Đặ t v ấn đề
Trúc sào, một loại tre có nguồn gốc nước ngoài, đã được nhập vào Việt Nam từ lâu và gần như trở thành cây bản địa Loại cây này có giá trị cao, đặc biệt là nguyên liệu quý cho sản xuất đồ mỹ nghệ, bàn ghế, cần câu và gậy trúc Trúc sào, hay mao trúc, là loài tre phổ biến nhất và được trồng rộng rãi ở Trung Quốc, với 9 giống cây trồng khác nhau do điều kiện trồng trọt Tại Việt Nam, cây trúc sào cũng được trồng phổ biến.
Trúc sào cao bằng, có nguồn gốc từ loài mao trúc của Trung Quốc, đã trải qua nhiều biến đổi khi được trồng tại Việt Nam Cần xem xét lại tên khoa học của loài này, vì trúc sào cao bằng khác biệt so với mao trúc (P heterocycla) ở một số điểm: thân trúc cao bằng nhỏ hơn và có màu trắng hơn khi chế biến, không có vết sẫm màu ở đốt Đặc biệt, trúc sào cao bằng rụng lá hàng năm, trong khi mao trúc mất lá sau hai năm Chu trình sinh trưởng của trúc sào cao bằng diễn ra hàng năm với các giai đoạn: sinh thân ngầm, ra măng, thành cây và thay lá, trái ngược với chu trình hai năm của mao trúc.
Vấn đề phân loại chính xác loài trúc sào cao bằng và tính đa dạng của chúng cần được nghiên cứu kỹ lưỡng để phục vụ cho việc chọn giống hiệu quả Trúc sào chủ yếu được trồng tại Cao Bằng (Bảo Lạc, Nguyên Bình) và Hà Giang, sau đó mở rộng sang các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, nơi có cộng đồng dân tộc Dao, Mông, Tày, Nùng sinh sống Thân trúc sào là sản phẩm quan trọng nhất với đặc điểm thẳng, to, tròn đều, ít nổi mắt, dễ uốn, và nếu chế biến tốt, sẽ có màu vàng ngà, sáng bóng rất đẹp Thân trúc sào được sử dụng rộng rãi trong sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ.
Nghệ thuật chế biến từ trúc sào không chỉ tạo ra những sản phẩm như cần câu, gậy trượt tuyết, sào nhảy cao, mà còn bao gồm các mặt hàng đan mành, làm chiếu, và đóng bàn ghế có giá trị cao, chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu Thân trúc sào còn là nguyên liệu quý giá cho ngành công nghiệp giấy và sợi tại Trung Quốc Gần đây, trúc sào được ứng dụng để sản xuất ván ghép và ván thanh, phục vụ cho trang trí nội thất, làm ván sàn và đóng đồ đạc thay thế cho gỗ, cho thấy tiềm năng phát triển mạnh mẽ trong tương lai.
Việc sử dụng trúc sào (Phyllostachys edulis) hiện nay chưa đạt hiệu quả tối ưu do thiếu cơ sở khoa học về ảnh hưởng của vị trí trên cây đến tính chất vật lý của nó Nghiên cứu về các vị trí trên cây trúc sào, đặc biệt là cây 3 tuổi tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn, là cần thiết để cung cấp thông tin hỗ trợ cho việc áp dụng đúng cách và đạt hiệu quả cao nhất trong sản xuất.
Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định được cấu tạocác vị trí khác nhau trên cây trúc sào tuổi 3
- Xác định được mối quan hệ giữa vị trí trên thân cây đến tính chất vật lý của trúc sào tuổi 3.
Ý ngh ĩa đề tài
Ý nghĩa thự c ti ễ n
- Xác định được hướng sử dụng của loại cây trúc sào tuổi 3 theo vị trí
Nghiên cứu này giúp người dân tại các cơ sở chế biến tối ưu hóa việc sử dụng các vị trí trên thân cây trúc sào tuổi 3, từ đó giảm thiểu lãng phí và tận dụng hiệu quả nguồn tài nguyên sẵn có.
Tình hình nghiên c ứ u trên th ế gi ớ i và Vi ệ t Nam
Nghiên c ứ u chung v ề tre trúc ở trên th ế gi ớ i
Tre là một tài nguyên rừng, một nhóm lâm sản ngoài gỗ rất có giá trị
Tre được phân bố trên ba khu vực chính: Châu Á Thái Bình Dương, Châu Phi và Châu Mỹ Thuộc phân họ tre (Bambussoideae) trong họ Cỏ (Poaceae), tre có khoảng 1.300 loài thuộc 70 chi trên toàn cầu Nhiều loài tre phát triển thành rừng, với tổng diện tích rừng tre ước tính lên tới 14 triệu ha, trải dài từ xích đạo qua vùng nhiệt đới đến các khu vực hàn và ôn đới, cụ thể là từ 15 độ vĩ.
Tre sinh trưởng từ 47 độ vĩ Bắc đến 47 độ vĩ Nam, với Trung Quốc là quốc gia có số lượng tre phong phú nhất, sở hữu khoảng 50 chi và 500 loài trên diện tích 7 triệu ha rừng tre Nhật Bản đứng thứ hai với 13 chi và hơn 230 loài tre Ngoài ra, Ấn Độ cùng các nước Nam và Đông Nam Á, bao gồm Việt Nam, cũng là những khu vực có sự đa dạng về tre.
Tre không chỉ là nguyên liệu mà còn là vật liệu xây dựng, vì vậy nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện các nghiên cứu và thí nghiệm để khám phá tính chất vật lý và cơ học của tre.
Tác phẩm đầu tiên nghiên cứu về tre trúc trên thế giới là của tác giả Munro, xuất bản năm 1868 với tựa đề “Nghiên cứu về Bambusaceae” Tiếp theo là tác phẩm của Gamble, xuất bản năm 1896, trong đó ông mô tả chi tiết 151 loài tre trúc ở Ấn Độ và một số loài ở Pakistan, Sri Lanka, Myanmar, Malaysia và Indonesia Gamble (1896) cho rằng các loài tre trúc là chỉ thị tốt về đặc điểm và độ phì của đất, ví dụ như loài Bambusapolymorphe, phân bố trong điều kiện đất ẩm và giàu dinh dưỡng, cho thấy đất có độ phì tự nhiên cao.
Loài Dendrocalamus strictus thường phân bố ở những vùng đất khô hạn, thuộc kiểu rừng tự nhiên thưa và rụng lá Trong tác phẩm “Bàn về công tác tái sinh tự nhiên và quy hoạch rừng tre trúc” của tác giả S.K Seth, được xuất bản gần 20 năm trước, đã chỉ ra rằng mỗi loài tre trúc có tính quần cư và khu vực sinh trưởng rõ ràng, giúp chúng chỉ thị tốt cho các kiểu rừng tự nhiên Những kiểu rừng này có mối liên hệ chặt chẽ với đặc điểm, tính chất và độ phì của đất.
S Ahmad đã nghiên cứu sự phân bố tự nhiên của tre trúc ở Pakistan và phát hiện rằng các loài tre thân mọc cụm thường thích nghi tốt với đất feralit có thành phần cơ giới nặng, chủ yếu là đất có hạt sét, và cần có khả năng thoát nước tốt.
Tại Mỹ Latinh, người dân đã tích lũy kinh nghiệm trong việc xác định vị trí đất trồng chuối tốt dựa vào sự phân bố của loài tre Guadua.
Tập 1 “Rừng tre trúc” do FAO xuất bản năm 1959, các tác giả I T.Haig, M A Huberman và U Aung Din đã chỉ ra rằng sự phân bố tự nhiên của các loài tre trúc ở Myanma phản ánh tốt các điều kiện đất đai tại đây Ví dụ, loài Bambusa polymorphe cho thấy đất đai màu mỡ, ẩm ướt và thoát nước tốt, trong khi loài Dendrocalamus strictus lại chỉ thị cho đất khô Tại Trung Quốc, nơi có diện tích rừng tre trúc lớn thứ hai thế giới sau Ấn Độ, có khoảng 500 loài thuộc 50 chi, được đề cập trong tác phẩm “Trúc loại kinh doanh” của Ôn Thái Huy.
Năm 1959, tác phẩm của tác giả đã khám phá các loài tre trúc quan trọng của Trung Quốc và phương thức kinh doanh liên quan Đặc biệt, loài Mao Trúc chiếm tới 75% sản phẩm xuất khẩu măng tre của Trung Quốc sang Nhật Bản, cho thấy sự quan trọng của nghiên cứu sâu về các loài tre trúc này.
Bài viết đề cập đến quá trình sinh trưởng, dinh dưỡng và sinh sản của rừng mao trúc cao sản thông qua các phương pháp hiện đại như đồng vị phóng xạ Các kỹ thuật trồng rừng do tác giả Lý Đại Nhật và Lâm Cường nghiên cứu đã được xuất bản bởi Nhà xuất bản Khoa học kỹ thuật tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc vào tháng 5 năm nay.
Năm 2000, chúng ta đã có thể phát triển các biện pháp kỹ thuật thâm canh cho rừng trúc sào tại Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh Cao Bằng và Bắc Kạn.
Gần đây, Trung Quốc đã chú trọng nghiên cứu các kỹ thuật trồng tre trúc lấy măng cao sản, được giới thiệu trong các tác phẩm như “Kỹ thuật gây trồng tre trúc lấy măng cao sản” của Hà Quân Triều, Kim Ái Võ, Châu Ngạch (Nhà xuất bản Kim Thuẫn, tháng 3 năm 2002) và “Kỹ thuật gây trồng trúc hướng măng và chế biến măng thực phẩm” của Vương Hiến Bồi (Nhà xuất bản KHKT và Phổ cập kiến thức Thượng Hải, tháng 1 năm 2002).
Vấn đề trồng rừng tre trúc lấy măng đã được triển khai ở một số địa phương Việt Nam từ năm 2003 nhằm nâng cao giá trị kinh tế của rừng tre trúc Nhật Bản, với 237 loài tre trúc khác nhau, cũng chú trọng nghiên cứu về dinh dưỡng và sinh trưởng của các loài này Trong tác phẩm “Nghiên cứu sinh lý tre trúc” của Tiến sĩ Koichiro Ueda, xuất bản năm 1960, đã đề cập đến sự khác biệt trong đặc điểm đất trồng của hai loại trúc.
Phyllostachys reticulata và Phyllostachys edulis phát triển tốt ở những vùng đất có độ xốp cao, độ ẩm vừa phải, khả năng giữ nước tốt và thoát nước hiệu quả Các chỉ tiêu như hàm lượng hạt sét, mùn, N tổng số, K2O và CaO (tan trong axit HCl nóng) đều cao hơn rõ rệt ở những nơi đất trồng tre trúc sinh trưởng tốt so với những nơi sinh trưởng kém Tuy nhiên, hàm lượng P2O5 trong đất không có sự khác biệt rõ ràng giữa hai loại đất này.
Tác giả Koichiro Ueda đã công bố các số liệu phân tích đất dưới các rừng tre Bambusa arundinaria và Melocana bambusoides tại Madras và Assam, Ấn Độ, cho thấy những đặc điểm quan trọng về chất lượng đất trong các khu vực này.
- Đất có độ xốp lớn: từ 57 – 61%
- Hàm lượng hữu cơ trong đất trung bình khá (1,03 – 2,15%C)
- Hàm lượng N trong tổng số % từ trung bình đến khá (0, 14 – 0,22%)
- Tỷ lệ C/N thấp, biểu hiện mùn chứa nhiều đạm và cường độ phân giải của chất hửu cơ trong đất dưới rừng diễn ra khá nhanh
- Hàm lượng K2O (%) hòa tan trong dung dịch axit HCl với nồng độ 1/3 N, vào loại khá
- Hàm lượng P2O5 (%) trong dất tương đối thấp
Nghiên c ứ u chung v ề tre trúc ở Vi ệ t Nam
Công trình nghiên cứu đầu tiên về tre trúc ở Việt Nam là phân loại các loài tre trúc do Le Comte chủ biên, được xuất bản năm 1923 trong bộ sách “Thực vật chí Đông Dương”.
Năm 1974, các nhà phân loại thực vật Phan Kế Lộc và Vũ Văn Dũng đã tiến hành nghiên cứu và phân loại các loài tre trúc tại miền Bắc Việt Nam Trước đó, vào năm 1971, cuốn sách “Nhận biết, gây trồng, bảo vệ và khai thác tre trúc” do Lê Nguyên biên soạn chỉ đề cập đến một số loài tre trúc chính ở Việt Nam.
Năm 1999, sau khi đất nước thống nhất, Phạm Hoàng Hộ đã tiến hành phân loại 123 loài tre trúc thuộc 23 chi ở Việt Nam Để đáp ứng nhu cầu sản xuất cấp bách, dự án “Đa dạng loài và bảo tồn ex-situ một số loài tre” đã được tài trợ nhằm bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên này.
Việt Nam đã hợp tác với các chuyên gia phân loại tre trúc từ Trung Quốc, giáo sư LiDzhu và giáo sư Xia Nianhe, nhằm phân loại các chi và loài tre trúc trong nước Nghiên cứu này được trình bày trong cuốn sách “Tre trúc Việt Nam” xuất bản năm 2005, dài 206 trang Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu nhỏ cũng đã được thực hiện, bao gồm “Tìm hiểu về đặc tính sinh vật học của cây Vầu” của Nguyễn Văn Tích vào năm 1964, “Kết cấu về quần thể rừng trúc” của Trần Đức Hậ năm 1977, và “Đặc điểm rừng tre Mạy sang, phân bố tự nhiên vùng Tây Bắc” của Nguyễn Văn Bơ vào năm 1984.
Tre nứa, với nhiều đặc tính quý giá, đã trở thành nguyên liệu quan trọng trong đời sống hàng ngày cũng như trong ngành thủ công nghiệp và công nghiệp hiện đại Hiện nay, đã có hơn 30 công dụng của tre nứa được thống kê, trong đó nổi bật là làm hàng thủ công mỹ nghệ, vật liệu xây dựng và nguyên liệu cho nhiều sản phẩm khác.
Ngành công nghiệp giấy sợi và sản xuất măng tre đang phát triển mạnh mẽ nhờ vào đặc tính sinh trưởng nhanh và khả năng thích nghi với nhiều loại đất của tre nứa Loài cây này không chỉ dễ trồng mà còn đa tác dụng, cung cấp nguồn nguyên liệu phong phú cho nhiều lĩnh vực Gần đây, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện để cải tiến công nghệ chế biến và sử dụng tre, nhằm nâng cao hiệu quả và đáp ứng nhu cầu vật liệu cho ngành chế biến lâm sản.
Năm 1992, nghiên cứu đã được thực hiện về công nghệ và tuyển chọn thiết bị sản xuất ván ốp tường cũng như ván sàn trang trí nội thất từ tre nứa Đặc biệt, nghiên cứu này còn tập trung vào việc sử dụng ván nứa ép ba lớp để thay thế cho ván gỗ trong các ngôi nhà của người dân vùng núi phía Bắc.
Nghiên cứu về tre trúc ở Việt Nam đã có lịch sử lâu dài, bắt đầu từ những công trình đầu tiên của người Pháp trong ấn phẩm thực vật chí Đông Dương vào năm 1923 Vào những năm 1960, Phạm Quang Độ đã tiến hành nghiên cứu chuyên sâu về kỹ thuật trồng và khai thác tre trúc, góp phần quan trọng vào hiểu biết về loại cây này tại Việt Nam.
Từ năm 1963, nghiên cứu về phân loại, kỹ thuật nhân giống, trồng trọt, chăm sóc và bảo vệ rừng tre trúc đã được tiến hành Các công trình tiêu biểu bao gồm kinh nghiệm trồng luồng của Phạm Văn Tích (1963), nghiên cứu đất trồng luồng của Nguyễn Ngọc Bình (1964), phân loại tre trúc theo hình thái của Trần Đình Đại (1967) và nghiên cứu bệnh hại tre của Trần Văn Maaxo (1972) Đến năm 2007, đã có hơn 100 ấn phẩm nghiên cứu về tre trúc được phát hành trên toàn quốc.
Từ năm 1971 đến 2007, đã có hơn 18 công trình nghiên cứu về phân loại, đặc điểm nhận biết và phân bố các loài tre trúc tại Việt Nam Những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào hình thái, giải phẫu, nhận diện, phân bố và công dụng của một số loài tre trúc, thể hiện sự quan tâm đáng kể đến cấu trúc và loại hình rừng tre trúc trong nước.
Ví dụ như cuốn sách “Tên cây rừng Việt Nam” do tác giả Nguyễn Tích và
Trần Hợp đã xuất bản vào năm 1971, tạo ra bảng tra cứu tên cây theo tiếng Việt Nam và theo họ thực vật Đây là những cuốn sách đầu tiên hỗ trợ tra cứu tên các loài cây rừng Việt Nam, đồng thời đề cập đến 23 loài tre hữu ích mà người dân thường sử dụng, bao gồm các loại như Bương, Dang, Diễn, Diễn trứng, Hóp, Luồng Thanh Hóa, và Mai.
Nứa, Trúc đùi gà, Vầu và Vầu trồng là những loại cây được nghiên cứu qua quy luật sinh măng của nứa lá nhỏ Các tác giả đã khảo sát hệ thống thân ngầm để xác định tuổi cây và lập bảng tra tuổi cho lâm trường Tân Phong Kết quả nghiên cứu được công bố bởi tác giả Hải Âu trong bài viết “Cách nhận biết nứa lá nhỏ” trên tập san Lâm nghiệp số 7 năm 1976 Bảng tra tuổi này không chỉ hữu ích cho lâm trường Tân Phong mà còn có thể làm tài liệu tham khảo cho nhiều vùng khác có điều kiện tương tự Nghiên cứu này là cơ sở quan trọng cho các nghiên cứu tiếp theo.
Theo nghiên cứu của Trường Đại học Lâm nghiệp, tre gai (Bambusa Bambos) tại Đông Triều – Quảng Ninh cho thấy sự biến động về tính chất cơ học Cụ thể, độ bền kéo và nén của tre gai tăng dần từ gốc đến ngọn, trong khi độ bền uốn tĩnh lại giảm dần từ gốc đến ngọn, với ứng suất tại gốc đạt 440×10^5 N/m2 (Lê Xuân Tình).
Lê Thu Hiền (2003) đã nghiên cứu và xác định tính chất vật lý và cơ học của cây Luồng và Trúc sào, cho thấy Luồng có tính chất cơ học vượt trội hơn so với Trúc sào.
Lê Thu Hiền và Phạm Văn Chương đã nghiên cứu tác động của cấu trúc đến tính chất của vật liệu composite dạng lớp từ tre và gỗ Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng vật liệu composite được sản xuất từ Luồng và Bồ đề có tính chất vượt trội hơn so với sản phẩm ván dán làm từ gỗ Bồ đề.
Theo kết quả tài liệu giáo trình khoa học gỗ 2016 cho thấy chiều cao thân khí sinh của trúc sao (Phyllostachise edulis) có ảnh hưởng đến tính chất
T ổ ng quan v ề đặc điể m hình thái và phân b ố c ủ a cây trúc sào
Đặc điểm hình thái cây trúc sào
Trúc sào (phyllostachys edulis) hay còn gọi là Trúc cao bằng, mao trúc, mạy khoang cái, mạy khoang hoài, sào pên (Họ: Hoà thảo – Poaceae,Phân họ: Tre – Bambusoideae)
Cây Trúc sao là loại cây thân đốt, cao khoảng 20m và có đường kính từ 12-20cm Thân cây mọc tản, cách xa nhau từ 0,5-1m hoặc hơn, với phần thân non được phủ bởi lông mềm và phấn trắng Vòng mo của cây có lông, trong khi thân cây già nhẵn và chuyển từ màu lục sang vàng lục Các lóng gốc của cây rất ngắn, trong khi các lóng trên dài dần.
Thân cây dài từ 40cm trở lên, với bề dày vách khoảng 1cm và vòng thân không rõ ràng, thường thấp hơn vòng mo Bẹ mo có màu nâu vàng hoặc nâu tím, mặt lưng có đốm nâu đen và phủ lông gai màu nâu Tai mo nhỏ với lông mi phát triển, lưỡi mo ngắn và rộng, nổi lên thành hình cung nhọn, mép có lông dài, thô Phiến mo ngắn, hình tam giác hoặc lưỡi mác, màu lục, lúc đầu đứng thẳng rồi lật ra ngoài Cành nhỏ có 2-4 lá, tai lá không rõ, lông mi miệng bẹ dễ rụng, phiến lá nhỏ và mỏng, dài 4-11cm, rộng 0,5-1,2cm, mặt dưới có lông mềm trên gân chính, với 3-6 đôi gân cấp hai Cụm hoa dạng bông dài từ 5-7cm, có 4-6 lá bắc dạng vảy nhỏ ở gốc, đôi khi có thêm 1-3 lá gần phát triển bình thường ở phía dưới cành hoa.
Phân b ố
Trúc sào, có nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản, được người Dao mang theo khi di cư từ nam Trung Quốc xuống Bắc Việt Nam Loài tre quý này không chỉ đa tác dụng mà còn gắn bó sâu sắc với cuộc sống của họ Sau đó, người Tày và Nùng ở các tỉnh biên giới phía Bắc cũng đã bắt đầu trồng trúc sào ở những khu vực thấp hơn.
- Việt Nam: Trúc sào được trồng nhiều tại Cao Bằng (Bảo Lạc, Nguyên Bình) và Hà Giang Sau này các tỉnh Lạng Sơn, Bắc Kạn, Thái Nguyên,
Quảng Ninh cũng đã nhập loài trúc sào vào để trồng ở các vùng có đồng bào Dao, Mông, Tày, Nùng sinh sống
Trúc sào (mao trúc) là loại cây phân bố rộng rãi tại các tỉnh như Triết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây và Hồ Nam ở Trung Quốc Theo nghiên cứu của Zhou Fang Chun (2000), diện tích trúc sào tại Trung Quốc đã vượt qua 4 triệu hecta.
T ổ ng quan khu v ự c l ấ y m ẫ u
Đị a gi ớ i hành chính
Huyện Chợ Mới, trước năm 1965, là một phần của huyện Bạch Thông, được thành lập từ thời Lê vào năm 1490 Từ năm 1965 đến 1997, huyện Chợ Mới bao gồm 09 xã và 01 thị trấn nằm ở phía Nam của huyện Bạch Thông.
Huyện Phú Lương, bao gồm các xã Nông Hạ, Nông Thịnh, Thanh Bình, Yên Đĩnh, Như Cố, Quảng Chu, Bình Văn, Yên Hân, Yên Cư và thị trấn Chợ Mới, đã được sáp nhập theo Nghị quyết kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa IX Sau khi tỉnh Bắc Kạn được tái thành lập vào năm 1997, huyện Bạch Thông đã điều chỉnh địa giới hành chính để tiếp nhận 09 xã và 01 thị trấn phía Bắc của huyện Phú Lương Theo Nghị định số 46-NĐ/NP ngày 06/7/1998 của Chính phủ, huyện Chợ Mới được thành lập từ việc chia tách.
16 xã, thị trấn phía Nam của huyện Bạch Thông và chính thức công bố đi vào hoạt động từ ngày 02/9/1998.
V ị trí đị a lý
Huyện Chợ Mới có diện tích tự nhiên 60.716,08ha, bao gồm 16 đơn vị hành chính, trong đó có 15 xã và 01 thị trấn Thị trấn Chợ Mới là trung tâm huyện lỵ, nằm cách thị xã Bắc Kạn 42km về phía Nam và cách thủ đô Hà Nội 142km về phía Bắc.
Huyện có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, là huyện cửa ngõ phía Nam của tỉnh Bắc Kạn:
- Phía Đông giáp huyện Võ Nhai (Thái Nguyên) và huyện Na Rỳ
- Phía Tây giáp huyện Định Hóa (Thái Nguyên)
- Phía Nam giáp huyện Đồng Hỷ và huyện Phú Lương (Thái Nguyên)
- Phía Bắc giáp huyện Chợ Đồn, huyện Bạch Thông và thị xã Bắc Kạn.
Đị a hình
Huyện Chợ Mới, thuộc tỉnh Bắc Kạn, có độ cao trung bình dưới 300m với địa hình đồi núi và nhiều thung lũng, sông suối, tạo điều kiện thuận lợi cho canh tác nông lâm nghiệp và trồng cây ăn quả Quốc lộ 3 là tuyến giao thông chính chạy qua huyện, kết nối 7 xã, thị trấn, giúp di chuyển dễ dàng từ Chợ Mới đến Hà Nội và Cao Bằng Hệ thống đường liên xã cũng góp phần phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của địa phương.
Chợ Mới, nơi sinh sống của 18 dân tộc, có hệ thống giao thông phát triển mạnh mẽ, kết nối chặt chẽ với các trục đường bộ quan trọng ở miền núi phía Bắc Các tuyến giao thông nội bộ và ngoại vi của huyện không chỉ là huyết mạch của Bắc Kạn mà còn là những tuyến chính cho nhiều tỉnh lân cận.
Du, miền núi phía Bắc, mang lại nhiều thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế Khu vực này có tiềm năng lớn trong việc khai thác các thế mạnh, đặc biệt là nguồn lợi từ rừng và tài nguyên du lịch.
Sông ngòi
Huyện Chợ Mới được bao quanh bởi con sông Cầu, sông lớn nhất tỉnh Bắc Kạn, bắt nguồn từ núi Tam Tao và chảy qua nhiều địa phương trước khi hợp lưu với sông Thái Bình Với chiều dài khoảng 100 km và lưu vực lên đến 510 km², sông Cầu có lòng sông rộng và ít thác gềnh, tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông đường thủy liên huyện và liên tỉnh Sông Cầu không chỉ cung cấp nguồn thủy lợi dồi dào cho các xã trong huyện mà còn là nguồn thực phẩm phong phú và đóng vai trò quan trọng trong phát triển nông lâm nghiệp nhờ lớp phù sa màu mỡ mà nó bồi đắp.
Khí h ậ u
Khí hậu huyện Chợ Mới thuộc vùng nhiệt đới gió mùa, với nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 21°C Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 6, tháng 7 và tháng 8, dao động từ 27°C đến 27,5°C, trong khi tháng 1 là tháng lạnh nhất với nhiệt độ trung bình từ 14°C đến 14,5°C Tổng tích nhiệt bình quân năm cũng đóng vai trò quan trọng trong đặc điểm khí hậu của khu vực này.
7.850 o C Mặc dù nhiệt độ còn bị phân hoá theo độ cao và hướng núi, nhưng không đáng kể.
Ngoài chênh lệch về nhiệt độ theo các mùa trong năm, khí hậu Chợ
Mới còn có những đặc trưng khác như sương mù, sương muối Một năm bình
Khu vực 19 quân có khoảng 87-88 ngày sương mù mỗi năm, với số ngày cao hơn vào tháng 10 và tháng 11 Thỉnh thoảng xuất hiện sương muối và mưa đá, nhưng tần suất không nhiều, trung bình chỉ khoảng 0,2 - 0,3 ngày, thường xảy ra vào tháng 12, tháng 1 và đầu mùa xuân.
Lượng mưa trung bình hàng năm đạt từ 1.500 đến 1.510 mm, với các tháng 7 và 8 thường có mưa lớn, có thể lên tới 100 mm/ngày Mùa mưa kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10, chiếm khoảng 75-80% tổng lượng mưa trong năm.
Thịnh hành là sự kết hợp giữa gió mùa đông bắc khô lạnh và gió mùa đông nam ẩm ướt từ biển Đông, dẫn đến hiện tượng mưa vào mùa hè.
Chợ Mới nằm trong khu vực khí hậu gió mùa với bốn mùa xuân, hạ, thu, đông Mùa hạ có gió mùa đông nam, trong khi mùa đông thường có gió mùa đông bắc, mang đến thời tiết giá rét và sương muối Mặc dù điều kiện này có thể ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của cây trồng và gia súc, nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loại cây ưa lạnh như gừng, hồi và quế.
Tài nguyên thiên nhiên
Huyện Chợ Mới sở hữu nhiều loại đất phong phú, bao gồm đất nâu đỏ phát triển trên đá phiến sét, thích hợp cho cây công nghiệp như chè, hồi, quế Đất nâu vàng, hình thành trên đá sa thạch, có thể phục vụ cho phát triển lâm nghiệp Ngoài ra, đất bồi tụ với độ mùn cao và giàu dinh dưỡng, phân bổ dọc theo các con sông, suối, rất thích hợp cho sản xuất nông nghiệp.
Chợ Mới có diện tích đất chủ yếu nằm ở độ cao từ 40 - 300m, rất thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây nông lâm nghiệp Các loại cây trồng rừng phù hợp bao gồm mỡ, keo tai tượng, bồ đề, luồng, trúc, tre, diễn, vầu, hồi, trám, lát hoa, nhãn, vải thiều, quế, hồng, quýt và chè Trong khu vực đất chưa sử dụng, tiềm năng phát triển nông lâm nghiệp rất lớn.
Khoảng 20-25% diện tích là đất trống và đồi núi trọc có khả năng trồng rừng Trong những năm qua, đất chưa sử dụng đã được khai thác đáng kể, với mức tăng trung bình khoảng 11% mỗi năm Trong khi đó, diện tích đất nông nghiệp cũng tăng trung bình 4,4% mỗi năm.
Ngành nông - lâm nghiệp tại huyện đang tăng trưởng 7,2% mỗi năm, nhờ vào khí hậu thuận lợi cho nhiều loại cây trồng và vật nuôi Đất đai màu mỡ cũng tạo điều kiện lý tưởng cho việc phát triển nông sản hàng hóa và xây dựng các vùng chuyên canh.
Tổng diện tích đất rừng của huyện Chợ Mới năm 2005 đạt 46.678,6ha, chiếm 77% diện tích tự nhiên, với 31.971,2ha là rừng tự nhiên và 14.700ha là rừng trồng, tương đương 24% diện tích lâm nghiệp Độ che phủ rừng đạt 60%, và Chợ Mới là huyện có diện tích rừng trồng lớn nhất tỉnh, chiếm 25% Các loại cây trồng chủ yếu bao gồm mỡ, thông, keo, bồ đề, hồi, trúc, quế, bạch đàn và sa mộc Huyện đã triển khai nhiều chương trình và dự án nhằm phát triển quỹ rừng, nhờ sự hỗ trợ từ Trung ương, tỉnh và các tổ chức quốc tế, như Dự án 147, chương trình 135, và Dự án Hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam - Hà Lan Điều này đã giúp nâng cao độ che phủ rừng đáng kể, đồng thời tạo điều kiện cho phát triển nông lâm nghiệp trong quy hoạch Khu Công nghiệp Thanh Bình.
Tài nguyên khoáng sản của chúng ta rất phong phú và đa dạng, bao gồm nhiều loại kim loại màu, kim loại đen và vật liệu xây dựng Sự giàu có này không chỉ là một lợi thế lớn cho sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn đóng góp quan trọng vào ngành công nghiệp khai khoáng.
Phần 3 ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượ ng và ph ạ m vi nghiên c ứ u
Đối tượ ng nghiên c ứ u c ủa đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là sự biến động về cấu tạo và tính chất vật lý theo vị trí cây trúc sào tuổi 3.
Ph ạ m vi nghiên c ứ u
- Đề tài sử dụng vật liệu là cây Trúc sào tuổi 3 trồng tại huyện Chợ Mới, tỉnh Bắc Kạn
- Đề tài tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến cấu tạo và tính chất vật lí cây trúc sào tuổi 3
- Đề tài sử dụng các thiết bị tại khoa lâm nghiệp trường đại học nông lâm Thái Nguyên.
Th ời gian và địa điể m nghiên c ứ u
- Thời gian : từ ngày 15/1/2019 đến ngày 29/05/2019
- Địa điểm lấy mẫu: huyện Chợ Mới,tỉnh Bắc Kạn
- Địa điểm và thiết bị nghiên cứu: tại khoa lâm nghiệp trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên.
N ộ i dung nghiên c ứ u
- Nghiên cứu ảnh hưởng của vịtrí trên cây đến mật độ bó mạchcây trúc sào tuổi 3
- Nghiên cứu ảnh hưởng của vịtrí trên cây đến kích thước bó mạch của cây trúc sào tuổi 3
Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến chiều dài sợi của cây trúc sào tuổi 3
- Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến độ ẩm của cây trúc sào tuổi 3
- Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến độ co rút của cây trúc sào tuổi 3
- Nghiên cứu ảnh hưởng của vi trí trên cây đến khối lượng riêng của cây trúc sào tuổi 3
Phương pháp nghiên cứ u
P hương pháp chọn cây lấy mẫu
Tại nơi lấy mẫu, lấy 3 cây trúc sào tuổi 3 tại 3 vị trí khác nhau, không chọn những cây có khuyết tật.
Sau khi chặt hạ, cây trúc sào được đưa vào phòng thí nghiệm để xác định độ ẩm, đồng thời thực hiện các biện pháp bảo quản nhằm ngăn ngừa mối mọt, mục nát và mốc.
Quá trình thực hiện thí nghiệm cây trúc sào 3 tuổi ở các vị trí khác nhau trên thân cây được tiến hành theo sơ đồ trong hình 3.1, bao gồm việc xác định vị trí gốc, thân và ngọn.
Hình 3.1.Phân loại vịtrí xác định các phần của cây trúc sào
Bắt đầu tính từ lóng thứ 2 từ dưới lên đến lóng thứ 31 được chia làm 3 phần đại diện cho phần gốc (dưới), phần thân (giữa), phần ngọn (trên), mỗi
Xác đị nh thành ph ầ n hóa h ọ c
Xác đị nh tính chất vật lý và cơ họ c
Bài viết này trình bày quy trình nghiên cứu 23 phần trúc sào, mỗi phần gồm 10 lóng, trong đó lựa chọn 3 lóng để xác định tính chất vật lý và cấu tạo Đặc biệt, độ ẩm của trúc sào sẽ được kiểm tra ngay sau khi mẫu được đưa về phòng thí nghiệm.
Quy định cơ bản phương pháp thử nghi ệ m
3.2.1.1 Ki ể m tra và yêu c ầ u ch ế t ạ o m ẫ u th ử theo tiêu chu ẩ n GB/T 15780-1995 [20]
Mẫu thử nghiệm phải không có khuyết tật và đảm bảo các mặt đường kính vuông vức, song song với nhau Hai mặt cong cần giữ nguyên trạng phần cật tre và ruột tre Mặt đường kính và mặt đầu phải vuông góc Mỗi mẫu thử cần được đánh số hiệu rõ ràng Độ chính xác của mẫu thử yêu cầu sai số chiều dài cho phép là ±1.0 mm và chiều rộng là ±0.5 mm, với độ lệch tương đối chiều rộng không vượt quá 0.2 mm trên toàn bộ chiều dài mẫu thử.
3.4.2.2 Điề u ch ỉ nh t ỷ l ệ hàm lượng nướ c m ẫ u th ử
Mẫu thử thử hong khô bằng không khí để làm mẫu thử Mẫu được đểở nhiệt độ phòng trong 20 ngày
3.4.2.3 Điề u ki ệ n phòng th ự c nghi ệ m Để ở nhiệt độphòng Khi hong phơi mẫu tránh ánh nắng trực tiếp chiếu vào mẫu
3.4.2.4 Hi ệ u ch ỉ nh thi ế t b ị th ử nghi ệ m
Máy thử nghiệm, cùng với các thiết bị đo lường chính xác và dụng cụ trắc thử, cần tuân thủ quy trình kiểm định định kỳ của bộ phận đo lường quốc gia.
Thi ế t b ị th ử nghi ệ m
- Kẹp đo panme kích thước, chính xác đến 0.02 mm
- Lò sấy, có thể duy trì nhiệt độ 100 5 0 C
- Bình thủy tinh không hút ẩm, bình cân
- Kính hiển vi điện tử
Hình 3.2 Cân điện tử Hình 3.3 Thước kẹp panme
Hình 3.4 Lò sấy Hình 3.5 kính hiển vi điện tử
Phương pháp thử nghiệm vật liệu truc sào
Quy định chế tạo mẫu thử theo tiêu chuẩn GB/T 15780-1995[20]
So sánh khối lượng mẫu thử khô hoàn toàn với mẫu thử chứa hàm lượng nước, theo tỷ lệ phần trăm
Mẫu thử bao gồm 45 mẫu được cắt với kích thước 10 mm x 10 mm x t mm (độ dày thành lóng) Trong đó, tại mỗi vị trí gốc, thân và ngọn, có 15 mẫu được đánh số từ 16 đến 30.
Hình 3.6 Mẫu xác định độ ẩm
- Bước 1: Sau khi chọn mẫu thử lập tức tiến hành cân, chính xác đến 0.01g Ghi kết quả vào bảng ghi chép xác định độẩm
Để xác định độ ẩm của mẫu thử, đưa mẫu vào lò sấy ở nhiệt độ 100 ± 5 °C và sấy trong 4 giờ Sau đó, lấy 1-2 mẫu thử để cân, tiếp tục cân mỗi 2 giờ cho đến khi sự chênh lệch giữa hai lần cân cuối cùng không vượt quá 0.001g, lúc này có thể coi mẫu đã đạt độ khô hoàn toàn.
Để tiến hành bước 3, lấy mẫu thử từ lò sấy ra và cho vào bình cân Tiếp theo, đặt mẫu vào bình thủy tinh chứa chất hút ẩm và đậy kín nắp bình Sau khi mẫu nguội đến nhiệt độ phòng, tiến hành cân mẫu trong bình cân với độ chính xác 0.01g.
* Tính toán kết quả Độ ẩm của mẫu thử căn cứ công thức để tính toán, chính xác đến 0.1%
Trong đó: w - Hàm lượng nước mẫu thử (%); m 1 - Khối lượng mẫu thử lúc thử nghiệm (g); m 0 - Khối lượng mẫu thử lúc khô hoàn toàn (g)
3.4.4.2 Xác định độ co rút
Vật liệu trúc sào sẽ co lại về kích thước và thể tích khi hàm lượng nước giảm xuống dưới điểm bão hòa sợi Sự thay đổi về thể tích và kích thước của vật liệu tre từ trạng thái ướt đến khi khô hoàn toàn cho thấy tính co rút thể tích và co rút sợi của nó Việc so sánh này giúp hiểu rõ hơn về đặc tính của vật liệu tre trong quá trình làm khô.
Mẫu thử bao gồm 45 mẫu có kích thước 10 mm x 10 mm x t mm (độ dày thành lóng), với 15 mẫu được cắt từ mỗi vị trí gốc, thân và ngọn, đánh số từ 1 đến 15 Mật độ sử dụng mẫu thử không được xác định chung.
- Kiểm tra và yêu cầu chế tạo mẫu thửcăn cứvào quy định điều 3.4.2.1
Hình 3.7 Mẫu thửxác định độ co rút
* Xác định co rút các chiều
Để xác định tính co rút của mẫu thử, bước đầu tiên là vạch một đường thẳng vuông góc với mặt cật và mặt ruột tre tại chính giữa chiều dài của mặt đường kính Sau đó, sử dụng thước kẹp panme để đo kích thước theo các hướng đường kính và tiếp tuyến, ghi chép kết quả vào phụ lục với độ chính xác đạt 0.02 mm.
Sau khi mẫu thử được đặt trong môi trường quy định, cần làm khô bằng không khí trong 10 ngày Sau đó, tiến hành đo kích thước hướng tiếp tuyến của 2 đến 3 mẫu thử Cứ cách 2 ngày, đo thử một lần cho đến khi sai số giữa hai lần đo không vượt quá 0.02mm, lúc này có thể xác nhận mẫu đã khô Tiếp theo, xác định kích thước mẫu theo đường kính và tiếp tuyến, đồng thời cân khối lượng mẫu thử với độ chính xác 0.01g.
Bước 3: Đưa mẫu thử vào trong lò sấy, dựa vào các quy định ở bước
2- bước 3 của phần xác định độ ẩm mẫu tiến hành sấy khô đồng thời cân xác định khối lượng khô hoàn toàn của mẫu thử Căn cứ vào bước 1 phân biệt xác định kích thước hướng đường kính và hướng tiếp tuyến
Bước 4: Trong quá trình xác định, nếu mẫu thử phát sinh nứt nẻ hoặc hình dạng hơi thay đổi cần vứt bỏ
Mẫu thử được kiểm tra từ trạng thái ướt cho đến khi khô hoàn toàn, với độ co rút khô chính xác đến 0.1% theo hướng đường kính hoặc hướng tiếp tuyến, dựa trên công thức tính toán.
Trong đó: -B max –Độ co rút khô hoàn toàn của mẫu thử theo hướng đường kính hoặc tiếp tuyến, %;
- L max - Giá trị bình quân kích thước mẫu thử ướt theo hướng đường kính hoặc tiếp tuyến tại vị trí cật trúc sào, ruột trúc sào, mm;
- L 0 - Giá trị bình quân kích thước mẫu thử khô hoàn toàn theo hướng đường kính hoặc tiếp tuyến tại ví trí cật trúc sào, ruột trúc sào, mm
Mẫu thử được theo dõi từ trạng thái ướt đến khi khô bằng không khí, với độ co rút khô được xác định theo các hướng đường kính hoặc tiếp tuyến Việc tính toán độ co rút này được thực hiện chính xác đến 0.1%.
Trong đó: B w – Độ co rút khô của mẫu thử theo hướng đường kính hoặc tiếp tuyến, %;
L w - Giá trị bình quân kích thước mẫu thử khô theo hướng đường kính hoặc tiếp tuyến tại vị trí cật trtrúc sào, ruột trúc sào, mm
- Căn cứ vào khối lượng mẫu thử lúc khô và khô hoàn toàn, theo công
29 thức tính toán độ ẩm mẫu, tính toàn tỷ lệ hàm lượng nước mẫu thử khô, để thuyết minh phạm vi biến đổi của nó
3.4.4 3 Xác đị nh kh ối lượ ng riêng
So sánh khối lượng với thể tích mẫu thử, tìm ra khối lượng riêng của vật liệu trúc sào
- Xác định khối lượng riêng và độẩm dùng chung mẫu thử
- Yêu cầu và kiểm tra chế tạo mẫu thử, điều chỉnh độ ẩm của mẫu thử, phân biệt dựa vào quy định mục 3.4.2.1 và 3.4.2.2
* Xác định khối lượng riêng cơ bản
Sấy khô mẫu thử Cân xác định khối lượng riêng cơ bản của mẫu thử, chính xác đến 0.01g
Dùng thước kẹp panme xác định kích thước mẫu khô hoàn toàn theo các chiều đường kính, tiếp tuyến, chiều dọc, chính xác đến 0.02mm
Khối lượng riêng của mẫu thử khô hoàn toàn, dựa vào công thức tính toán, chính xác đến 0.01 g/cm 3
Trong đó: 0 – Khối lượng riêng của mẫu thử khô hoàn toàn, g/cm 3 ; m 0 - Khối lượng của mẫu thử khô hoàn toàn, g
V 0 - Thể tích của mẫu thửban đầu, cm 3
* Xác định khối lượng riêng khô
Dùng thanh thử có tỷ lệđộ ẩm mẫu bão hòa để tạo mẫu thử
Dùng thước kẹp panme xác định kích thước mẫu thử theo các chiều
30 đường kính, tiếp tuyến, chiều dọc, trong quá trình xác định, mẫu thử cần được duy trì trạng thái độẩm
Sấy khô mẫu thử, cân xác định khối lượng mẫu thử khô hoàn toàn, chính xác đến 0.001g
Khối lượng riêng khô của mẫu thử căn cứ vào công thức tính toán, chính xác đến 0.001 g/cm 3 max
Trong đó: y – Khối lượng riêng khô của mẫu thử, g/cm 3 ;
V max - Thể tích của mẫu thử có tỷ lệ độẩm bão hòa, cm 3
3.4.4.4 Xác đị nh chi ề u dài s ợ i
Kích thước mẫu : 3x1 cm(chiều dọc thớ x tiếp tuyến)
Hình 3.8 Mẫu thí nghiệm đo chiều dài sợi
Mỗi vị trí cắt mẫu (gốc, thân, ngọn) được chia thành ba phần: trong, giữa và ngoài theo chiều xuyên tâm Tiếp theo, các phần này được chia nhỏ theo chiều dọc với kích thước gần bằng que diêm.
* Quy trình tách, lọc sợi
- Bước 1:Bình (1) Lấy nước lọc 40 ml cho mẫu vào, đun mẫu cho sôi khỏang 10 phút (khi nào mẫu chìm) Đổnước đi để nguội
- Bước 2: Lấy nước lọc và axit HNO3 tỉ lệ 1:2 (6 phần axit, 12 phần nước) Đổ nước và axit vào bình (2) sau đó lắc đều rồi đổ vào bình
Cho khoảng 3-5g KCl vào bình và lắc đều Đun nóng đến khi xuất hiện bọt, sau đó tiếp tục đun khoảng 10 phút từ lúc sủi bọt cho đến khi sợi tự tách Khuấy cho tan hoàn toàn, sau đó thêm nước để pha loãng.
Hình 3.10 Thí nghiệm tách sợi
- Bước 4: Đổ mẫu đã tách (bình 1) vào phễu lọc, đổ dần Cuối cùng đổ
1 ít nước lọc vào bình lắc đều và đổ vào phễu lọc
Hình 3.11 Đổ mẫu vào phễu lọ
- Bước 5: Nhuộm màu Nước 20ml ứng với 1 thìa màu Khuấy đều sau đó thấm lên mẫu
Sau đó quan sát và chọn 50 sợi mỗi mẫu rồi chụp sợi trên kính hiển vi điện tử và đo kích thước
Hình 3.13.Chụp và đo sợi Trúc sào Hình 3.14 Sợi Trúc sào tuổi 3
3.4.4.5 Xác đị nh m ật độ và kích thướ c bó m ạ ch
Cắt một mẫu có kích thước 5mm x 1mm x t mm (chiều dày thành lóng) từ các vị trí khác nhau (gốc, thân, ngọn), sau đó sử dụng dao dọc giấy để bào nhẵn đầu mẫu đã cắt Tiến hành quan sát mẫu dưới kính hiển vi và kẻ diện tích mẫu như thể hiện trong hình 3.15, 3.16, 3.17.
- Xác định mật độ bó mạch Đếm số bó mạch trong phần diện tích đã kẻ
Mật độ bó mạch/mm 2 = số bó mạch
- Xác định kích thước bó mạch
Trong quá trình nghiên cứu diện tích đã kẻ, chúng tôi tiến hành đo kích thước bó mạch bằng phần mềm kính hiển vi điện tử Việc đo đạc được thực hiện theo hai chiều: xuyên tâm và tiếp tuyến Chúng tôi phân chia diện tích thành ba phần và tiến hành đo đếm kích thước bên ngoài, bên trong và giữa của bó mạch.
Hình 3.15 Bó mạch gốc Hình 3.16 Bó mạch thân
Phương pháp xử lý s ố li ệ u
Nghiên cứu đã sử dụng phần mềm SPSS để xử lý số liệu thống kê, nhằm phân tích phương sai đơn nhân tố giữa các vị trí trên cây và cấu trúc cũng như tính chất của trúc sào ở tuổi 3.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Nghiên c ứ u ảnh hưở ng c ủ a v ị trí trên cây đế n m ật độ c ủ a bó m ạ ch c ủ a cây trúc sào tu ổ i 3
Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến mật độ bó mạch của cây Trúc sào tuổi 3 được thực hiện thông qua việc lấy mẫu, cắt mẫu và quan sát dưới kính hiển vi điện tử theo hai chiều xuyên tâm và tiếp tuyến Qua quá trình quan sát, đo đếm và tính toán các giá trị trung bình, chúng tôi đã thu được kết quả thể hiện trong bảng 4.1.
Bảng 4.1 Mật độ của bó mạch theo vị trí của cây Trúc sào tuổi 3 STT Vị trí Mật độ bó mạch, bó/𝒎𝒎 𝟐
Hình 4.1 Biểu đồ mật độ bó mạch theo vị trí của cây Trúc sào tuổi 3
Kết quả bảng số liệu 4.1 và hình 4.1, ta thấy:
Mật độ bó mạch của cây Trúc sào ở tuổi 3 tăng dần từ gốc đến ngọn, dao động trong khoảng 6,95 – 11,85 bó/mm² Sự biến động này xảy ra do chiều dày thành lóng cây giảm dần từ gốc lên ngọn, khiến các bó mạch ở ngọn có xu hướng xít lại gần nhau Kết quả này cho phép dự đoán độ co rút của cây.
36 khối lượng riêng của cây Trúc sào tuổi 3 sẽ tăng dần từ gốc đến ngọn (tăng theo chiều cao)
Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu mật độ bó mạch/mm² và mật độ bó mạch ở ba phần: ngoài, giữa và trong của cây Trúc sào tuổi 3 Diện tích đo được chia thành ba phần bằng nhau để thực hiện việc đo đếm và tính toán.
Bảng 4.2 Mật độ bó mạch theo vị trí ngoài, giữa, trong của gốc, thân, ngọn cây Trúc sào tuổi 3
Vị trí Mật độ bó mạch, mm 2
Hình 4.2 Biểu đồ mật độ bó mạch theo vị trí ngoài, giữa, trong của gốc, thân, ngọn cây Trúc sào tuổi 3
Từ bảng 4.2 và hình 4.2, có thể nhận thấy rằng ở gốc và thân của cây Trúc sào 3 tuổi, mật độ bó mạch giảm dần từ bề ngoài vào bên trong Điều này chỉ ra rằng độ cứng và kích thước của bó mạch ở hai vị trí này tăng lên theo chiều sâu.
Cây trúc sào tuổi 3 có đặc điểm nổi bật với 37 trí gốc và thân, trong đó vị trí ngọn có mật độ bó mạch cao nhất ở phần giữa và thấp nhất ở phía trong Mật độ bó mạch biến động trong khoảng từ 7,11 đến 17,06 bó/mm².
4.2 Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến kích thước của bó mạch của cây trúc sào tuổi 3
Chúng tôi đã nghiên cứu mật độ bó mạch của cây Trúc sào tuổi 3 bằng cách quan sát, đo kích thước và đếm bó mạch ở ba vị trí: gốc, thân và ngọn Cụ thể, chúng tôi đã đo kích thước 36 bó gốc, 29 bó thân và 25 bó ngọn Kết quả thu được sẽ được trình bày trong phần tiếp theo.
Bảng 4.3 Kích thước bó mạch trung bình theo vị trí của cây trúc sào tuổi 3
STT V ị trí Kích thướ c bó m ạ ch trung bình,mm
Hình 4.3 Biểu đồkích thước bó mạch trung bình theo vị trí của cây trúc sào tuổi 3
Kết quả từ bảng 4.3 và hình 4.3 cho thấy kích thước bó mạch của cây Trúc sào ở tuổi 3 có sự khác biệt rõ rệt Cụ thể, kích thước bó mạch theo chiều xuyên tâm tại vị trí thân cao nhất và thấp nhất ở ngọn có sự biến đổi, trong khi kích thước bó mạch theo chiều tiếp tuyến tăng dần từ gốc lên ngọn.
Gốc Thân Ngọn mm vị trí Chiều rộng bó mạch theo xuyên tâm vị trí Chiều rộng bó mạch theo tiếp tuyến
Phân tích phương sai đơn nhân tố ANOVA cho thấy kích thước bó mạch ở chiều xuyên tâm và chiều tiếp tuyến của cây Trúc sào tuổi 3 có giá trị Sig nhỏ hơn 5%, cho thấy vị trí trên cây ảnh hưởng đến chiều rộng bó mạch Kết quả cho thấy kích thước bó mạch theo chiều xuyên tâm lớn hơn chiều tiếp tuyến ở cả ba vị trí: gốc, thân và ngọn.
Trong quá trình quan sát và đo đếm, chúng tôi nhận thấy số lượng bó mạch khác nhau ở ba vị trí: gốc, thân và ngọn Để phân tích, chúng tôi chia mỗi vị trí thành ba phần: ngoài, giữa và trong, và kết quả được thể hiện trong bảng 4.4.
Bảng 4.4 Kích thước bó mạch trung bình theo vị trí ngoài, giữa, trong của gốc, thân, ngọn cây Trúc sào tuổi 3
Kích thướ c bó m ạ ch, mm
Hình 4.4 Biểu đồkích thước bó mạch trung bình theo vị trí ngoài, giữa, trong của gốc, thân, ngọn cây trúc sào tuổi 3
Xuyên tâm ngoàiTiếp tuyến ngoàiXuyên tâm giữaTiếp tuyến giữaXuyên tâm trongTiếp tuyến trong
Từ kết quả bảng 4.4 và hình 4.4, chúng ta có thể thấy:
Cây Trúc sào tuổi 3 có kích thước bó mạch biến động theo chiều xuyên tâm từ 0,12 – 0,37 mm và chiều tiếp tuyến từ 0,09 – 0,43 mm Kích thước bó mạch ở phía ngoài và giữa theo chiều xuyên tâm lớn hơn chiều tiếp tuyến, trong khi phía trong lại ngược lại Tại vị trí thân, kích thước bó mạch theo chiều tiếp tuyến tăng từ ngoài vào trong, dao động từ 0,20 – 0,38 mm, trong khi kích thước theo chiều xuyên tâm dao động từ 0,11 – 0,42 mm, cao nhất ở phần giữa và thấp nhất ở phần trong.
Ngọn của cây trúc sào tuổi 3 cho thấy kích thước bó mạch theo chiều xuyên tâm giảm dần từ ngoài vào trong, dao động từ 0,16 đến 0,35 mm Ngược lại, kích thước bó mạch theo chiều tiếp tuyến lại tăng dần từ ngoài vào trong, với biến động từ 0,17 đến 0,47 mm, và kích thước ở phía trong lớn hơn nhiều so với phía ngoài và giữa.
Nghiên cứu ảnh hưởng của vị trí trên cây đến chiều dài sợi của cây trúc sào tuổi 3 được thực hiện thông qua việc lấy mẫu, cắt mẫu quan sát và tách sợi, sau đó quan sát và chụp sợi bằng kính hiển vi điện tử Kết quả từ thí nghiệm cho thấy sự khác biệt đáng kể về chiều dài sợi, được thể hiện qua các giá trị trung bình trong bảng 4.5.
Bảng 4.5 Chiều dài sợi trung bình theo vị trí của cây trúc sào tuổi 3
Vị trí Chiều dài sợi,mm
Hình 4.5 chiều dài sợi trung bình của cây Trúc sào tuổi 3
Từ kết quả bảng 4.5 và hình 4.5, có thể thấy:
Chiều dài của cây Trúc sào ở tuổi 3 tăng dần từ 1,4 mm ở gốc lên 1,61 mm ở ngọn Để nghiên cứu sâu hơn về sợi gỗ, chúng tôi đã chia mẫu thành 3 phần: ngoài, giữa và trong, tại mỗi vị trí gốc, thân và ngọn trong quá trình thí nghiệm Kết quả thu được đã được ghi nhận và thể hiện trong bảng 4.11.
Bảng 4.6 Chiều dài sợi trung bình theo vị trí giữa trong ngoài ở gốc, thân, ngọn của cây trúc sào tuổi 3
Stt Chiều dài sợi (mm)
Hình 4.6 Biểu đồ Chiều dài sợi trung bình theo vị trí giữa trong ngoài ở gốc, thân, ngọn của cây trúc sào tuổi 3
Kết quả từ bảng 4.6 và hình 4.6 cho thấy rằng ở vị trí gốc, sợi trúc dài nhất đạt 1,45 mm, trong khi sợi ngắn nhất ở cật chỉ có 1,34 mm Tại vị trí thân, chiều dài sợi trúc giảm dần từ ngoài vào trong, và ở vị trí ngọn, sợi trúc dài nhất nằm ở phía ngoài, trong khi sợi ngắn nhất lại nằm ở phần giữa.
Phân tích phương sai đơn nhân tố ANOVA cho thấy chiều dài sợi phía ngoài và giữa của cây Trúc sào tuổi 3 có giá trị Sig nhỏ hơn 5%, cho thấy sự khác biệt rõ rệt về chiều dài sợi giữa các vị trí trên cây Kết quả này khẳng định rằng vị trí trên cây ảnh hưởng đến chiều dài sợi phía ngoài và giữa Ngược lại, chiều dài sợi phía bên trong có giá trị Sig lớn hơn 5%, điều này chứng tỏ rằng vị trí trên cây không ảnh hưởng đến chiều dài sợi phía bên trong của cây Trúc sào tuổi 3.