Tính cấp thiết của đề tài
Phú Xuyên, huyện phía nam thành phố Hà Nội, có bề dày văn hóa và tín ngưỡng với sự hiện diện của hai tôn giáo lớn là Công giáo và Đạo Phật Giáo hạt Phú Xuyên thuộc giáo phận Hà Nội, với khoảng 30.000 giáo dân, đang nỗ lực xây dựng các điểm văn hóa mới Tuy nhiên, vào những năm 2005-2008, giáo dân đã tham gia vào các cuộc biểu tình đòi đất, gây căng thẳng cho an ninh Thủ đô Nhờ chính sách linh hoạt của Nhà nước, vấn đề đất đai đã được giải quyết, cải thiện tình hình Công giáo Đạo Phật cũng phát triển lâu đời tại đây, với các Phật tử thường xuyên lên chùa nghe giảng, sống hướng thiện và ít xảy ra xung đột với chính quyền hay giữa hai tôn giáo.
Trong thời gian gần đây, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản quan trọng trong lĩnh vực tôn giáo, bao gồm Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo 2004 và Luật tín ngưỡng tôn giáo 2016, cùng với các nghị định như Nghị định 22/2005, Nghị định 92/2012 và Nghị định 62/2017, nhằm quản lý và hướng dẫn các tôn giáo phát triển tích cực Sự phát triển của công nghệ internet và công nghệ 4.0 cũng đã tác động đến đời sống tôn giáo và tín ngưỡng của người dân Vì vậy, chúng tôi đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội” cho luận văn cao học của mình.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu tôn giáo, tín ngưỡng thuần túy Các công trình tiêu biểu như:
GS Vũ Ngọc Khánh, tác giả cuốn sách “Tôn giáo, tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (tái bản có sửa chữa, bổ sung, 2001), đã nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng Tam phủ - Tứ phủ Tuy nhiên, ông không đi sâu vào từng loại hình tôn giáo, tín ngưỡng mà chỉ đưa ra cái nhìn khái quát về các loại hình tôn giáo và tín ngưỡng dân gian tại Việt Nam.
Bùi Đức Luận (2003) đã chỉ ra những bước tiến quan trọng trong việc thể chế hóa các chủ trương và chính sách liên quan đến tôn giáo, tín ngưỡng tại Việt Nam trong thời gian gần đây Những thay đổi này phản ánh sự quan tâm của chính phủ đối với vấn đề tôn giáo và tín ngưỡng, nhằm đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng cho người dân.
Mai Thanh Hải (2005) là tác giả cuốn sách “Tìm hiểu tín ngưỡng truyền thống
Việt Nam ” Tác giả đưa ra quan điểm thờ Mẫu ở Việt Nam có cội nguồn bản địa và thờ
Mẫu bắt nguồn từ triết lý nhân sinh.
Lê Thị Vân Anh (2015) đã thực hiện một nghiên cứu khoa học cấp trường về quản lý nhà nước đối với tín ngưỡng tại thành phố Hà Nội trong giai đoạn hiện nay Nghiên cứu này cung cấp các luận cứ khoa học liên quan đến quản lý tôn giáo và tín ngưỡng, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả chính sách và pháp luật của nhà nước về lĩnh vực này trên địa bàn Hà Nội.
Lê Thị Vân Anh (2016) Sách chuyên khảo: “Tín ngưỡng, tôn giáo ở Vĩnh
Trong cuốn sách "Phúc" của Nxb Tôn giáo, tác giả đã hệ thống hóa quá trình hình thành, phát triển và thực trạng tín ngưỡng, tôn giáo tại Vĩnh Phúc Tác phẩm đi sâu vào các đặc điểm, vấn đề và đưa ra khuyến nghị cho các cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo và chính quyền địa phương trong công tác quản lý tôn giáo Mặc dù các nghiên cứu đã làm rõ khái niệm, nguồn gốc và các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo, nhưng vẫn chưa đề cập đến việc thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo một cách cụ thể.
Các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước về tôn giáo, tín ngưỡng:
So với các nghiên cứu về tôn giáo và tín ngưỡng, các công trình nghiên cứu quản lý nhà nước trong lĩnh vực này vẫn còn hạn chế Một số công trình tiêu biểu đã được thực hiện, nhưng số lượng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu nghiên cứu sâu sắc về quản lý nhà nước đối với tôn giáo và tín ngưỡng.
GS.TS Đỗ Quang Hưng đã xuất bản công trình nghiên cứu "Vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, lý luận - thực tiễn" vào năm 2008 Tác phẩm này tổng hợp và phân tích quan điểm, chủ trương, và chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề tôn giáo trong suốt lịch sử cách mạng Việt Nam, đồng thời phản ánh quá trình hoàn thiện chính sách tôn giáo tại quốc gia Cuốn sách là tài liệu tham khảo quý giá cho các nhà nghiên cứu và quản lý trong lĩnh vực tôn giáo hiện nay.
GS Đỗ Quang Hưng (2014) trong tác phẩm "Chính sách tôn giáo và Nhà nước pháp quyền" của mình, đã nghiên cứu sâu sắc mối quan hệ giữa Nhà nước và Giáo hội, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của nhà nước pháp quyền trong lĩnh vực tôn giáo Công trình này cung cấp cái nhìn toàn diện về luật pháp tôn giáo tại Việt Nam, từ các khía cạnh pháp lý đến quyền lợi của các tổ chức và cá nhân tôn giáo Những phân tích này tạo nền tảng cho việc xác định hai nhóm giải pháp lớn về lý luận chính sách tôn giáo và các chính sách cụ thể, bao gồm việc hoàn thiện mô hình nhà nước thế tục và điều chỉnh phương thức quản lý Nhà nước đối với tôn giáo.
PGS, TS Nguyễn Thanh Xuân (2015) " l'õn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt
Cuốn sách "Nam" cung cấp cái nhìn tổng quan về tín ngưỡng và tôn giáo tại Việt Nam, đồng thời phân tích các chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ.
Các nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau về phương pháp luận và lý luận trong quản lý nhà nước đối với công tác tôn giáo Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các cơ sở khoa học vững chắc để thực hiện Chính sách tín ngưỡng và tôn giáo.
Tại huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội, vấn đề thực hiện chính sách tín ngưỡng và tôn giáo vẫn chưa được nghiên cứu cụ thể do nhiều lý do khác nhau Luận văn của tôi nhằm làm rõ hơn về việc thực hiện chính sách này trong khu vực, góp phần nâng cao hiểu biết về tín ngưỡng và tôn giáo tại địa phương.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của luận văn này là áp dụng các quan điểm của Đảng và Nhà nước về thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo Luận văn cũng dựa trên thực tiễn thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo tại Phú Xuyên trong thời gian qua.
Phương pháp cụ thể : Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh;
3 phương pháp tra cứu tài liệu, phương pháp điều tra xã hội học, phương pháp phỏng vấn chuyên gia
Đóng góp của luận văn
Bài luận văn này phân tích thực trạng các loại hình tôn giáo và việc thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo tại huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội Nghiên cứu nhằm làm rõ những khía cạnh nổi bật của tôn giáo trong khu vực, đồng thời đánh giá hiệu quả của chính sách quản lý tín ngưỡng, tôn giáo đối với đời sống cộng đồng.
Kết quả nghiên cứu từ luận văn này có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo quan trọng cho việc thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của nhà nước Nó cũng hỗ trợ trong giảng dạy, học tập và nghiên cứu liên quan đến chính sách tín ngưỡng, tôn giáo tại địa phương.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, nội dung chính của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực hiện Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo Ở Việt Nam
Chương 2: Thực trạng thực hiện Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội hiện nay
Chương 3 trình bày quan điểm của Đảng về chính sách tín ngưỡng, tôn giáo, cùng với các giải pháp thực hiện chính sách này tại huyện Phú Xuyên, thành phố Hà Nội Nội dung này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, đồng thời đề xuất các biện pháp cụ thể nhằm tăng cường sự quản lý nhà nước về lĩnh vực này Qua đó, huyện Phú Xuyên sẽ phát huy những giá trị văn hóa, giữ gìn sự đoàn kết và phát triển bền vững trong cộng đồng.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM
Khái niệm Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay chính là quá trình quản lý nhà nước Việt Nam đối với tín ngưỡng, tôn giáo.
Việt Nam là một quốc gia với sự đa dạng về tôn giáo và dân tộc, dẫn đến nhiều hình thức tín ngưỡng phong phú Điều này yêu cầu các nhà quản lý cần có cái nhìn đa chiều và áp dụng cách tiếp cận linh hoạt, đồng thời kiên quyết trong việc quản lý.
Trong khoa học quản lý, có 3 điều cần lưu ý:
- Chủ thể quản lý (hay Người làm công tác quản lý)
- Đối tượng bị quản lý
- Công cụ quản lý Đối với lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo chúng ta thấy:
Chủ thể quản lý tín ngưỡng và tôn giáo tại Việt Nam bao gồm các cơ quan chức năng của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với các cơ quan chủ chốt như Ban Tôn giáo Chính phủ, Ban tôn giáo của các tỉnh, thành phố, và Ban tôn giáo của các huyện, xã Ngoài ra, các bộ ngành liên quan như Bộ Công an cũng đóng vai trò quan trọng trong công tác quản lý này.
An, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc Phòng, Bộ Văn hóa, Mặt trận tổ quốc Việt Nam
- Đối tượng bị quản lý đó là: tín ngưỡng, tôn giáo.
Các văn bản pháp quy quản lý tín ngưỡng và tôn giáo tại Việt Nam bao gồm Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo (2004) và Luật tín ngưỡng, tôn giáo (2016), cùng với các Bộ luật như Luật Dân sự, Luật Hình sự và Luật Xây dựng Để làm rõ các quy định này, Nhà nước và Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn như Nghị định 22/2005/NĐ-CP, Nghị định 92/2012/NĐ-CP, Nghị định 162/2017/NĐ-CP, Chỉ thị 01/2005/CT-CP về Đạo Tin Lành, và Nghị định 1940/2008/NĐ-CP liên quan đến đất đai của các tôn giáo.
(Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016)
1.1.1 Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng.
Và như vậy lại gắn thêm một khái niệm nữa
Lễ hội tín ngưỡng là hoạt động tín ngưỡng tập thể được tổ chức theo lễ nghi truyền thống nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của cộng đồng.
Cũng theo các văn bản Pháp lệnh và Luật tín ngưỡng, tôn giáo thì khái niệm tôn giáo được hiểu như sau:
1.1.2 Tôn giáo là niềm tin của con người tồn tại với hệ thống quan niệm và hoạt động bao gồm đối tượng tôn thờ, giáo lý, giáo luật, lễ nghi và tổ chức.
Khi phân tích các từ ngữ trong Pháp lệnh và Luật tín ngưỡng, tôn giáo, chúng ta nhận thấy rằng khi trở thành luật, các đối tượng được quản lý sẽ có khái niệm rõ ràng hơn Phần giải thích bao gồm các khái niệm như tín đồ, nhà tu hành, chức sắc, chức việc, sinh hoạt tôn giáo, hoạt động tôn giáo và tổ chức tôn giáo Do đó, khái niệm tôn giáo cần được hiểu một cách chi tiết, với các tiêu chí cần thiết cho một tôn giáo chính thống.
- Giáo chủ tôn giáo là ai?
- Kinh sách, luật lệ, hiến chương và cách thức hoạt động của tôn giáo này như thế nào?
- Cơ sở thờ tự của tôn giáo này gọi tên như thế nào? Ví dụ Phật giáo gọi là Chùa; Công giáo, Tin Lành gọi là nhà Thờ
- Phải có giáo hội tôn giáo (hay tổ chức tôn giáo)
- Phải có đội ngũ nhà tu hành
- Phải có hệ thống tín đồ
Khái niệm tôn giáo rất đa dạng và phức tạp, đòi hỏi nhiều tiêu chí để đánh giá và xem xét liệu một hệ thống tín ngưỡng có đủ điều kiện để được công nhận là tôn giáo hay không.
1.1.3 Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
Các cơ quan quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc quản lý hoạt động của các giáo hội và các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo Luật tín ngưỡng, tôn giáo được ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động này, đảm bảo sự hòa hợp với văn hóa truyền thống của đất nước Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm hơn 80% dân số, do đó nhiều chính sách được xây dựng dựa trên dân tộc chủ thể này Tuy nhiên, trong lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo, chính sách cần phải đồng hành cùng văn hóa tộc người, và từ những năm 1990, Đảng và Nhà nước đã có cái nhìn khách quan hơn về tín ngưỡng, tôn giáo trong bối cảnh đổi mới.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện để phát triển đất nước, Đảng đã tái nhận thức vấn đề tôn giáo theo quan điểm Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh Điều này được thể hiện qua NQ 24/TW ngày 16/10/1990, nhấn mạnh rằng tôn giáo là một vấn đề tồn tại lâu dài và tín ngưỡng, tôn giáo đáp ứng nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân Đạo đức tôn giáo cũng có nhiều điểm tương đồng với công cuộc xây dựng xã hội mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
Đảng Cộng sản Việt Nam trong văn kiện năm 1991 đã khẳng định tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân Đảng cam kết thực hiện chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, đồng thời kiên quyết chống lại mọi hành động vi phạm tự do tín ngưỡng Ngoài ra, Đảng cũng lên án việc lợi dụng tự do tín ngưỡng để gây tổn hại đến lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Dựa trên những thành tựu và nhược điểm của NQ 24/TW và Cương lĩnh 1991, Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã tổ chức Hội nghị lần thứ VII về công tác tôn giáo (NQ 25/TW ngày 12/3/2003) Nghị quyết này nhấn mạnh sự cần thiết phải thống nhất nhận thức giữa các cấp uỷ, tổ chức Đảng và các ngành về các quan điểm và chính sách liên quan đến công tác tôn giáo.
Tín ngưỡng và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, góp phần vào sự phát triển của xã hội chủ nghĩa Đồng bào các tôn giáo là một phần không thể thiếu trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện sự hòa hợp và đa dạng văn hóa trong cộng đồng.
Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam nhất quán trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng cho mọi công dân, cho phép hoạt động tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật và bình đẳng trước pháp luật Đảng cũng khuyến khích đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm cả những người theo và không theo tôn giáo, đồng thời giữ gìn các giá trị truyền thống tốt đẹp Nghiêm cấm mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên tín ngưỡng và tôn giáo, cũng như việc lợi dụng tôn giáo cho các hoạt động mê tín dị đoan hoặc vi phạm pháp luật Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã diễn ra trong bối cảnh đổi mới, trong đó có việc đổi mới quan điểm và chính sách tôn giáo, nhằm đáp ứng những thách thức và cơ hội mới trong 20 năm qua.
Đồng bào các tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong sự đoàn kết dân tộc Chính sách tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng của công dân, bao gồm quyền theo hoặc không theo tôn giáo, cùng với quyền sinh hoạt tôn giáo hợp pháp, được thực hiện nhất quán.
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đoàn kết giữa các đồng bào theo các tôn giáo khác nhau và những người không theo tôn giáo, nhằm phát huy giá trị văn hóa và đạo đức tốt đẹp Cần động viên và hỗ trợ đồng bào tôn giáo sống "tốt đời, đẹp đạo", đồng thời đảm bảo các tổ chức tôn giáo hợp pháp hoạt động theo pháp luật và được bảo vệ bởi pháp luật Việc thực hiện các chương trình phát triển kinh tế - xã hội cũng như nâng cao đời sống vật chất và văn hóa cho đồng bào các tôn giáo là rất cần thiết Hơn nữa, cần tăng cường công tác đào tạo cán bộ làm công tác tôn giáo và đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín, dị đoan, cũng như các hành vi lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo gây hại đến lợi ích chung của đất nước và vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân.
Nội dung, phương thức tổ chức thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo 8 1 Đảng Cộng sản và Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể thực hiện đối với Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
1.2.1 Nhà nước Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là chủ thể thực hiện đối với
Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
Năm 1986, Việt Nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước Đến năm
Năm 1990, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng chính sách đổi mới đối với tôn giáo thông qua Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 16-10-1990, nhằm tăng cường công tác tôn giáo trong bối cảnh mới Sau 13 năm thực hiện, vào ngày 12-3-2003, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 25-NQ/TW, đánh dấu bước tiến quan trọng trong chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam Nghị quyết 25 đã trở thành nền tảng chính sách cho công tác tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, phản ánh những tư tưởng chủ yếu về việc quản lý và phát triển tôn giáo trong bối cảnh quốc tế và nội địa có nhiều biến động.
Hoạt động tôn giáo trong giai đoạn mới cần tập trung vào việc tăng cường đoàn kết giữa các tôn giáo, góp phần vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc Điều này giúp phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân, từ đó thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc vững chắc.
Tín ngưỡng và tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam, góp phần vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội Các cộng đồng tôn giáo là một phần không thể thiếu trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc Chính sách của Nhà nước luôn nhất quán trong việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, cho phép người dân theo hoặc không theo một tôn giáo.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định quyền sinh hoạt tôn giáo bình thường theo pháp luật, với mọi tôn giáo hoạt động trong khuôn khổ pháp lý và bình đẳng trước pháp luật Chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước Việt Nam không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, nhằm gắn kết đồng bào các tôn giáo và không tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng đất nước Mọi công dân đều có quyền và nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, đồng thời nêu cao tinh thần yêu nước và bảo vệ độc lập, thống nhất của đất nước Chính phủ cam kết thực hiện tốt các chính sách kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, nhằm đảm bảo lợi ích vật chất và tinh thần cho toàn thể nhân dân, bao gồm cả đồng bào các tôn giáo.
Giữ gìn và phát huy giá trị truyền thống thờ cúng tổ tiên, tôn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân là rất quan trọng Cần nghiêm cấm mọi hình thức phân biệt đối xử dựa trên tín ngưỡng, tôn giáo Đồng thời, cần ngăn chặn việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo cho các hoạt động mê tín dị đoan, vi phạm pháp luật, gây chia rẽ trong nhân dân và các dân tộc, cũng như đe dọa an ninh quốc gia.
Công tác tôn giáo là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội Điều này ảnh hưởng đến hàng chục triệu tín đồ, chức sắc và nhà tu hành của các tôn giáo, phân bổ khắp mọi vùng miền trên cả nước, nhằm nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của họ.
Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp theo quy định pháp luật Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận hoạt động hợp pháp và được pháp luật bảo vệ, bao gồm việc mở trường đào tạo chức sắc, xuất bản kinh sách và xây dựng cơ sở thờ tự Tất cả hoạt động tôn giáo, bao gồm truyền đạo, phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo hay mê tín dị đoan, và không được ép buộc người khác theo hay bỏ đạo.
1.2.2 Nội dung Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
1.2.2.1 Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Nhà nước Việt Nam trong những đạo luật cơ bản
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đánh dấu một bước ngoặt lịch sử quan trọng, dẫn đến việc ra đời Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm 1946 Hiến pháp này khẳng định quyền tự do tín ngưỡng là một trong năm quyền cơ bản của công dân, bên cạnh quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, cũng như quyền tự do cư trú và đi lại Việc tuyên bố tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng không chỉ thể hiện cam kết của Nhà nước mà còn tạo ra cơ sở pháp lý vững chắc cho chính sách tôn giáo trên toàn quốc.
Ngày 31-12-1959, Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua Hiến pháp 1959, trong đó nêu rõ "Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có quyền tự do tín ngưỡng, theo hoặc không theo một tôn giáo nào"(Điều 26, Chương III -
Hiến pháp năm 1980 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, kế thừa từ Hiến pháp năm 1959, khẳng định quyền tự do tín ngưỡng của công dân, cho phép họ theo hoặc không theo một tôn giáo nào Điều 68 trong Chương V nhấn mạnh rằng không ai được phép lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
Sau khi có các Nghị quyết về công tác tôn giáo của Đảng trong thời kỳ đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật thể chế hóa tư tưởng đổi mới đối với tôn giáo, nổi bật là Hiến pháp năm 1992 Hiến pháp này kế thừa và phát triển từ các Hiến pháp 1946, 1959, 1980, thể hiện rõ tư tưởng đổi mới về tôn giáo của Nhà nước Việt Nam Cụ thể, Hiến pháp năm 1992 khẳng định quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, sự bình đẳng của các tôn giáo trước pháp luật, và bảo vệ các nơi thờ tự của tín ngưỡng, tôn giáo, đồng thời cấm xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Chương V- Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân).
1.2.2.2 Những quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trong các văn bản quy phạm pháp luật trước đây
Nhà nước Việt Nam đã khẳng định nguyên tắc cơ bản về tôn giáo trong Hiến pháp và thể chế hóa quyền tự do tín ngưỡng qua các văn bản pháp luật Một trong những văn bản quan trọng là Sắc lệnh số 234/SL, ngày 14-6-1955, do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, quy định về tôn giáo và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng trong Chương I.
Chính phủ cam kết bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng và thờ cúng của mọi công dân Quyền tự do này không được xâm phạm, và mỗi người Việt Nam đều có quyền lựa chọn theo một tôn giáo hoặc không theo tôn giáo nào.
Các nhà tu hành được tự do giảng đạo tại các cơ quan tôn giáo (như nhà thờ, chùa, thánh thất, trường giáo lỷ, v.v.).
Trong quá trình truyền bá tôn giáo, các nhà tu hành cần giáo dục tín đồ về lòng yêu nước, trách nhiệm công dân, cũng như ý thức tôn trọng chính quyền nhân dân và pháp luật của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Các nhà tu hành và các tín đồ đều được hưởng mọi quyền lợi của người công dân và phải làm mọi nghĩa vụ của người công dân.
Các nhà tu hành nước ngoài được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho phép có quyền giảng đạo tương tự như các nhà tu hành Việt Nam, nhưng phải tuân thủ các quy định pháp luật của Việt Nam như những người ngoại kiều khác.
Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện Chính sách tín ngưỡng, tôn giáo 14 1 Sự lãnh đạo của Đảng
1.3.1 Sự lãnh đạo của Đảng
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là yếu tố quyết định đến thành công trong công tác tôn giáo, ảnh hưởng đến hình thức nhà nước, tổ chức bộ máy và hệ thống pháp luật Đảng luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân Dựa trên quan điểm của Đảng về tôn giáo, Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật nhằm tạo điều kiện cho cá nhân và tổ chức tôn giáo hoạt động theo Hiến chương, Điều lệ của Giáo hội và quy định pháp luật.
1.3.2 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là hai phạm trù vừa tách biệt vừa tương tác với nhau.
Tín ngưỡng, theo nghĩa Hán, là niềm tin mơ hồ nhưng cụ thể, thường liên quan đến việc thờ cúng các vị thần Tín ngưỡng dân gian bao gồm việc thờ cúng thần hoàng làng và các vị thần có công với đất nước, cũng như các thần sông, thần núi, được lưu giữ trong các đình làng và đền cổ ở các vùng quê.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên là một phần quan trọng trong văn hóa Việt Nam, từ thời kỳ cổ xưa cho đến nay Tục lệ này được thể hiện qua nhiều cấp độ khác nhau, bắt đầu từ lễ hội đền Hùng ở Phú Thọ, nơi tôn vinh Vua Hùng - vị vua đầu tiên của quốc gia Văn Lang và là tổ tiên của dân tộc Ở cấp độ dòng họ, mỗi gia đình đều có tổ tiên riêng, những người đã có công sinh thành Ngoài ra, còn có các vị tổ nghề như nghề hát chéo, đan lát, đánh cá và rèn, thể hiện sự đa dạng và phong phú trong tín ngưỡng này Tục thờ cúng tổ tiên không chỉ là một truyền thống mà còn là sợi dây kết nối các thế hệ, từ quốc gia đến gia đình, giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam qua từng thời kỳ.
Tôn giáo cũng như tín ngưỡng phải bắt đầu từ đức tin, nhưng khác với tín ngưỡng ở những đặc điểm sau:
- Phải có kinh sách, trường dạy các kinh sách này.
- Phải có người tu hành chuyên nghiệp.
- Phải có hệ thống tín đồ.
Tôn giáo là tổ chức của những người tin vào giáo lý và giáo luật do một vị giáo chủ đề ra, được dẫn dắt bởi các chức sắc và nhà tu hành Tôn giáo không chỉ giới hạn trong một khu vực hay tộc người cụ thể mà còn được phát triển và truyền bá rộng rãi trên toàn thế giới, thể hiện tính quốc tế của nó.
Tín ngưỡng và tôn giáo đều dựa trên đức tin của con người vào các thế lực siêu nhiên, như chúa, Phật, và các vị thần Mối quan hệ giữa tín ngưỡng và tôn giáo rất phức tạp, đặc biệt trong văn hóa Việt Nam và phương Đông, nơi người dân tin vào đa thần giáo và vẫn dành tình cảm cho thần linh, gia tiên Đạo Công giáo, mặc dù mang tính độc thần, đã có sự điều chỉnh khi truyền vào Việt Nam, khi ban đầu người Công giáo không thờ cúng tổ tiên, dẫn đến sự khó khăn trong việc thu hút tín đồ Tuy nhiên, sau Công đồng Vatican II, việc cho phép lập bàn thờ tổ tiên đã giúp tăng số lượng tín đồ Công giáo tại Việt Nam.
Tín ngưỡng và tôn giáo tại Việt Nam, đặc biệt là trong Đạo Công giáo, luôn có sự hòa quyện và mối quan hệ đặc biệt với nhau, điều này thể hiện rõ qua nhiều ví dụ.
1.3.3 Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về tôn giáo và chất lượng cán bộ, công chức, viên chức làm công tác tôn giáo các cấp Để vận hành bộ máy quản lý có hiệu quả, người cán bộ, công chức, viên chức có vai trò vô cùng quan trọng bởi hoạt động quản lý phải do con người và vì con người Để bộ máy QLNN về tôn giáo hoạt động hiệu quả, cần có nguồn nhân lực làm công tác tôn giáo đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng Công tác cán bộ tác động trực tiếp đến hiệu lực QLNN đối với HĐTG và hiệu quả công tác tuyên tuyền, vận động tín đồ các tôn giáo Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo cần hội đủ tâm, tầm, tài trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, đặc biệt, có kiến thức chuyên sâu về tôn giáo, cùng lập trường tư tưởng, bản lĩnh chính trị vững vàng Kiện toàn tổ chức bộ máy tinh gọn, thống nhất, rành mạch về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị, hoạt động thông suốt, theo đúng pháp luật; tăng cường đối ngoại tôn giáo để đáp ứng tốt yêu cầu thực tiễn đặt ra.
1.3.4 Quá trình phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế
Theo chủ nghĩa Mác-Lênin, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, trong đó tôn giáo được xem là một hình thái của ý thức xã hội Để thay đổi ý thức xã hội, cần bắt đầu từ việc cải thiện điều kiện sống của tín đồ tôn giáo, qua đó làm giảm ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo Khi cơ sở kinh tế - xã hội không còn hỗ trợ cho sự tồn tại của tôn giáo, tôn giáo sẽ hoạt động theo mục đích thuần túy và không còn bị lợi dụng cho các mục tiêu khác Ngoài ra, yếu tố văn hóa và lịch sử của từng cộng đồng cũng ảnh hưởng lớn đến hoạt động và quản lý tôn giáo, trong đó bản sắc văn hóa của các sắc tộc đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tình cảm tôn giáo và phong cách ứng xử với tôn giáo.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thị trường đã được công nhận là một thành tựu quan trọng của văn minh nhân loại, mang lại nhiều ưu điểm nhưng cũng không thiếu khuyết điểm Một trong những mặt tiêu cực của nó là việc đặt lợi ích vật chất lên hàng đầu, dẫn đến việc nhiều người bỏ qua các giá trị tinh thần, bao gồm cả niềm tin tôn giáo Điều này đã tạo ra tình trạng lợi dụng tự do tín ngưỡng để trục lợi, cũng như việc dùng lợi ích vật chất để thao túng tôn giáo cho các mục đích không chính đáng Tuy nhiên, các giá trị đạo đức tốt đẹp của tôn giáo cũng có thể giúp kiềm hãm sự suy thoái đạo đức xã hội trong bối cảnh kinh tế thị trường Sự giao lưu và hội nhập kinh tế, văn hóa giữa các quốc gia ngày càng sâu sắc, bao gồm cả lĩnh vực tôn giáo Đồng thời, tình hình kinh tế và chính trị quốc tế phức tạp cũng tác động đến an ninh và trật tự xã hội, trong đó có tình hình tôn giáo và dân tộc ở mỗi quốc gia.
1.3.5 Sự phát triển về giáo dục, khoa học và công nghệ
Sự phát triển của giáo dục, khoa học và công nghệ đã ảnh hưởng sâu sắc đến niềm tin tôn giáo của nhân dân, khiến nhiều luận điểm tôn giáo được xem xét lại và một số hoạt động tôn giáo trở nên hiện đại hơn Con người ngày càng từ chối niềm tin mù quáng và những hoạt động tôn giáo mang tính mê muội, phi lý Mặc dù sự phát triển khoa học và công nghệ mang lại hiệu quả tích cực trong quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo, nhưng cạnh tranh kinh tế khốc liệt và sự phân cực giàu nghèo đã tạo ra bất an, làm giảm niềm tin vào cuộc sống, từ đó duy trì nền tảng cho sự tồn tại của tôn giáo Đồng thời, một số đối tượng đã lợi dụng phương tiện truyền thông hiện đại để tuyên truyền và phát tán tài liệu không phù hợp với mục đích và truyền thống văn hóa dân tộc.
1.3.6 Hoạt động lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo
Tôn giáo, với đặc thù lịch sử - xã hội của nó, đóng vai trò quan trọng trong đời sống cộng đồng, nhưng cũng dễ bị lợi dụng bởi các tổ chức và cá nhân cực đoan Những kẻ này thường lợi dụng tôn giáo để kích động bạo lực, gây chia rẽ giữa các dân tộc và tôn giáo, thậm chí âm thầm thực hiện các hành động bạo loạn nhằm lật đổ chính quyền Tình hình này ngày càng trở nên phức tạp và đáng lo ngại.
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao thoa văn hóa và tôn giáo giữa các quốc gia ngày càng gia tăng Tuy nhiên, nhiều giá trị văn hóa và tôn giáo đặc trưng của các dân tộc lại không được công nhận và bị chỉ trích bởi những chính khách có định kiến Bên cạnh đó, còn có những hoạt động lôi kéo và gây áp lực quốc tế về vấn đề tôn giáo, nhằm can thiệp vào quyền tự quyết của các quốc gia và kích động bạo loạn dưới danh nghĩa tôn giáo.
Một số tổ chức cực đoan lợi dụng tôn giáo để tập hợp lực lượng và củng cố tổ chức, nhằm kích động bạo lực và ly khai, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hòa bình và an ninh khu vực cũng như toàn cầu.
Vào thứ ba, các hoạt động lợi dụng tôn giáo xuất hiện dưới nhiều hình thức phức tạp và khó nhận diện, đặc biệt thông qua các hoạt động từ thiện và nhân đạo nhằm truyền đạo, mở rộng phạm vi hoạt động và gây dựng thanh thế Những hoạt động này còn bao gồm tuyên truyền và kích động mâu thuẫn giữa các dân tộc và tôn giáo.
Một số tín ngưỡng và tôn giáo hiện nay đang bị lợi dụng để trục lợi, điều này có thể gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội của một bộ phận nhân dân, dẫn đến mất trật tự và an ninh chính trị trong khu vực.
Quy trình thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
1.4.1 Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách TNTG
Vào ngày 18-6-2004, ủy ban Thường vụ Quốc hội Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động tín ngưỡng và tôn giáo của nhân dân trong thời kỳ đổi mới Đến ngày 29-6-2004, Chủ tịch nước đã ký Lệnh công bố Pháp lệnh này, có hiệu lực từ ngày 15-11-2004, nhằm thực hiện công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo và xây dựng Nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.
Sau hơn 12 năm thực hiện Pháp lệnh về tín ngưỡng, tôn giáo và qua nhiều lần điều chỉnh, Quốc hội khóa XIII đã thông qua bộ Luật tín ngưỡng, tôn giáo nhằm đảm bảo công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực này Bộ luật có hiệu lực từ ngày 1/1/2018, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc quy định các hình thức tín ngưỡng, tôn giáo.
Ngày 01-3-2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 22/2005/NĐ-CP hướng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo Đây là những văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
1.4.2 Phổ biến, tuyên truyền chính sách tín ngưỡng, tôn giáo Để đạt hiệu quả, cấp ủy, chính quyền các cấp đã tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác tuyên truyền, phổ biến Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, tổ chức quán triệt, thực hiện “Kế hoạch triển khai thi hành Pháp lệnh, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo” Xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Luật phù hợp với từng đối tượng và điều kiện thực tế Chủ động rà soát các văn bản đã ban hành liên quan đến lĩnh vực tín ngưỡng, tôn giáo nhằm phát hiện những bất cập, kiến nghị, đề xuất cấp có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ văn bản có nội dung không còn phù hợp Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ chủ chốt trong kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc nảy sinh; làm tốt công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm công tác tuyên truyền, phổ biến Luật.
Cần tăng cường bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên Luật Tín ngưỡng, tôn giáo nhằm nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền và phổ biến Luật Đặc biệt, ưu tiên đào tạo cho những người có uy tín trong cộng đồng và chức sắc tôn giáo Tổ chức các khóa tập huấn cung cấp tài liệu hướng dẫn nghiệp vụ và pháp luật liên quan, giúp đội ngũ nắm vững Luật, phong tục, tập quán, giáo lý và lễ nghi tôn giáo, cùng với kỹ năng tuyên truyền Đồng thời, khuyến khích tinh thần chủ động học tập và trau dồi kỹ năng của từng cá nhân, đồng thời đảm bảo chế độ, chính sách và kinh phí đầy đủ, kịp thời cho công tác tuyên truyền.
Lựa chọn nội dung và đổi mới phương pháp tuyên truyền Luật Tín ngưỡng, tôn giáo là cần thiết để phù hợp với từng địa bàn và đối tượng Mục tiêu là giúp mọi người hiểu rõ và thực hiện đúng pháp luật, đồng thời xây dựng thói quen tự giác tìm hiểu và chấp hành Nội dung tuyên truyền nên tập trung vào quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân liên quan đến tự do tín ngưỡng, hoạt động tín ngưỡng, công tác giáo dục, y tế, bảo trợ xã hội, và quản lý nhà nước trong lĩnh vực này.
Để thực hiện hiệu quả Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức và lực lượng trong công tác tuyên truyền, phổ biến Hội đồng Phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đóng vai trò nòng cốt trong việc tham mưu và xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, đồng thời hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa các lực lượng Các cơ quan Tư pháp cần tích hợp nội dung tuyên truyền Luật vào các hoạt động chuyên ngành, nâng cao chất lượng công tác tham mưu và hướng dẫn Cũng cần tăng cường sự hợp tác giữa Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội với các ngành chức năng, đồng thời khuyến khích sự tham gia của tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân trong công tác tuyên truyền, phổ biến Luật.
1.4.3 Phân công, phối hợp thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
Chính sách pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo đang được cải thiện để bảo vệ quyền tự do tín ngưỡng của người dân và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc Mối quan hệ giữa Nhà nước và tôn giáo đã có những tiến bộ tích cực, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, như các loại hình tín ngưỡng chưa được quản lý và tình trạng vi phạm pháp luật trong hoạt động tôn giáo Hiện có khoảng 80 tổ chức tôn giáo chưa được công nhận, và một số chức sắc, tín đồ vẫn chưa tin tưởng vào chính sách của Đảng và Nhà nước Để cải thiện tình hình, cần xây dựng kế hoạch phối hợp hàng năm và dài hạn để quản lý hiệu quả các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo.
- Phạm vi, đối tượng phối hợp;
- Nguyên tắc phối hợp giải quyết các vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo;
- Trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức trong phối hợp giải quyết các vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo;
1.4.5 Đôn đốc thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo
Công tác tôn giáo là trách nhiệm chung của toàn bộ hệ thống chính trị, do đó cần nắm bắt tình hình để kịp thời tham mưu và xử lý đúng theo chính sách pháp luật Việc này không chỉ giúp giải quyết các vấn đề phát sinh trong hoạt động tôn giáo mà còn tạo niềm tin cho các tổ chức và cá nhân tôn giáo, cũng như đồng bào có đạo Đồng thời, cần tăng cường bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ và kinh nghiệm để nâng cao năng lực tham mưu, xử lý và giải quyết các vấn đề liên quan đến tôn giáo.
Cần tiếp tục hoàn thiện chính sách và pháp luật liên quan đến tôn giáo, đồng thời chú trọng công tác tuyên truyền và phổ biến các quan điểm của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước về tín ngưỡng tôn giáo một cách nghiêm túc.
Chủ động hợp tác với các bộ, ngành chức năng để rà soát và đề xuất sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật liên quan đến văn hóa, giáo dục, y tế, nhằm đảm bảo tính đồng bộ với pháp luật về tôn giáo.
Tiếp tục cải tiến và nâng cao chất lượng tuyên truyền pháp luật cho đội ngũ cán bộ tôn giáo nhằm thống nhất nhận thức và hành động, đồng thời tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và thực hiện chuyên môn nghiệp vụ tôn giáo hiệu quả trong bối cảnh mới.
"Chúng tôi chú trọng đến việc gặp gỡ và làm việc với các tổ chức tôn giáo nhằm thúc đẩy đối thoại, lắng nghe và kịp thời giải quyết những vấn đề chính đáng Điều này không chỉ tạo sự đồng thuận mà còn góp phần quan trọng vào việc xây dựng và phát triển đất nước."
1.4.6 Đánh giá, tổng kết rút kinh nghiệm Đánh giá Sự tác động của Pháp lệnh, Luật và các Nghị định đến việc đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người nói riêng, sự phát triển và đảm bảo quyền con người nói chung; tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; sự tác động của kinh tế - xã hội đến việc thực hiện và đảm bảo quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Đánh giá Công tác chỉ đạo, triển khai thi hành Luật và Nghị định. Đánh giá ưu điểm, bất cập, hạn chế trong quy định của Luật và Nghị định đến hoạt động tín ngưỡng; tổ chức và hoạt động tôn giáo của các tổ chức, cá nhân có liên quan đến công tác quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo.
Xác định những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại địa phương.
Việc tuyên truyền, phổ biến, tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ liên quan đến Luật và Nghị định
Công tác phối hợp giữa các địa phương, sở ngành và các tổ chức liên quan, bao gồm cả tổ chức tôn giáo và các tổ chức tôn giáo trực thuộc, đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự hiệu quả và đồng bộ trong các hoạt động cộng đồng.
Lịch sử văn hóa huyện Phú Xuyện
Huyện Phú Xuyên là đơn vị hành chính của Thủ đô, nằm ở phía Nam thành phố
Hà Nội nằm cách trung tâm Thủ đô 40km, với địa giới phía Bắc giáp huyện Thường Tín, phía Nam giáp huyện Duy Tiên thuộc tỉnh Hà Nam, phía Đông giáp sông Hồng và huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên, và phía Tây giáp huyện Ứng Hòa, Hà Nội.
Phú Xuyên có tổng diện tích tự nhiên 17.104,6 ha, trong đó đất canh tác chiếm 66,24% với 11.329,9 ha, đất ở chiếm 6,95% với 1.120,9 ha, và đất chuyên dùng chiếm 18,92% với 3.235,9 ha; phần còn lại là đất chưa sử dụng Khu vực này trước đây là vùng trũng với cốt đất thấp, đặc biệt là phía Đông cao hơn phía Tây, dẫn đến tình trạng ngập úng trong mùa mưa bão Ngoài ra, một số xã ven sông Hồng có khoảng 2.000 ha đất pha cát, thường được gọi là đất màu.
Phú Xuyên, vùng đất cổ xứ Đoài và trấn Sơn Nam xưa, vẫn giữ gìn được những nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam, đặc biệt là di sản văn hóa của Kinh đô Thăng Long.
Trống đồng Hoàng Hạ, được phát hiện vào ngày 17/3/1937 tại xã Văn Hoàng, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch Sử Đây là một trong những loại trống cổ đẹp, có niên đại từ thế kỷ VII trước Công nguyên.
Vào ngày 15/4/1974, các nhà khảo cổ học đã phát hiện 8 ngôi mộ thuyền nguyên vẹn tại xã Châu Can, thể hiện phong tục tang lễ của thời kỳ các Vua Hùng dựng nước Những phát hiện này không chỉ góp phần làm sáng tỏ lịch sử mà còn khẳng định giá trị văn hóa của vùng đất Xuân.
Xã Phượng Dực vừa phát hiện một ngôi mộ thuyền giống như ở Châu Can, bên trong chứa nhiều đồ tùy táng bằng đồng thau Nơi đây có 101 di tích văn hóa được công nhận và xếp hạng, trong đó đình thôn Giẽ Hạ, kiến trúc đời Lê Chính Hòa (1686), đã được xếp hạng cấp quốc gia Giáo sư sử học Trần Quốc Vượng trong cuốn "Theo dòng lịch sử" đã ghi nhận đình Giẽ Hạ là một trong mười ngôi đình hiếm hoi còn tồn tại, nổi bật với sự hoành tráng và quý giá Ngoài ra, bia chùa Diên Phúc và bốn bia đá thời Lê tại cổng đình Giẽ Hạ, trong đó có bia Lê Phúc Thái (1647), đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới.
Nhân dân Phú Xuyên bảo tồn nhiều di sản phi vật thể quý giá như "Hò cửa đình và múa hát bài bông" tại làng Phú Nhiêu, nghề nặn tò he ở thôn Xuân La và hát ca trù ở Chanh Thôn, tất cả đều được Trung ương Hội Văn Nghệ Dân Gian Việt Nam công nhận là Địa chí Văn Nghệ dân gian và phong danh hiệu cho các nghệ nhân Ngoài ra, các làng nghề truyền thống như khảm trai sơn mài Chuyên Mỹ, giày da Phú Yên, cỏ tế Phú Túc, mộc Tân Dân và may Vân Từ cũng góp phần làm phong phú thêm văn hóa địa phương.
Huyện Phú Xuyên nổi bật với những lễ hội truyền thống đặc sắc như Hội vật cầu và Hội Đánh gậy ở Thường Liễu, Hội chạy lợn tại Trại Diền, cùng Hội rước nước ở Cát Bi Đất Phú Xuyên còn được biết đến là vùng đất hiếu học, nơi kết hợp giữa văn hóa học thuật và võ thuật, được phản ánh qua câu ca nổi tiếng tại làng Ứng Thiên, xã Phúc Tiến.
"Em là con gái Ứng Thiên Bán rau mua bút, mua nghiên cho chồng Bao giờ chiếm được Bảng rồng Bõ công gánh nước vun trồng cho rau."
Tại huyện Phú Xuyên, có nhiều gia đình quý trọng việc học hành đến mức, ngay cả khi đã có con cái, họ vẫn quyết tâm nuôi chồng ăn học để thi cử Điều này đã tạo nên những làng khoa bảng nổi tiếng, như họ Vũ ở thôn Nghĩa Lập xã Châu Can và "Làng 18 Quận công" tại làng Giẽ Hạ (xã Phú Yên), cùng với dòng họ Nguyễn ở xã Hồng Minh.
Huyện Phú Xuyên nổi tiếng với nhiều Tiến sĩ, trong đó có cụ Ngô Nho ở xã Tri Trung, người đã nỗ lực học chữ Nho trong nhiều năm để đạt được danh hiệu Tiến sĩ dưới triều đại vua.
Lê Hiển Tông, cụ Nguyễn Tựu ở Phượng Dực đã đỗ ông Nghè vào năm 1541 Ven sông Hồng, cụ tiến sĩ Bùi Thúc Độ đỗ vào năm 29 tuổi, tiếp theo là cụ Nguyễn Trạm đỗ năm 1607 và cụ Trần Hán Lễ cùng cụ Đỗ Văn Ái cũng góp mặt trong danh sách những người đỗ đạt.
Phú Xuyên là một vùng văn hóa nổi bật, nổi tiếng với việc sản sinh ra nhiều nhân tài Gần đây, cộng đồng đã sưu tầm và xuất bản cuốn sách "Tục ngữ - ca dao huyện Phú Xuyên - Xưa và nay", ghi lại những giá trị văn hóa quý báu của địa phương.
1000 bản sách, tựa 1000 bông hoa đẹp dâng lên mừng Đại lễ Thăng Long - Hà Nội nghìn năm tuổi.
Nghị quyết TW 5 khóa 8 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát huy và gìn giữ nền văn hóa Việt Nam, với bản sắc dân tộc đặc sắc Để thực hiện điều này, chúng ta đã đầu tư công sức và tài chính vào việc tu bổ các công trình văn hóa, đồng thời mời gọi các nghệ nhân truyền dạy cho thế hệ trẻ những điệu múa và lời ca ngọt ngào, đằm thắm từ di sản văn hóa của tổ tiên.
Phát triển kinh tế là trung tâm, trong khi việc bảo tồn di sản văn hóa là nhiệm vụ then chốt Cần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xây dựng tiêu chí người Phú Xuyên thanh lịch, văn minh Động viên nhân dân nâng cao tinh thần bảo vệ di sản văn hóa và phát huy xã hội hóa trong việc bảo vệ, tôn tạo các di tích để biến chúng thành điểm tham quan du lịch Tiếp tục xây dựng 100% thôn có nhà văn hóa và các thiết chế phục vụ văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao Khuyến khích phát triển văn hóa phi vật thể và đầu tư cho các hoạt động văn hóa truyền thống như múa Bài bông, hò cửa đình, ca trù, nghề nặn tò he Duy trì và tổ chức tốt các lễ hội truyền thống, đồng thời củng cố và tạo điều kiện cho các câu lạc bộ, đội văn nghệ phát triển hiệu quả Định hướng phát triển kinh tế huyện Phú Xuyên theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ XXIII với cơ cấu kinh tế CN-TTCN.
Trong năm qua, XD chiếm 40%, NN chiếm 26% và TM-DV chiếm 34%, với thu ngân sách tăng trên 15% Để phát triển bền vững, cần xây dựng một nền sản xuất nông nghiệp hàng hóa ổn định, tạo giá trị cao trên mỗi ha canh tác nhằm cung cấp lương thực, thực phẩm cho thành phố Đồng thời, tập trung phát triển khu công nghiệp phụ trợ phía Nam Thủ đô Hà Nội với quy mô khoảng đáng kể.
500 ha, Phát triển tiểu thủ công nghiệp đặc biệt là các nghề truyền thống của địa phương để giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân.
Các loại hình tín ngưỡng, tôn giáo huyện Phú Xuyên
Huyện Phú Xuyên nổi bật với truyền thống văn hóa phong phú, ảnh hưởng đến các hoạt động văn hóa tâm linh và tín ngưỡng Tại đây, có hai tôn giáo hợp pháp là Phật giáo và Công giáo, bên cạnh một loại hình tôn giáo khác Đa số người dân Phú Xuyên tham gia vào các hoạt động tín ngưỡng, với hơn 50.000 tín đồ thuộc hai tôn giáo chính, chiếm khoảng 27% tổng dân số huyện.
2.2.1 Tín ngưỡng dân gian huyện Phú Xuyên
Tín ngưỡng, theo Tôn giáo học, được xem là hình thức cận tôn giáo, bao gồm việc thờ cúng và tưởng niệm các vị thần nông nghiệp, thần làng nghề, Thành hoàng, cùng với các nữ thần nông nghiệp và tổ tiên Những tín ngưỡng này mang đậm tính dân gian và thường ẩn mình trong các làng, dòng họ và gia đình Vì vậy, có thể khẳng định rằng hầu hết người dân trong huyện đều có tín ngưỡng và tôn giáo.
Thờ cúng trong dân gian ở Phú Xuyên rất đa dạng và phản ánh sự phát triển qua từng thời kỳ lịch sử Là cư dân ven sông, người dân nơi đây tôn sùng các hiện tượng tự nhiên như mây, mưa và sấm chớp, dẫn đến việc thờ cúng các vị thần nông nghiệp Trong xã hội nông nghiệp trồng lúa nước, vai trò của người phụ nữ được coi trọng, mặc dù chế độ phụ hệ đã được thiết lập từ lâu Sự phát hiện tượng đá tại di chỉ Văn Điển, phía nam thành phố Hà Nội, đã chứng minh cho tầm quan trọng này.
Phú Xuyên, huyện phía Nam Hà Nội, đối diện với khu Đầm Dạ Trạch (Khoái Châu - Hưng Yên), có nhiều ảnh hưởng đến câu chuyện vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung, diễn ra vào những năm cuối thời đại các vua Hùng Ngoài tục thờ mặt trời, biểu hiện qua hình ảnh trên mặt trống đồng, còn có sự ảnh hưởng của tục thờ nữ thần và mối quan hệ với các tôn giáo cổ xưa.
Vợ chồng Chử Đồng Tử - Tiên Dung không chỉ thể hiện hình thức thờ cúng tổ tiên và các nữ thần nông nghiệp mà còn kết hợp với Đạo Phật qua việc gặp Phật Quang tại Cửa Sót Hà Tĩnh Họ đã theo Phật giáo, thực hiện các việc thiện và tránh điều ác, góp phần biến Phật giáo thành một hình thức mang tính bản địa, gọi là Phật giáo Tứ Pháp, kết hợp hài hòa với bốn yếu tố tự nhiên: Mây, Mưa, Sấm, Sét Tục thờ phồn thực và tín ngưỡng vạn vật hữu linh vẫn được duy trì, đặc biệt trong cộng đồng nông dân trồng lúa nước, nơi mưa là yếu tố thiết yếu cho sự sinh trưởng của cây lúa.
Vợ chồng Tiên Dung - Chử Đồng Tử không chỉ theo Phật giáo để giáo hóa chúng sinh mà còn là giáo chủ của phái Phương tiên đạo và Đạo giáo tại Việt Nam.
Ông Chử Đồng Tử và bà Tiên Dung không chỉ đại diện cho tín ngưỡng truyền thống Việt Nam trong Phật giáo mà còn cho nhiều loại hình tín ngưỡng khác như Tu tiên đạo, Đạo giáo, và thờ tứ bất tử Điều này cho thấy bên cạnh những ngôi chùa, còn có các am, đền, và quán thờ tu tiên cùng với việc thờ các bà, mà sau này được gọi là thờ Mẫu.
Vào mùa xuân năm 40 sau Công nguyên, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng đã diễn ra trên toàn quốc nhằm đánh đuổi Tô Định, Thái thú của nhà Đông Hán Nhiều nữ tướng đã tham gia và lập nên những chiến công vĩ đại trong lịch sử dân tộc Tại huyện Phú Xuyên, hiện nay vẫn còn đền thờ Nữ tướng thời Hai Bà Trưng.
Trong thời kỳ Phong kiến độc lập, đặc biệt từ triều đại Lê trở đi, tín ngưỡng Việt Nam, đặc biệt là ở Phú Xuyên, đã phát triển với sự xuất hiện của các ngôi đình làng thờ các vị thành hoàng Thời Nguyễn, mỗi làng quê thường có cụm di tích đình, đền, chùa tập trung tại một nơi Sự xuất hiện của Công giáo, do các giáo sĩ phương Tây mang đến, đã tạo ra những hình thái tín ngưỡng mới như Phủ thờ Mẫu và đền thờ Mẫu Liễu, đồng thời cũng dẫn đến sự tranh chấp giữa các phái trong Đạo giáo nhằm giảm bớt ảnh hưởng của Công giáo Hiện nay, huyện Phú Xuyên còn lưu giữ hơn 300 di tích tín ngưỡng, bao gồm 130 đình làng và 32 đền.
Trong số trên 211 di tích này hiện có 64 di tích đã được xếp hạng di tích cấp Quốc gia và cấp tỉnh thành phố.
Phật giáo đã xuất hiện ở Việt Nam từ rất sớm, khoảng vài thế kỷ trước Công nguyên Các nhà nghiên cứu cho rằng, do vị trí địa lý của Việt Nam nằm trên ngã ba đường của các nền văn minh nhân loại, nên các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam để truyền bá Phật giáo trước khi đưa nó vào Nam Trung Hoa.
Phật giáo đã du nhập vào Luy Lâu, thủ phủ của Giao Chỉ, qua nhiều con đường khác nhau Trên tuyến đường thủy, các sư Ấn Độ đã di chuyển qua khu vực phía Nam sông Hồng, đi qua Khoái Châu, Phú Xuyên, và Thường Tín trước khi đến sông Dâu và Luy Lâu Ngoài ra, họ cũng có thể tiếp cận Luy Lâu qua vùng biển Đồ Sơn, Hải Phòng Về đường bộ, các sư Ấn Độ đã đi từ Vân Nam, Trung Quốc, vào Tây Thiên, Vĩnh Phúc ngày nay Tại những địa điểm này, nơi các sư dừng chân, đã xuất hiện nhiều chùa tháp trong thời kỳ đó.
Nhà sư Khâu Đà La đã kết hợp với Bà Man Nương tại chùa Mãn Xá, tạo nên tổ hợp chùa Tứ Pháp ở xã Hà Mãn, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh Tổ hợp này bao gồm chùa Pháp Vân (thờ Bà Dâu), chùa Pháp Vũ (thờ Bà Đậu), chùa Pháp Lôi (thờ Bà Dàn), và chùa Pháp Điện (thờ Bà Phi Tướng) Hệ thống chùa Tứ Pháp không chỉ thể hiện tín ngưỡng dân gian của người Việt mà còn đóng vai trò như tấm khiên bảo vệ văn hóa trước sự bành trướng từ phương Bắc và sự Hán hóa.
Phật giáo trên thế giới được chia thành 12 hệ phái khác nhau, mỗi hệ phái đều có ảnh hưởng nhất định đến đời sống tâm linh và sinh hoạt của cộng đồng Phật tử tại khu vực đó.
Phật giáo được chia thành hai dòng chính, với Ấn Độ là trung tâm Dòng Bắc tông, hay còn gọi là Đại Thừa, đi lên phía Bắc qua Trung Quốc, Hàn Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và Bắc Việt Nam Ngược lại, dòng Nam tông, hay Tiểu Thừa, di chuyển xuống phía Nam qua Sri Lanka, Myanmar, Thái Lan, Lào, Campuchia và Nam Việt Nam.
Phật giáo Việt Nam ở đồng bằng sông Hồng chủ yếu chịu ảnh hưởng từ dòng Bắc tông - Đại Thừa, dẫn đến sự pha trộn của nhiều hệ phái khác nhau Hiện nay, người Việt chủ yếu tu theo ba hệ phái: Thiền, Tịnh và Mật Sự kết hợp nhuyễn giữa ba yếu tố này đã hình thành một hình thức Phật giáo đặc trưng và độc đáo của người Việt.
Phân tích thực trạng thực hiện chính sách tín ngưỡng, tôn giáo trên địa bàn huyện Phú Xuyên, Thành phố Hà Nội
2.3.1 Tính hiệu lực của chính sách Để một chính sách đi vào cuộc sống hiện thực, những người thực thi chính sách cần phải thực hiện nghiêm chỉnh 3 yếu tố sau:
Ban Tôn giáo Huyện Phú Xuyên đã thiết lập và duy trì bộ máy cán bộ làm công tác tôn giáo từ trước năm 2003 đến nay, đảm bảo việc thực thi các chính sách tôn giáo một cách hiệu quả.
- Cấp huyện: Ban Tôn giáo gồm 07 đồng chí, do đồng chí Phó Chủ tịch UBND huyện làm Trưởng ban Trong đó:
+ Trình độ văn hóa THPT có 07 đồng chí.
+ Trình độ chuyên môn: Thạc sỹ 03 có đồng chí Đại học 04 đồng chí
+ Trình độ lý luận chính trị: Cao cấp 03 đồng chí, Cử nhân 02 đồng chí, Trung cấp 02 đồng chí.
+ Số năm công tác bình quân: 05 năm.
UBND huyện đã ban hành Công văn hướng dẫn thành lập Ban Tôn giáo cấp xã, với cơ cấu từ 5 đến 7 thành viên, do đồng chí Phó Chủ tịch UBND xã đảm nhiệm vị trí Trưởng ban.
Tổng số cán bộ làm công tác tôn giáo tại 28 xã, thị trấn là 214 đồng chí, trong đó có 40 đồng chí đạt trình độ văn hóa trung học cơ sở và 174 đồng chí có trình độ trung học phổ thông.
Trong tổng số cán bộ, có 3 đồng chí trình độ sơ cấp, 36 đồng chí trình độ trung cấp, 11 đồng chí trình độ cao đẳng và 125 đồng chí có trình độ đại học Đặc biệt, có 42 đồng chí chưa qua đào tạo chuyên môn, hiện đang đảm nhiệm các công tác tại cấp ủy và chính quyền thôn, tiểu khu.
+ Trình độ lý luận chính trị: sơ cấp 13 đồng chí, Trung cấp 137 đồng chí.
+ Số năm công tác bình quân 04 năm.
Đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo từ cấp huyện đến xã, thị trấn thường kiêm nhiệm và thiếu chế độ đãi ngộ phù hợp, chỉ nhận lương từ chức danh chính đang đảm nhiệm.
Ban Tôn giáo hiện đang gặp khó khăn về biên chế, khiến số lượng cán bộ không thể tăng thêm Tuy nhiên, yếu tố quan trọng không chỉ nằm ở số lượng mà còn ở học vấn, đào tạo chuyên ngành và thời gian dành cho cán bộ chuyên trách trong công tác tôn giáo cấp cơ sở.
Tại Huyện Phú Xuyên, các loại hình tôn giáo và tín ngưỡng như Phật giáo và Công giáo được pháp luật công nhận và cho phép hoạt động hợp pháp, chịu sự chỉ đạo thực thi chính sách từ cơ quan chức năng.
Ngoài ra, còn tồn tại một số hình thái tôn giáo biến tướng chưa được nhà nước công nhận, thường được gọi là truyền đạo trái phép, như một số hệ phái Tin Lành và đạo Cụ Hồ.
Huyện Phú Xuyên hiện đang lưu giữ nhiều hình thái tín ngưỡng phong phú, bao gồm thờ cúng tổ tiên, thờ nhân thần và nhiên thần, thể hiện qua các di tích đình, đền, phủ, chùa Các cơ sở thờ tự này không chỉ là nơi tôn vinh các giá trị văn hóa truyền thống mà còn phản ánh đời sống tâm linh sâu sắc của cộng đồng địa phương.
Công cụ thực thi chính sách tín ngưỡng, tôn giáo của Đảng là các Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương, bao gồm Nghị quyết 24/TW (tháng 10/1990) về tôn giáo, NQ 6/TW (năm 1998) về công tác tôn giáo trong hệ thống chính trị, và Nghị quyết 25/2003/TW về dân tộc tôn giáo Những nghị quyết này thể hiện quan điểm và chủ trương của Đảng đối với công tác tín ngưỡng, tôn giáo.
Quốc hội Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo vào năm 2004, có hiệu lực từ năm 2005, và tiếp theo là Luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016, có hiệu lực từ năm 2018.
Nhà nước và Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quan trọng nhằm quản lý và hướng dẫn các hoạt động tôn giáo, bao gồm Nghị định 22/2005/NĐ-CP và Chỉ thị số 1/2005/CT-CP về Đạo Tin Lành Ngoài ra, Nghị định 1940/2008/NĐ-CP quy định về đất đai tôn giáo, Nghị định 92/2012/NĐ-CP hướng dẫn và quản lý tôn giáo, cùng với Nghị định 162/2017/NĐ-CP về quản lý tín ngưỡng, tôn giáo theo luật tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016.
Chủ trương và chính sách mới đã được triển khai, góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về tín ngưỡng và tôn giáo tại huyện Những biện pháp này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong lĩnh vực tôn giáo trên địa bàn.
2.3.2 Tính hiệu quả của chính sách
Tính hiệu quả của chính sách khi thực thi quyền hạn trên địa bàn huyện Phú Xuyên được nhìn nhận trên 3 yếu tố:
- Sự chỉ đạo của Huyện ủy huyện Phú Xuyên, Ban chỉ đạo công tác tôn giáo huyện.
- Quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo của UBND huyện và Ban Tôn giáo huyện.
Sự đồng thuận của người dân huyện, bao gồm tín đồ Phật tử, Công giáo và các nhóm Tin Lành mới xuất hiện, thể hiện sự đồng tình mạnh mẽ trong cộng đồng Điều này không chỉ phản ánh lòng tin của họ vào các giá trị văn hóa lịch sử mà còn khẳng định sự gắn kết trong các xã và di tích văn hóa của địa phương.
Tất cả những yếu tố này giúp cho công tác chỉ đạo, lãnh đạo quản lý tín ngưỡng, tôn giáo đạt hiệu quả cao.
2.3.3 Tính kế thừa của chính sách