí.
Long não là một loại cây hiếm có khả năng thanh lọc không khí, nhờ vào lá cây có khả năng hấp thụ các ion kim loại nặng như chì, giúp làm sạch môi trường.
Chúng giúp tạo ramôi trường ôzônrất mạnh Do đó, khi đứng ở dưới những cây này, người ta sẽ cảm thấy dễ thở, cơ thể thoải mái và thư thái.
Gỗ Long não nổi tiếng với khả năng chống mối mọt và không bị côn trùng phá hại nhờ vào mùi thơm tự nhiên Ngoài ra, gỗ Long não còn có khả năng khử mùi ẩm mốc và xua đuổi ruồi muỗi, làm cho nó trở thành nguyên liệu lý tưởng để sản xuất các vật dụng nhỏ trong gia đình như tráp, hộp, chuỗi vòng hạt và quạt.
Long não là một loại thảo dược có tác dụng chữa bệnh, được chiết xuất từ gỗ, rễ và cành non của cây Long não thông qua quá trình chưng cất bằng hơi nước Phương pháp này cho phép thu được tinh dầu, trong đó có thể đạt tới 90% Long não trong quá trình ngưng tụ và làm lạnh Tinh dầu Long não được chia thành nhiều loại khác nhau như tinh dầu Long não đỏ chứa safrol, tinh dầu Long não y tế và tinh dầu Long não trắng, phục vụ cho các lĩnh vực kỹ thuật, y tế và ướp thơm.
Lá Long không dùng để nấu nước xông chữa cảm, nhưng tinh dầu của nó có tác dụng trị bỏng, xua muỗi và chế dầu cao xoa bóp Camphor, khi sử dụng ngoài da, có tác dụng sát trùng và tiêu viêm, đồng thời cũng được dùng dưới dạng thuốc tiêm (dung dịch camphor 10-20% trong dầu) để điều trị các vấn đề liên quan đến tim.
Tinh bột Long não được kết hợp với nhiều loại thuốc khác trong y học để điều trị các bệnh như hắc lào, bong gân, chấn thương, sai khớp, hôi nách, viêm họng, ho đờm khò khè và tiêu chảy thể hàn Tuy nhiên, việc sử dụng thuốc cần tuân thủ liều lượng nhất định, vì vậy bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ và không tự ý dùng thuốc.
Bách Xanh (Calocedrus Macrolepis)
Cây bách xanh là loại cây thân gỗ lớn, thường xanh, có chiều cao từ 20-25m hoặc hơn, với đường kính thân khoảng 0,6-0,8m Thân cây thẳng đứng, vỏ màu nâu đen và có hiện tượng nứt dọc khi cây cao trên 10m Cây phân cành sớm với các cành to mọc gần nhau theo hướng ngang, trong khi các cành con mang nhánh nhỏ nằm trong cùng một mặt phẳng Tán cây có hình tháp rộng, tạo nên vẻ đẹp đặc trưng cho loài cây này.
Lá cây bách xanh có hình dạng vảy, xếp sát nhau trên cành thành từng đốt với hai lá lưng bụng lớn hơn và hai lá trên nhỏ hơn Lá lớn dài khoảng 5mm và lá nhỏ dài khoảng 2mm, tương tự như lá pơ mu (Fokienia hodginsii) với màu sắc mặt trên xanh thẫm và mặt dưới bạc hơn Cây có hoa đơn tính cùng gốc; hoa cái hình bầu dục, dài từ 12 đến 18mm và rộng 6mm, có cấu trúc gỗ và nứt thành hai mảnh, với mảnh giữa chứa hai hạt lớn, mỗi hạt có hai cánh không bằng nhau.
Hình thái của bách xanh giống với Pơ mu, nhưng Pơ mu có chiều cao lớn hơn và nón cái hình cầu chứa nhiều hạt, với vảy hình khiên có mũi nhọn ở giữa.
Cây bách xanh thường cho hạt từ tháng 10 đến tháng 12 tại Đà Lạt Để tái sinh, cây cần hạt chất lượng tốt và đặc biệt phát triển tốt ở những khu vực có nhiều ánh sáng Mặc dù cây con mọc lên rất nhiều như mạ, nhưng chỉ một số ít trong số đó có khả năng phát triển thành cây trưởng thành.
Việt Nam có nhiều địa điểm du lịch nổi bật ở độ cao từ 1100 đến 1200m như Lào Cai (Sapa), Hòa Bình, Hà Tây (Ba Vì), Đắc Lắc, Lâm Đồng, Khánh Hòa (Nha Trang: núi Tou Ha) và Ninh Thuận Trên thế giới, những vùng cao nổi bật bao gồm Vân Nam (Trung Quốc), Đài Loan, Ấn Độ và Thái Lan.
Gỗ cây bách xanh có thớ thẳng, mịn và ít nứt nẻ khi khô, không bị biến dạng, mối mọt hay mục dỗ, rất dễ gia công Loại gỗ này thường được sử dụng trong xây dựng nhà cửa, đóng đồ gỗ cao cấp, tiểu đồ mỹ nghệ và làm đồ dùng văn phòng Với mùi hương dịu nhẹ, gỗ bách xanh còn được ưa chuộng để làm bát hương Ngoài ra, cây bách xanh có hình dáng đẹp, thích hợp để trồng làm cảnh.
Sưa Đỏ (Dalbergia Tonkinensis Prain)
Cây gỗ nhỡ này có chiều cao từ 6-12m, thậm chí có thể lên tới 15m, và thuộc loại rụng lá theo mùa với tốc độ sinh trưởng trung bình Thân cây có hình dạng hợp trục và phân tán, vỏ thân mang màu vàng nâu hoặc xám, thường nứt dọc Cành non có màu xanh và được phủ lông mịn thưa Lá cây mọc cách, có cấu tạo dạng kép lông chim lẻ với mỗi lá kép chứa từ 9-17 lá chét xếp so-le trên cuống chính Lá chét có hình xoan thuôn, đầu nhọn hoặc có mũi nhọn, đuôi tròn, và mặt dưới thường có màu tái trắng, kích thước lá chét dài từ
Lá ché có kích thước từ 6–9 cm và rộng từ 3–5 cm, với lá đính ở đầu cuống kép thường lớn hơn các lá khác Cuống chính và cuống lá chét đều không có lông, phiên lá chét cũng không lông, kèm theo đó là lá kèm nhỏ không lông và thường rụng sớm.
2.3.3.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Cây này ưa sáng và thích hợp với đất sâu, dày, có độ ẩm cao, thường phân bố ở độ cao dưới 500m Trong tự nhiên, nó thường được tìm thấy trong rừng mưa nhiệt đới và rừng mưa nhiệt đới gió mùa.
Gỗ Sưa nổi bật với thớ mịn và vân gỗ đẹp, được ưa chuộng trong thời phong kiến khi vua chúa sử dụng gỗ trắc thối để chế tác nội thất cao cấp trong cung đình Loại gỗ này không chỉ có giá trị thẩm mỹ mà còn được xem như hương liệu và dược liệu quý.
Phân bố chủ yếu là ở Việt Nam và được tìm thấy rải rác tại Hải Nam,
Giá 1kg lõi gỗ sưa đỏ loại đẹp hiện nay dao động từ 5 – 7 triệu đồng, tùy thuộc vào thu mua của thương lái Trung Quốc Gỗ sưa đỏ được biết đến là một loại gỗ cực kỳ quý hiếm.
Gù Hương (Cinnamomum balansae, Lecomte)
Cây gỗ lớn, thường xanh, có thể cao tới 50 m và đường kính thân từ 0,7 - 1,2 m, với cành nhẵn màu hơi đen khi khô Lá cây mọc cách, có hình trứng, dài 9 - 11 cm và rộng 4 - 5 cm, với đầu lá thót nhọn và gân bậc hai 4 - 5 đôi Cuống lá dài 2 - 3 cm, nhẵn Hoa mọc thành cụm ở nách lá, dài 4 - 5 cm, được phủ lông ngắn màu nâu; cuống hoa dài 1 - 4 mm, cũng phủ lông Bao hoa có 6 thuỳ và nhị hữu thụ 9, với bao phấn 4 ô, trong đó có 3 nhị vòng trong cùng, mỗi nhị có 2 tuyến Nhị lép 3, hình tam giác, có chân Bầu hoa hình trứng, nhẵn, vòi ngắn và núm hình đĩa Quả cây có hình cầu, đường kính 8 cm.
- 10 mm, đính trên đế hoa hình chén Tái sinh bằng hạt hoặc giâm cành
2.3.4.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Mùa hoa vào tháng 1-5, mùa quả chín tháng 6-9, tái sinh bằng hạt hoặc giâm cành
Phân bốở việt nam, tây nguyên ,Đồng nai
Cây đặc hữu ở Việt Nam này chứa tinh dầu, chủ yếu là long não, trong thân và lá, khiến nó trở thành lựa chọn phổ biến cho việc sản xuất đồ nội thất như bàn, ghế và tủ.
2.3.5 Re Hương (Cinnamomum parthe noxylon)
Cây gỗ to, thường xanh, có chiều cao lên đến 30 m và đường kính thân từ 70 - 90 cm Cành cây nhẵn và có màu hơi đen khi khô Lá cây mọc cách, có hình trứng, dài từ 9 - 11 cm và rộng từ 4 - 5 cm, với đặc điểm thót nhọn ở hai đầu Gân lá có từ 4 - 7 đôi, gân giữa phẳng ở mặt trên và lồi ở mặt dưới, cuống lá dài từ 2 - 3 cm và nhẵn Cụm hoa chuỳ xuất hiện ở nách lá, có chiều dài khoảng 6 cm.
Cây có chiều cao khoảng 12 cm, với phần phủ lông màu nâu Cuống hoa dài từ 1 đến 3 mm và cũng được phủ lông Bao hoa có 6 thuỳ, dài từ 1,5 đến 2 mm và có hình dạng thuôn Nhị hữu thụ gồm 9 nhị, được chia thành 3 vòng: 2 vòng nhị ngoài không có tuyến và chỉ có lông, trong khi nhị vòng thứ 3 có 2 tuyến không chân Nhị lép có hình tam giác và có chân Bầu hoa có hình trứng, nhẵn, với vòi ngắn và núm hình đĩa Quả có hình cầu, đường kính từ 8 đến 10 mm, được gắn trên ống bao hoa hình chén.
2.3.5.2 Đặc tính sinh học và sinh thái
Mùa hoa tháng 1 - 5, quả tháng 6 - 9 Mọc trong rừng rậm nhiệt đới thường xanh, ẩm trên núi đất hay núi đá vôi, ở độ cao 100 - 600 m
Trong nước: Cao Bằng, Tuyên Quang, Quảng Ninh, Bắc Giang, Quảng Trị, Đà Nẵng.
Thế giới: Ấn Độ, Trung Quốc.
Gỗ hiếm có nguồn gen quý, không bị mối mọt, thích hợp cho xây dựng, làm tà vẹt và đóng tàu Ngoài ra, lá, vỏ và rễ của cây có thể chiết xuất tinh dầu, phục vụ cho việc sản xuất nội thất và mỹ nghệ cao cấp.
PHẦN 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượ ng nghiên c ứ u và ph ạ m vi nghiên c ứ u
Đối tượng nghiên cứu
Là 5 loài cây trồng trong vườn tại mô hình khoa Lâm nghiệp, Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên
- Gù hương (Cinnamomum balansae Lecomte )
Phạm vi nghiên cứu
Tỷ lệ sống, sinh trưởng đường kính gốc, chiều cao, khả năng ra lá của cây.
Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm: Vườn thực vật tại mô hình Khoa Lâm Nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
- Thời gian tiến hành: Từ tháng 07/ 2018 đến tháng 05/2019
Nội dung nghiên cứu
- Đánh giá sinh trưởng của 5 loài cây bản địa
Sinh trưởng đường kính gốc
- Đánh giá tình hình sâu bệnh hại
- Hoàn thiện biện pháp trồng, chăm sóc và bảo vệ cây bản địa.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu sinh trưởng
Đo đếm và gán nhãn cây theo từng loài cho toàn bộ số cây của 5 loài nghiên cứu tại khu vực mô hình.
Thời gian đo đếm 30 ngày đo đếm sinh trưởng/1 lần.
Trong quá trình điều tra số liệu, việc gắn mã số thẻ cho từng cây và biển cây cho mỗi hàng trong mô hình đã được thực hiện nhằm cải thiện việc thu thập dữ liệu Đường kính gốc (D00) của cây được đo bằng thước kẹp cơ khí theo hai chiều Đông – Tây và Nam – Bắc, sau đó tính trị số bình quân để đảm bảo độ chính xác.
Chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây được xác định bằng cách sử dụng thước dây Đầu tiên, bạn cần dùng bút xóa trắng để đánh dấu một đường mốc ở gốc cây, sau đó tiến hành đo từ điểm mốc này lên đến đỉnh ngọn sinh trưởng của cây bằng thước đo.
Quá trình thu thập số liệu được thực hiện qua 11 đợt, bắt đầu từ ngày 10/07/2018 và kết thúc vào ngày 10/05/2019 Các đợt thu thập diễn ra hàng tháng, cụ thể là: Đợt 1 vào ngày 10/07/2018, Đợt 2 vào ngày 10/08/2018, Đợt 3 vào ngày 10/09/2018, Đợt 4 vào ngày 10/10/2018, Đợt 5 vào ngày 10/11/2018, Đợt 6 vào ngày 10/12/2018, Đợt 7 vào ngày 10/01/2019, Đợt 8 vào ngày 10/02/2019, Đợt 9 vào ngày 10/03/2019, Đợt 10 vào ngày 10/04/2019 và Đợt 11 vào ngày 10/05/2019.
- Thời gian đo đếm 30 ngày đo đếm sinh trưởng/1 lần
Bảng 3.1: Đo D 00 Đơn vị (cm) STT Lần đo 1 Lần đo 2 Lần đo 3 Lần đo 4 …
Bảng 3.2: Đo Hvn Đơn vị (cm) STT Lần đo 1 Lần đo 2 Lần đo 3 Lần đo 4 …
Xử lý số liệu
Phương pháp xử lý số liệu:
Sau khi tiến hành điều tra, chúng tôi thu thập được bảng số liệu thô Tiếp theo, chúng tôi xử lý dữ liệu bằng cách sử dụng phần mềm thống kê trong lâm nghiệp trên máy tính, cụ thể là Excel, để loại bỏ những chỉ số đặc thù có thể bị sai sót trong quá trình quan sát số liệu.
𝑵 x 100 Trong đó: C%: Tỷ lệ sống
N: Tổng số cây trồng trong mô hình
- Đường kính TB của cây ở mỗi lần đo:
Trong đó: D00TB: Đường kính trung bình của cây
∑d: Tổng số đo đường kính các cây M: Tổng số cây
- Chiều cao trung bình của cây ở mỗi lần đo:
Trong đó: Hvn TB: Chiều cao trung bình của cây
∑h: Tổng số đo chiều cao các cây
- Xác định số trung bình mẫu: 𝒙̅ = 𝟏 𝒏 ∑ 𝒙𝒊 𝒏 𝟏
Trong đó: xi: Trị số điều tra như đường kính (D00) và chiều cao (Hvn)
𝑥 ̅ x 100 Trong đó: S: Sai tiêu chuẩn
- Tỷ lệ cây bị sâu bệnh hại: P%= n.100/N
Trong đó: n là số cây bị sâu bệnh
N là tổng số cây điều tra
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đánh giá tình hình sinh trưởng của 5 loài cây bản địa trồng
K ế t qu ả t ỷ l ệ s ố ng c ủ a 5 loài
Kết quảđiều tra cho thấy, tỷ lệ sống của 5 loài đến đợt đo cuối đạt được như trong bảng 4.1
Kết quảđánh giá tỷ lệ sống của các loài cây bản địa được điều tra và tổng hợp tại bảng 4.1
Bảng 4.1: Tỷ lệ sống của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa
Số cây lần đo đầu (7/2018)
Số cây lần đo cuối (5/2019)
(Nguồn số liệu điều tra năm 2018-2019)
Kết quả từ bảng 4.1 cho thấy tỷ lệ sống của 5 loài cây bản địa đạt tới 100% Tuy nhiên, một số cây đã chết trong quá trình phát triển do ảnh hưởng của thời tiết.
Cây được trồng vào tháng 10/2017, và sau 19 tháng, các loài cây bản địa cho thấy sự phát triển khả quan nhờ điều kiện thời tiết thuận lợi với mưa nhiều và độ ẩm cao Cụ thể, tỷ lệ sống của các loài cây như sau: Long não, Bách xanh và Sưa đỏ đạt 100%, trong khi Gù hương giảm còn 90% do đất thiếu dinh dưỡng và cỏ dại xâm lấn, dẫn đến một số cây chết vào tháng 7,8/2018 Re hương giảm xuống 70% do thời tiết nắng nóng làm cháy mép lá và sự xâm lấn của dây leo, ảnh hưởng đến sự phát triển của cây Sự giảm sút số lượng cây so với thời điểm đầu đo cho thấy tác động của các yếu tố ngoại cảnh và đặc điểm sinh học của mỗi loài cây trong quá trình sinh trưởng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy năm loài cây bản địa có tỷ lệ sống cao trong điều kiện vườn cây bản địa Một trong những yếu tố quan trọng trong nghiên cứu sinh trưởng cây trồng là quy luật sinh trưởng theo thời gian Đề tài tập trung vào hai chỉ tiêu sinh trưởng chính, bao gồm đường kính (Doo) và chiều cao (Hvn).
Kết quả sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa
Hình 4.1: Sơ đồ th ể hi ệ n đườ ng kính D(oo) c ủ a 5 loài cây b ản đị a
Long Não Bách Xanh, Gù hương và Re hương là những loại cây quý hiếm, nổi bật với nhiều công dụng trong y học và đời sống Những loại cây này đã được đo đạc và nghiên cứu qua nhiều lần, từ lần đo 1 đến lần đo 11, nhằm xác định các đặc điểm sinh trưởng và giá trị kinh tế của chúng Việc hiểu rõ về Long Não Bách Xanh và các loại cây khác sẽ giúp nâng cao nhận thức về bảo tồn và phát triển bền vững tài nguyên thiên nhiên.
Sinh trưởng đường kính: Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng đường kính sát gốc (D00) được trình bày tại bảng 4.2
Bảng 4.2: Sinh trưởng đường kính của 5 loài cây bản địa trong mô hình vườn cây bản địa
Tên loài Long não Bách xanh S ưa đỏ Gù hương Re hương
Cm S% D(oo) cm S% D(oo) cm S% D(oo) cm S% Đo lầ n 1
Tăng trưở ng bình quân 0,054 0,047 0,052 0,145 0,089
(Ngu ồ n s ố li ệu điều tra năm 2018 -2019)
Qua bảng 4.2 và Hình 4.2 đã cho ta thấy :
Sinh trưởng đường kính D(oo)cm của 5 loài cây bản địa qua 11 lần đo trồng chăm sóc và theo dõi thấy kết quảcây sinh trưởng tốt, cụ thểnhư sau :
- Đối với cây Long Não có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,105cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng được
Trong quá trình theo dõi sự phát triển, các chỉ số tăng trưởng được ghi nhận như sau: từ tháng 0 đến tháng 1 là 0,14 cm/tháng; từ tháng 3 đến tháng 4 là 0,015 cm/tháng; từ tháng 4 đến tháng 5 đạt trung bình 0,074 cm/tháng; từ tháng 5 đến tháng 6 tăng trung bình 0,084 cm/tháng; từ tháng 6 đến tháng 8 ghi nhận 0,05 cm/tháng; từ tháng 8 đến tháng 9 đạt 0,032 cm/tháng; và từ tháng 9 đến tháng 10 là 0,039 cm/tháng.
11bình quân tăng được 0,021cm/tháng và có sự tăng trưởng so sánh giữa lần 1-11 là 0,542cm, có tăng trưởng bình quân là 0,054cm
Cây Bách xanh có đường kính gốc trung bình D(oo) đã cho thấy sự tăng trưởng đáng kể qua các lần đo Từ lần đo 1-2, cây tăng trung bình 0,05 cm/tháng; lần đo 2-3 là 0,013 cm/tháng; lần đo 3-4 và 5 đạt 0,037 cm/tháng; lần đo 5-6 là 0,025 cm/tháng Đặc biệt, từ lần đo 6-7 và 8, cây tăng trưởng mạnh với 0,138 cm/tháng, tiếp theo là 0,175 cm/tháng từ lần đo 8-9 và 10 Cuối cùng, lần đo 10-11 có mức tăng trưởng 0,037 cm/tháng Tổng kết, từ lần đo 1-11, cây Bách xanh có tổng tăng trưởng 0,475 cm, với mức tăng trưởng bình quân là 0,047 cm/tháng.
- Đối với cây Sưa đỏ có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo 1-2 bình quân tăng được 0,167cm/tháng ; lần đo 2-3 và 4 bình quân tăng được
0,1cm/tháng; lần đo 4-5 và 6 bình quân tăng được 0,137cm/tháng; lần đo 6-7 và 8 bình quân tăng được 0,06cm/tháng; lần đo 8-9 bình quân tăng được
Trong quá trình theo dõi sự phát triển, kết quả cho thấy chiều cao tăng trung bình 0,044 cm/tháng Ở lần đo thứ 9-10 và 11, sự tăng trưởng đạt 0,067 cm/tháng So sánh giữa lần đo đầu và cuối, tổng chiều cao tăng là 0,523 cm, với mức tăng trưởng bình quân là 0,052 cm.
- Đối với cây Gù Hương có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo 1-2 sinh trưởng bình quân 0,352cm/tháng ;lần đo 2-3 bình quân tăng được
Trong quá trình theo dõi sự phát triển, các lần đo cho thấy sự tăng trưởng trung bình như sau: từ 0,19 cm/tháng ở lần đo đầu tiên; lần đo thứ hai (3-4) tăng thêm 0,036 cm/tháng; lần thứ ba (4-5) tăng 0,159 cm/tháng; lần thứ tư (5-6) tăng 0,161 cm/tháng; lần thứ năm (6-7) tăng 0,041 cm/tháng; lần thứ sáu (7-8) tăng 0,077 cm/tháng; và lần cuối (8-9) có sự tăng trưởng trung bình.
Trong giai đoạn từ tháng 0 đến tháng 1, chiều cao trung bình tăng 0,269 cm/tháng Từ tháng 9 đến tháng 10, mức tăng thêm là 0,081 cm/tháng, và từ tháng 10 đến tháng 11, tăng thêm 0,084 cm/tháng Tổng chiều cao so sánh giữa lần đo đầu tiên và lần đo thứ mười một là 1,45 cm, với mức tăng trưởng bình quân đạt 0,145 cm.
-Đối với cây Re Hương có đường kính gốc trung bình D(oo) từ lần đo
Trong quá trình theo dõi sự sinh trưởng, các số liệu cho thấy từ lần đo 1-2, chiều cao tăng trung bình 0,162 cm/tháng Từ lần đo 2-3, mức tăng giảm còn 0,143 cm/tháng Tiếp theo, lần đo 3-4 ghi nhận sự tăng trưởng chỉ còn 0,014 cm/tháng Lần đo 4-5 có mức tăng trung bình 0,115 cm/tháng, và từ lần đo 5-6, sự tăng trưởng tiếp tục giảm xuống còn 0,107 cm/tháng Từ lần đo 6-7 và 8, mức tăng trưởng ổn định ở 0,116 cm/tháng, trong khi lần đo 8-9 ghi nhận mức tăng 0,1 cm/tháng Cuối cùng, từ lần đo 9-10 và 11, sự tăng trưởng tiếp tục diễn ra.
0,135cm/tháng; và có sự tăng trưởng so sánh giữa lần đầu và lần đo cuối là 0,892cm, có tăng trưởng bình quân là 0,089cm
Trong nghiên cứu về sự tăng trưởng bình quân đường kính gốc của 5 loài cây bản địa, cây Gù hương đạt mức cao nhất với 1,45 cm, tiếp theo là cây Re Hương với 0,892 cm Cây Long Não ghi nhận mức tăng trưởng 0,542 cm, trong khi cây Sưa đỏ đạt 0,523 cm và cây bách xanh có mức tăng trưởng thấp nhất là 0,475 cm.
- So sánh sinh trưởng đường kính:
Bài viết so sánh sự sinh trưởng đường kính của cây Long Não với kết quả nghiên cứu của Hoàng Thúy Hoa, trong đó đề cập đến “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài thuộc họ Long Não (Lauraceae); họ Trầm (Thymelaceae), và họ Bứa (Clusiaceae)” tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Trường Đại học Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về sự phát triển của cây Long Não và ảnh hưởng của sâu bệnh đến sự sinh trưởng của các loài thực vật khác trong cùng hệ sinh thái.
Học Nông Lâm Thái Nguyên”
Bảng 4.3 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Long não theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa
Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0.507
Từ những dữ liệu tại bảng 4.3 cho thấy :
Cây Long não có đường kính trung bình sát gốc D(00) là 1.478cm ở lần đo cuối cùng, với hệ số biến động từ 0.065 đến 0.094% So với lần đo đầu, cây có lượng tăng trưởng đạt 0.507cm.
Cây Long não trong mô hình cây bản địa cho thấy sự sinh trưởng vượt trội so với các loài thực vật thuộc họ Long Não, họ Trầm và họ Bứa tại vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Sự khác biệt này là do điều kiện chăm sóc khác nhau, chứng minh rằng cây Long não rất phù hợp và phát triển tốt trong môi trường nghiên cứu của chúng tôi.
Bài viết so sánh sự sinh trưởng đường kính của cây Sưa đỏ với kết quả nghiên cứu của Trần Quang Ngọc, trong đó nghiên cứu về sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại của một số loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae) được thực hiện tại mô hình vườn thực vật của Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên Kết quả cho thấy sự phát triển của cây Sưa đỏ có những điểm tương đồng và khác biệt đáng chú ý so với các loài thực vật khác trong cùng họ.
Bảng 4.4 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Sưa đỏ theo kết quả của Trần Quang Ngọc
Từ dữ liệu bảng 4.4 cho ta thấy :
Cây Sưa đỏ có đường kính trung bình tại gốc D(00) được đo lần cuối là 1.3cm, với hệ số biến động dao động từ 0.122 đến 0.140% So sánh giữa lần đo đầu và lần đo cuối cho thấy sự tăng trưởng đường kính gốc là 0.3cm.
Cây Sưa đỏ trong mô hình cây bản địa cho thấy sự sinh trưởng vượt trội so với một số loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae) được nghiên cứu tại vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi điều kiện chăm sóc khác nhau, chứng minh rằng cây Sưa đỏ rất phù hợp với môi trường và phát triển tốt trong mô hình nghiên cứu của chúng tôi.
So sánh sự sinh trưởng đường kính của cây Re hương với kết quả nghiên cứu của Hoàng Thúy Hoa cho thấy sự phát triển của cây thuộc họ Long Não (Lauraceae), họ Trầm (Thymelaceae) và họ Bứa (Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật ở khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình sinh trưởng và tình trạng sâu bệnh hại, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phát triển bền vững các loài cây trong khu vực.
Bảng 4.5 Sinh trưởng về đường kính gốc của cây Re hương theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa lần đo Doo(cm) S ∆
Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0.900
Từ bảng 4.5 cho ta thấy:
K ế t qu ả đặc điểm sinh trưở ng chi ề u cao c ủ a 5 loài cây b ản đị a
mô hình vườ n cây b ản đị a
Kết quả nghiên cứu về sinh trưởng chiều cao vút ngọn (Hvn) được trình bày tại bảng 4.6
Bảng 4.6: Sinh trưởng về chiều cao của 5 loài cây bản địa trong mô hình
Tên loài Long não Bách xanh S ưa đỏ Gù hương Re hương
(Ngu ồ n s ố li ệu điều tra năm 2018 -2019)
Hình 4.2: Sơ đồ th ể hi ệ n chi ề u cao H(vn) c ủ a 5 loài cây b ản đị a
Bảng 4.6 và Hình 4.2 cho thấy sự phát triển đồng đều về chiều cao Hvn của các cây bản địa, không ghi nhận sự ngừng hoặc chậm phát triển, mà các cây này liên tục phát triển.
- Từ kết quả tại bảng 4.2 cho thấy: Chiều cao vút ngọn (Hvn) của 5 loài cây bản địa tăng trưởng rất tốt với điều kiện môi trường mới cụ thểnhư:
- Đối với cây Long Não chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều cao tăng 7,053cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được
8,105cm/tháng; lần đo 3-4 bình quân tăng 7cm/tháng; lần đo 4-5 bình quân tăng trưởng 4,947cm/tháng; lần đo 5-6 bình quân tăng trưởng 0,632cm/tháng; lần đo
Trong 11 lần đo, chiều cao của trẻ đã có sự tăng trưởng đáng kể với các chỉ số cụ thể như sau: từ 6-7 tháng, bình quân tăng trưởng đạt 1,526 cm/tháng; từ 7-8 tháng, tăng 2,263 cm/tháng; từ 8-9 tháng, tăng 0,632 cm/tháng; từ 9-10 tháng, tăng 2,158 cm/tháng; và từ 10-11 tháng, tăng 4,789 cm/tháng Tổng cộng, chiều cao tăng 39,105 cm giữa lần đo đầu và cuối, với mức tăng trưởng bình quân đạt 3,910 cm.
Cây bách xanh cho thấy sự phát triển chiều cao đáng kể qua các giai đoạn đo Từ lần đo 1-2, cây tăng trung bình 4,438 cm/tháng; từ lần đo 2-3 và 4, cây tăng 2,375 cm/tháng; từ lần đo 4-5, cây chỉ tăng 1,625 cm/tháng; và từ lần đo 5-6, mức tăng giảm xuống còn 0,25 cm/tháng.
Trong quá trình đo chiều cao của cây Long Não Bách Xanh, kết quả cho thấy sự tăng trưởng đáng kể qua các lần đo Từ lần đo 6 đến 7, chiều cao tăng trung bình 0,625cm/tháng; từ lần đo 7 đến 8, tăng 3,25cm/tháng; từ lần đo 8 đến 9, tăng 9,375cm/tháng; từ lần đo 9 đến 10, tăng 4,74cm/tháng; và từ lần đo 10 đến 11, tăng 3cm/tháng Tổng cộng, chiều cao cây tăng 29,698cm từ lần đo đầu đến lần đo cuối, với mức tăng trưởng bình quân đạt 2,969cm.
Cây Sưa đỏ cho thấy sự tăng trưởng chiều cao đáng chú ý qua các lần đo Từ lần đo 1-2, chiều cao trung bình tăng 2,555 cm/tháng; lần đo 2-3, tăng 5,223 cm/tháng; lần đo 3-4, tăng 0,111 cm/tháng; lần đo 4-5, tăng 1,55 cm/tháng; lần đo 5-6, tăng 2,889 cm/tháng; lần đo 6-7, tăng 0,334 cm/tháng; lần đo 7-8, tăng 2,888 cm/tháng; lần đo 8-9, tăng 4,778 cm/tháng; lần đo 9-10, tăng 2,222 cm/tháng; và lần đo 10-11, tăng 1,334 cm/tháng Tổng cộng, cây Sưa đỏ có sự tăng trưởng chiều cao 23,889 cm trong 11 lần đo, với mức tăng trưởng bình quân đạt 2,388 cm/tháng.
- Đối với cây Gù Hương chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều cao tăng 2 cm/tháng;lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được
Trong 11 lần đo chiều cao, trung bình tăng trưởng đạt 4,307cm, với sự gia tăng tổng cộng 43,704cm giữa lần đo đầu và cuối Cụ thể, trong các giai đoạn đo, lần 3-4 tăng 4,555cm/tháng, lần 4-5 tăng 2,112cm/tháng, lần 5-6 tăng 3,555cm/tháng, lần 6-7 tăng 1,778cm/tháng, lần 7-8 tăng 2,926cm/tháng, lần 8-9 đạt 8cm/tháng, lần 9-10 tăng 4,889cm/tháng, và lần 10-11 tăng 4,222cm/tháng.
- Đối với cây Re hương chiều cao H(vn)từ lần đo 1-2 bình quân chiều cao tăng 3,951 cm/tháng; lần đo 2-3 bình quân tăng trưởng chiều cao tăng được
Trong 11 lần đo chiều cao, trung bình tăng trưởng là 3,552 cm, với sự tăng trưởng giữa lần đo đầu và cuối đạt 35,523 cm Cụ thể, từ 4-5 tuổi, trẻ tăng trưởng 4,905 cm/tháng; từ 5-6 tuổi, tăng 4 cm/tháng; từ 6-7 tuổi, tăng 0,572 cm/tháng; từ 7-8 tuổi, tăng 4,666 cm/tháng; từ 8-9 tuổi, tăng 4,667 cm/tháng; từ 9-10 tuổi, tăng 2,095 cm/tháng; và từ 10-11 tuổi, tăng 4,143 cm/tháng.
Kết quả nghiên cứu cho thấy năm loài cây bản địa có khả năng sinh trưởng chiều cao rất tốt, trong đó loài Long Não đạt chiều cao cao nhất là 39,105 cm, trong khi loài Sưa đỏ thấp nhất với chiều cao 23,889 cm.
Với điều kiện lập địa mới hoàn toàn, các cây bản địa trong vườn thực vật đang phát triển mạnh mẽ về chiều cao Sự thay đổi này được thể hiện rõ rệt qua từng lần đo, cho thấy kết quả khả quan từ các lần đo trước đó.
- So sánh sinh trưởng chiều cao vút ngọn:
Nghiên cứu về sự sinh trưởng chiều cao của cây Long Não (H(vn)) cho thấy sự phát triển của nó có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu của Hoàng Thúy Hoa, trong bài viết “Nghiên cứu sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại một số loài thuộc họ Long Não (Lauraceae); họ Trầm” Những dữ liệu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về điều kiện sinh trưởng và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của cây Long Não, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nghiên cứu sâu bệnh hại trong việc bảo vệ và phát triển loài cây này.
(Thymelaceae), họ Bứa (Clusiaceae) tại mô hình vườn thực vật khoa Lâm NghiệpTrường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên”
Bảng 4.7 Sinh trưởng về chiều cao của cây Long não theo kết quả của Hoàng Thúy Hoa lần đo Hvn(m) S ∆
Lượng tăng trưởng giữa lần 1 và lần đo 5 0.391
- Sinh trưởng chiều cao vút ngọn Hvn(m) trung bình của cây Long não có trung bình chiều cao vút ngọn Hvn(m) tại lần đo cuối thu được là 1.423 m
Với hệ số biến động từ 0.061 đến 0.068% Có sự tăng trưởng trung bình so sánh giữa lần đo cuối và đầu là 0.391 m
Cây Long não trong mô hình cây bản địa cho thấy sự sinh trưởng chiều cao tương đương với các loài thực vật thuộc họ Long Não, họ Trầm và họ Bứa tại vườn thực vật khoa Lâm Nghiệp Điều này chứng tỏ rằng cây Long não rất phù hợp với điều kiện phát triển tại mô hình nghiên cứu, đồng thời tình hình sâu bệnh hại cũng được kiểm soát tốt, cho thấy khả năng sinh trưởng mạnh mẽ của loài cây này trong môi trường tự nhiên.
Sự sinh trưởng chiều cao của cây Sưa đỏ được so sánh với kết quả nghiên cứu của Trần Quang Ngọc, trong đó tập trung vào sinh trưởng và tình hình sâu bệnh hại của một số loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae) trồng tại mô hình vườn thực vật của Khoa Lâm Nghiệp, Trường Đại Học Nông Lâm Thái Nguyên Nghiên cứu này cung cấp những thông tin quý giá về khả năng phát triển của cây Sưa đỏ trong môi trường nghiên cứu tương tự.
Bảng 4.8 Sinh trưởng về chiều cao của cây Sưa đỏ theo kết quả của Trần Quang Ngọc
Theo bảng 4.8, chiều cao trung bình của cây Sưa đỏ tại lần đo cuối là 0.836 m, với hệ số biến động từ 0.042 đến 0.044% Sự tăng trưởng trung bình so với lần đo đầu là 0.09 m.
Cây Sưa đỏ được so sánh trong mô hình cây bản địa với nghiên cứu về sinh trưởng chiều cao và tình hình sâu bệnh hại của một số loài thực vật thuộc họ đậu (Fabaceae) trồng tại mô hình vườn thực vật khoa Việc phân tích này giúp hiểu rõ hơn về sự phát triển và khả năng chống chịu của cây Sưa đỏ cũng như các loài thực vật họ đậu trong môi trường trồng trọt.
Nghiên cứu của Lâm Nghiệp cho thấy cây Sưa đỏ có khả năng sinh trưởng về chiều cao tốt hơn so với các loại cây khác trong cùng điều kiện chăm sóc Điều này chứng tỏ rằng cây Sưa đỏ rất phù hợp với môi trường tại mô hình nghiên cứu của chúng tôi, đồng thời cũng cho thấy tình hình sâu bệnh hại được kiểm soát hiệu quả.