Tớnh cấp thiết của ủề tài
Sản xuất nông nghiệp hàng hoá là một quy luật tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp và phát triển nông thôn ở Việt Nam Qua các giai đoạn phát triển, sản xuất nông nghiệp đã chuyển từ tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hoá, từ đơn giản đến phức tạp Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động và đầu tư mà còn đóng vai trò quan trọng trong quá trình đô thị hoá và công nghiệp hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nhận thức được vấn đề trên, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương đổi mới kinh tế, bắt đầu từ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12 năm 1986) không chỉ khởi xướng đổi mới toàn diện nền kinh tế mà còn xác định chuyển đổi nông nghiệp từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hóa Nhờ vào đường lối đúng đắn của Đảng, sau hơn 20 năm đổi mới (1986 - 2010), kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Từ một quốc gia thường xuyên thiếu lương thực và phải nhập khẩu hàng triệu tấn mỗi năm, Việt Nam hiện nay không chỉ bảo đảm an ninh lương thực mà còn đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo GDP trong lĩnh vực nông nghiệp bình quân hàng năm tăng 3,3%; thu nhập và đời sống nhân dân ngày càng cải thiện; tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn giảm bình quân 1,5%/năm; bộ mặt nông thôn thay đổi theo hướng tiến bộ, văn minh; trình độ văn hóa, khoa học, kỹ thuật của nhiều nông dân được nâng cao hơn trước.
Nông nghiệp không chỉ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế mà còn góp phần tích cực vào sự phát triển và hội nhập toàn cầu Từ năm 1986, kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản đã tăng từ 400 triệu USD lên 12 tỷ USD, gấp 30 lần Thành tựu này không chỉ giúp ổn định chính trị - xã hội nông thôn mà còn nâng cao đời sống nông dân trên toàn quốc Hơn nữa, sự phát triển của nông nghiệp còn tạo ra nhiều nguồn lực vật chất cần thiết, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong những năm qua.
Huyện Thanh Oai, thuộc thành phố Hà Nội, đã chuyển mình từ một huyện của tỉnh Hà Tây cũ thành huyện ngoại thành, mang lại nhiều cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế Với vị trí gần trung tâm chính trị, kinh tế và văn hóa của cả nước, huyện có điều kiện thuận lợi để tiếp thu công nghệ và phát triển nông sản chất lượng cao Nằm trong vành đai xanh của Hà Nội, Thanh Oai đang chuyển đổi từ nền nông nghiệp truyền thống sang sản xuất hàng hóa tập trung nhằm khai thác thế mạnh tự nhiên Trong những năm qua, kinh tế huyện đã tăng trưởng mạnh mẽ với tổng giá trị sản xuất tăng từ 645,69 tỷ đồng năm 2003 lên 1.010 tỷ đồng năm 2009, đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 6,2%/năm Thu nhập bình quân đầu người cũng tăng từ 3,13 triệu đồng năm 2003 lên 6,01 triệu đồng năm 2009 Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch tích cực với tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng tăng từ 25,3% lên 41,6%, trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm từ 47,3% xuống 30,4%.
Huyện Thanh Oai chưa phát huy hết lợi thế và tiềm năng của mình, đặc biệt là khu vực ven đô để phát triển nhanh và bền vững Lĩnh vực công nghiệp đang có xu hướng tăng chậm, trong khi việc bố trí cây trồng vẫn chưa hợp lý Giá cả các yếu tố đầu vào cho sản xuất nông nghiệp vẫn cao, và các mô hình kinh tế sản xuất nông nghiệp hàng hóa đã hình thành nhưng hiệu quả chưa cao Đáng chú ý, hơn 90% dân cư huyện tập trung ở khu vực nông thôn và chủ yếu sống dựa vào sản xuất nông nghiệp.
Uỷ ban Nhân dân huyện Thanh Oai đã tiến hành quy hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi đến năm 2010, nhưng hiện nay đã không còn phù hợp Trong bối cảnh mới, huyện cần điều chỉnh phát triển nông nghiệp để đáp ứng những thách thức và cơ hội hiện tại Câu hỏi đặt ra là hướng phát triển nông nghiệp của huyện Thanh Oai là gì, và những yếu tố nào chưa được khai thác để phát triển nông sản hàng hóa? Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu về “Phát triển sản xuất nông sản hàng hóa huyện Thanh Oai, thành phố Hà Nội” sẽ được thực hiện nhằm tìm ra các giải pháp phù hợp cho sự phát triển nông sản trong những năm tới.
Mục tiờu nghiờn cứu của ủề tài
Dựa trên thực trạng phát triển sản xuất nông sản hàng hóa và các yếu tố ảnh hưởng, bài viết đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển nông sản hàng hóa tại huyện Thanh Oai trong những năm tới.
- Hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về sản xuất hàng hoá và phát triển nông sản hàng hoá;
- đánh giá thực trạng sản xuất nông sản hàng hoá trên ựịa bàn huyện những năm qua;
- Phõn tớch ủiểm mạnh, yếu, cơ hội, thỏch thức và cỏc yếu tố ảnh hưởng ủến sản xuất nụng sản hàng hoỏ của huyện Thanh Oai;
- ðề xuất giải pháp phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoỏ trờn ủịa bàn huyện những năm tới.
ðối tượng nghiên cứu
- Những cây trồng, gia súc có tính hàng hoá cao (ngô, cam, quýt, bưởi, lợn thịt);
- Các hộ nông dân: các nhóm hộ nông dân;
- Các tổ chức xã hội có liên quan: HTX, khuyến nông;
- Cỏc chủ trương, chớnh sỏch của ủịa phương;
- Hệ thống cơ sở hạ tầng
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT NÔNG SẢN HÀNG HOÁ 6 1 Lý luận về sản xuất hàng hoá và phát triển nông sản hàng hoá
Cỏc quy luật kinh tế chủ yếu tỏc ủộng ủến quỏ trỡnh sản xuất nông sản hàng hoá
Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế cơ bản trong sản xuất và lưu thông hàng hóa, yêu cầu việc sản xuất và trao đổi hàng hóa phải dựa trên hao phí lao động xã hội cần thiết Điều này cho thấy quy luật giá trị không chỉ là một khái niệm kinh tế mà còn phản ánh quy luật xã hội của lao động sản xuất, đồng thời là yếu tố quan trọng trong việc hình thành và phát triển kinh tế thị trường.
Giá trị được thể hiện dưới hình thức tiền tệ, trong đó giá cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị Trong quá trình trao đổi, giá cả có thể tách rời khỏi giá trị và biến động xung quanh giá trị do tác động của quy luật cung cầu Trên thị trường, các hàng hóa được sản xuất trong những điều kiện khác nhau sẽ có giá trị khác nhau và phải được trao đổi theo giá trị xã hội Người sản xuất có giá trị cá biệt thấp sẽ có lợi thế cạnh tranh và thu được lợi nhuận cao, trong khi người sản xuất có giá trị cá biệt cao hơn giá trị chung sẽ gặp bất lợi và có nguy cơ phá sản.
Kinh tế phát triển dựa trên quan hệ giá trị và quy luật giá trị, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, nó sẽ chỉ là nền kinh tế hàng hóa giản đơn Bước chuyển cách mạng là từ kinh tế thị trường sơ khai sang kinh tế thị trường tư bản Mác nhấn mạnh rằng sản xuất hàng hóa và kinh tế thị trường là nền tảng cho kinh tế thị trường tư bản Lưu thông hàng hóa là khởi đầu của tư bản, và sản xuất hàng hóa phát triển là tiền đề lịch sử cho sự xuất hiện của tư bản Quá trình sản xuất là sự thống nhất giữa lao động và tạo ra giá trị, với sản xuất hàng hóa là nền tảng của kinh tế tư bản.
Trong tiến trình kinh tế của nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa, sự phát triển kinh tế thực chất là quá trình gia tăng giá trị, với nền tảng là nền kinh tế thị trường và quy luật giá trị thặng dư Quy luật này không chỉ là động lực thúc đẩy nền kinh tế mà còn là yếu tố quyết định cho quá trình tăng trưởng kinh tế Để đạt được mục tiêu gia tăng giá trị thặng dư, việc chuyển hóa giá trị thặng dư thành tư bản phụ thêm trở thành cần thiết, thể hiện quy luật kinh tế nội sinh của kinh tế tư bản Phát triển kinh tế được đặc trưng bởi quá trình mở rộng sản xuất dựa trên việc thường xuyên gia tăng thặng dư Tăng cường đầu tư vào vốn đồng nghĩa với việc gia tăng nguồn lực, lực lượng sản xuất và sức sản xuất tổng thể.
Cung nông sản hàng hóa là khái niệm chỉ lượng nông sản mà doanh nghiệp và hộ gia đình sẵn sàng bán ở mỗi mức giá trong một thời điểm nhất định, phản ánh giá cả mong đợi của họ Với các mức giá khác nhau trên thị trường, có một lượng nông sản nhất định được bán ra, mang lại lợi nhuận cho người sản xuất Giá cả nông sản đóng vai trò quyết định trong việc xác định khả năng cung ứng của người sản xuất Do đó, khi nói đến cung nông sản trên thị trường, cần phải gắn liền với từng mức giá cụ thể và trong điều kiện nhất định Mức cung nông sản hàng hóa chịu tác động của nhiều yếu tố và luôn ở trạng thái biến động, có thể được biểu diễn dưới dạng hàm cung.
Q: lượng cung nông sản hàng hoá trên thị trường x 1 , x 2 , x n : cỏc yếu tố xỏc ủịnh cung ðường cung biểu diễn mối quan hệ giữa giá cả P và sản lượng cung
Q của một loại nụng sản hàng hoỏ nào ủú
Sự sẵn sàng bán sản phẩm nông nghiệp ra thị trường của người sản xuất phụ thuộc vào một số yếu tố quan trọng Đầu tiên, giá nông sản ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất; khi giá tăng, người sản xuất có xu hướng mở rộng quy mô, ngược lại, khi giá giảm, họ sẽ thu hẹp quy mô Thứ hai, giá của sản phẩm cạnh tranh và các sản phẩm thay thế cũng đóng vai trò quan trọng Ngoài ra, sự thay đổi giá của các yếu tố đầu vào, giá sản phẩm cùng loại, trình độ kỹ thuật sản xuất, các yếu tố môi trường tự nhiên và chính sách kinh tế của Nhà nước cũng tác động đến quyết định của người sản xuất.
Ngoài giá cả, cung trong nông nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác liên quan đến đặc thù sản xuất Tình trạng phổ biến là khan hiếm hàng hóa trong các thời điểm như trổ vụ, đầu vụ, cuối vụ hoặc do thiên tai Dù giá cao nhưng vẫn không có hàng để bán, trong khi đó, khi dư cung, giá hạ cũng khó tiêu thụ hàng hóa.
Cầu nông sản hàng hóa là khái niệm chỉ lượng nông sản mà người tiêu dùng có khả năng và sẵn sàng mua ở mức giá nhất định trong những thời điểm cụ thể.
Cầu trong khái niệm này khác với nhu cầu, vì không phải mọi nhu cầu của người tiêu dùng đều được thỏa mãn Người tiêu dùng chỉ có thể mua hàng trong giới hạn tài chính của mình, tức là cầu phải có khả năng thanh toán.
Quan hệ thị trường là mối liên hệ kinh tế cơ bản giữa người sản xuất và người tiêu dùng nông sản hàng hóa Thị trường nông sản hàng hóa đạt trạng thái cân bằng khi giá cả được hình thành ở mức mà lượng nông sản hàng hóa được bán ra bằng với nhu cầu của người mua, gọi là giá cân bằng Trong bối cảnh biến động phức tạp của cung và cầu, chỉ có giá cân bằng P0 mà người mua và người bán đồng thuận mới làm cho lượng cung tương đương với lượng cầu Q0, tạo nên trạng thái cân bằng cung cầu trên thị trường nông sản hàng hóa.
Hỡnh 1.1 ðồ thị biểu diễn ủiểm cõn bằng cung cầu E
Tại điểm E (P0, Q0), người tiêu dùng sẵn sàng mua số lượng nông sản hàng hóa Q0 với giá P0, trong khi đó, người sản xuất cũng đồng ý bán số lượng nông sản hàng hóa Q0 với mức giá P0.
P 0 : giá nông sản hàng hoá ở trạng thái cân bằng
Q 0 : lượng nông sản hàng hoá tương ứng với P 0
Thị trường nông sản hàng hóa thường xuyên biến động, với trạng thái cân bằng thay đổi theo cung và cầu Nhiều yếu tố ảnh hưởng đến cầu sản phẩm, trong đó giá cả và thu nhập của người tiêu dùng có tác động mạnh mẽ nhất Do đó, hàm cầu có thể được xác định dựa trên những yếu tố này.
+ Trường hợp tỏc ủộng của giỏ:
Khối lượng sản phẩm 1 được mua tại một thời điểm nào đó phụ thuộc vào giá thị trường của sản phẩm 1 (p1) và giá thị trường của các sản phẩm thay thế (p2, p3).
R: thu nhập của người tiêu dùng
Nếu giá của sản phẩm thay thế và thu nhập của người tiêu dùng không thay đổi, thì đường cong cầu của người tiêu dùng đối với sản phẩm 1 sẽ được thể hiện trong hình 1.2.
Hỡnh 1.2 ðồ thị sự thay ủổi của giỏ ủến cầu
Qua ủồ thị cho thấy khi giỏ sản phẩm 1 tăng lờn thỡ cầu về sản phẩm
Khi thu nhập R của người tiêu dùng tăng lên, mức cầu sản phẩm cũng sẽ gia tăng Điều này cho thấy mối quan hệ tích cực giữa thu nhập và nhu cầu tiêu dùng, phản ánh qua hàm cầu.
Có thể có hai trường hợp xảy ra:
Thu nhập (R) tăng làm cho mức cầu cầu Q 1 tăng lờn ủối với những sản phẩm bình thường phù hợp với mức thiết yếu hàng ngầyhy hàng cao cấp
Những yếu tố ảnh hưởng ủến quỏ trỡnh sản xuất nụng sản hàng hoá
Yếu tố điều kiện tự nhiên đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, bao gồm đất, nước, khí hậu và thời tiết Những điều kiện này không chỉ ảnh hưởng đến loại sản phẩm được sản xuất và chất lượng của chúng mà còn hình thành các vùng sản xuất và chuyên môn hóa Vị trí địa lý cũng là yếu tố quyết định cho sự phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, với vị trí gần thị trường tiêu thụ và giao thông thuận lợi giúp giảm chi phí sản xuất và kích thích sự phát triển.
Yếu tố xã hội trong sản xuất nông sản hàng hóa đòi hỏi nguồn lao động đa dạng, vừa thường xuyên vừa thời vụ, với trình độ chuyên môn và tay nghề cao Để phát triển sản xuất hàng hóa, cần đầu tư vốn cho cơ sở hạ tầng, máy móc, thiết bị và công nghệ Vốn đầu tư cho nguyên liệu là yếu tố quyết định trong quá trình sản xuất, đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng cao và khối lượng lớn Hệ thống tưới tiêu, điện, giao thông, và công nghệ sản xuất tiên tiến cần được đầu tư để mở rộng sản xuất hiệu quả Quản lý nhà nước có vai trò quan trọng trong phát triển vùng sản xuất hàng hóa thông qua hệ thống pháp luật và chính sách hỗ trợ, tạo động lực cho sản xuất phát triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Yếu tố khoa học và công nghệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng và sản lượng nông sản, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường về an toàn thực phẩm Việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất giúp tạo ra giống cây trồng và vật nuôi có năng suất cao, chất lượng tốt, từ đó tăng cường sức cạnh tranh cho hàng hóa Ngoài ra, các tiến bộ trong bảo quản, chế biến và bao bì cũng góp phần giảm thiểu thất thoát sau thu hoạch và đảm bảo chất lượng sản phẩm Đối với Việt Nam, việc chuyển đổi từ sản xuất nông sản thủ công lạc hậu sang ứng dụng khoa học và công nghệ hiện đại là yếu tố then chốt để thúc đẩy phát triển nông sản hàng hóa và tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường.
Thị trường đóng vai trò quyết định trong việc phát triển sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nông sản Khi nhu cầu thị trường tăng, sản xuất sẽ được kích thích phát triển, ngược lại, nhu cầu giảm sẽ dẫn đến giảm sản xuất Người sản xuất cần chú trọng đến việc nắm bắt và mở rộng thị trường để đảm bảo sự ổn định cho quá trình sản xuất Thị trường không chỉ bao gồm tiêu thụ sản phẩm mà còn liên quan đến thị trường tài chính, lao động và dịch vụ, tất cả đều ảnh hưởng đến quá trình sản xuất hàng hóa Để sản xuất hàng hóa diễn ra liên tục, cần có một hệ thống tổ chức tiêu thụ và quảng bá sản phẩm hiệu quả.
* Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng
Cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của từng đơn vị kinh tế và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Sự phát triển của kết cấu hạ tầng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế và nâng cao các phúc lợi xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, thông tin đóng vai trò quan trọng đối với cả người mua và người bán, cũng như giữa người sản xuất và người tiêu dùng Hiện nay, vấn đề thông tin ở các vùng nông thôn chưa được chú trọng, dẫn đến sự phát triển kém của thị trường tại đây Thiếu thông tin hoặc thông tin không chính xác khiến người mua phải trả giá cao và người bán phải chấp nhận giá thấp, trong khi thương lái ép giá người sản xuất Điều này góp phần làm giảm giá nông sản và đẩy giá hàng công nghiệp lên cao, gây bất lợi cho nông dân Do đó, cần xây dựng hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho mạng lưới thông tin tại các vùng nông thôn nhằm thúc đẩy sự phát triển của thị trường.
Hệ thống giao thông và phương tiện vận chuyển được củng cố và nâng cao để đảm bảo việc vận chuyển nông sản hàng hóa đến mọi nơi một cách nhanh chóng Khối lượng hàng hóa nhập khẩu lớn đòi hỏi hệ thống kho tàng, bến bãi và cảng biển với thiết bị hiện đại có công suất lớn Ngày nay, nhu cầu về sản phẩm chất lượng và tiện lợi ngày càng cao, yêu cầu các sản phẩm phải được sản xuất trên những máy móc thiết bị hiện đại Do đó, cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu hạ tầng hiện đại là nền tảng quan trọng cho việc sản xuất hàng hóa, đặc biệt là nông sản hàng hóa.
Trình độ dân trí là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất nông sản hàng hóa Nếu trình độ dân trí quá thấp, cơ cấu kinh tế sẽ thay đổi chậm, dẫn đến những sai lầm trong quyết định đầu tư sản xuất Nông dân thường chọn phương thức sản xuất cũ vì cảm thấy an toàn, từ đó làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế Do đó, để thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hóa, cần nâng cao khoa học kỹ thuật và kiến thức kinh tế cho nông dân và chủ trang trại.
Quản lý vĩ mô của Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường ổn định và linh hoạt, giúp thúc đẩy đổi mới liên tục về cơ cấu và công nghệ sản xuất Điều này không chỉ phù hợp với thực tế mà còn góp phần tạo ra tốc độ tăng trưởng và phát triển nhanh chóng cho nền kinh tế.
Một thể chế không phù hợp có thể gây ra những cản trở đối với sự ổn định, thậm chí dẫn đến sự phá vỡ các mối quan hệ cơ bản, khiến nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái.
Nhà nước thực hiện chức năng của mình thông qua việc sản xuất hàng hóa công cộng, sử dụng công cụ thuế để điều tiết thu nhập và kiểm soát các hoạt động gây hại đến môi trường Các công cụ tài chính và tiền tệ của nhà nước ảnh hưởng đến sản xuất, việc làm và giá cả trong nền kinh tế Trong phát triển sản xuất nông sản hàng hóa, các yếu tố tác động có vai trò tổng hợp, trong đó yếu tố thị trường và quản lý vĩ mô của nhà nước là quan trọng nhất Chính sách của nhà nước, đặc biệt là các chính sách liên quan đến phát triển nông nghiệp, khoa học công nghệ, có vai trò định hướng sản xuất nông sản hàng hóa Những chính sách này tác động trực tiếp đến quyết định sản xuất của người dân, và việc xây dựng cơ sở hạ tầng vững mạnh cùng định hướng thị trường chính xác sẽ phát huy các yếu tố khác, đồng thời thúc đẩy sản xuất nông sản hàng hóa.
Thực tiễn sản xuất nông sản hàng hoá ở một số nước trên thế giới và Việt Nam
2.4.1 Thực tiễn sản xuất nông sản hàng hoá ở một số nước trên thế giới a Trung Quốc
Cải cách cơ chế quản lý kinh tế tại Trung Quốc đã trải qua ba giai đoạn phát triển, từ thấp đến cao, với sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường Quá trình này diễn ra dần dần, phản ánh sự chuyển biến trong cách thức quản lý kinh tế, nhằm tối ưu hóa hiệu quả và tăng cường tính cạnh tranh của nền kinh tế Sự kết hợp này không chỉ tạo ra những cải cách cần thiết mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Một là, thừa nhận kế hoạch là công cụ chính, còn thị trường là phụ ủể ủiều tiết nền kinh tế
Hai là, ủi ủến nhất trớ là phải kết hợp kế hoạch với thị trường trong ủiều tiết kinh tế
Ba là, từ tháng 10/1992, Việt Nam đã chuyển sang tư tưởng phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, phân biệt với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thông qua sở hữu tư liệu sản xuất, phân phối và mục tiêu kinh tế - xã hội Kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc dựa trên sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất, với phương thức phân phối lợi ích cho đại đa số nhân dân lao động, đồng thời chú trọng phân phối theo lao động và sở hữu tài sản Trong khi kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa tập trung vào hiệu quả mà bỏ qua công bằng xã hội, thì kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa coi trọng cả công bằng xã hội lẫn hiệu quả Trung Quốc đã thực hiện một số biện pháp nhằm đạt được những mục tiêu này.
Giảm bớt chỉ tiêu ủy quyền sản xuất, sản phẩm công nghiệp trong kế hoạch pháp lệnh do Nhà nước quản lý đã giảm từ 120 loại xuống còn 60 loại Đồng thời, tỷ lệ sản phẩm trong kế hoạch pháp lệnh cũng giảm từ 40% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp xuống còn 20%.
Phạm vi thực hiện kế hoạch pháp lệnh chủ yếu tập trung ở hai cấp: Trung ương và các tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương Các chỉ tiêu pháp lệnh được giao cho doanh nghiệp thông qua các hình thức Nhà nước đặt hàng.
Trong điều kiện thực hiện nhiệm vụ đặt hàng của nhà nước, xí nghiệp có quyền lập kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm hàng năm dựa trên nhu cầu thị trường và điều kiện của mình Điều này cho phép xí nghiệp tự chủ trong kinh doanh và tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động kinh doanh.
Chính sách đất đai và khoán ở Trung Quốc hiện nay vẫn giữ quyền sở hữu đất đai thuộc về Nhà nước Quyền sở hữu và quyền sử dụng đất được tách biệt thông qua hình thức khoán ruộng đất cho tập thể, sau đó là khoán cho các hộ gia đình Điều này đánh dấu bước đầu hình thành cơ sở cho thị trường đất đai Nhà nước quản lý đất nông nghiệp và giao khoán cho nông dân thông qua hình thức nhận khoán Đồng thời, Nhà nước cũng công nhận đất đai là hàng hóa Thị trường đất đai ở Trung Quốc chính thức hình thành từ tháng 12/1987.
* Chớnh sỏch chuyển ủổi cơ cấu kinh tế
Trung Quốc đang thực hiện chính sách phát triển đa dạng các thành phần kinh tế, không chỉ tập trung vào sở hữu công cộng với các doanh nghiệp nhà nước Chính phủ khuyến khích sự phát triển của nhiều loại hình kinh tế khác nhau, bao gồm kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân, các hình thức chung vốn và cổ phần kinh doanh, cũng như các doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài.
Cải cách kinh tế nông thôn Trung Quốc được chia thành hai giai đoạn chính Giai đoạn đầu từ năm 1978 đến 1984, đến cuối năm 1984, cả nước có 5,69 triệu hộ sản xuất, trong đó 99% số hộ thực hiện khoán sản lượng hay khoán toàn bộ Giai đoạn này đã chiếm 98,2% số thôn, 96,3% số hộ, và 98,6% sản lượng canh tác trên toàn quốc.
Vào năm 2000, chính phủ tập trung vào việc phát triển sản xuất hàng hóa và sử dụng lực lượng lao động ở nông thôn thông qua một loạt chính sách Những chính sách này bao gồm tăng cường phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa, hình thành nhiều hình thức thương mại, cải cách cơ chế hợp tác xã, và thực hiện thu mua theo hợp đồng cũng như mua bán tự do trên thị trường Đồng thời, chính phủ khuyến khích phát triển hộ chuyên, tạo điều kiện thuận lợi về vốn cho các gia đình sản xuất chuyên môn hóa nhằm tăng nhanh sản phẩm hàng hóa Bên cạnh đó, việc khuyến khích phát triển doanh nghiệp Hương Trấn và dịch vụ cũng góp phần tạo ra sự chuyển biến trong phân công lao động và tận dụng lao động dư thừa ở nông thôn Cuối cùng, đầu tư cho nông nghiệp được đẩy mạnh để nâng cao hiệu quả sản xuất.
HTX đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển toàn diện hợp tác ở nông thôn thông qua ba hình thức chính: tổ chức hợp tác khu vực, tổ chức hợp tác chuyên môn hóa phục vụ nông nghiệp theo ngành nghề, và tổ chức hợp tác liên ngành giữa nông nghiệp, công nghiệp và thương mại Mối quan hệ giữa HTX và hộ nhận khoán là yếu tố then chốt để nâng cao hiệu quả sản xuất và phát triển kinh tế bền vững trong cộng đồng nông thôn.
Mối quan hệ giữa hộ gia đình nhận khoán và hợp tác xã (HTX) được thể hiện qua hình thức khoán toàn bộ, với luận cứ khoa học và thực tiễn về quản lý của HTX trên ba khía cạnh chính: kết hợp giữa nguyên tắc thống nhất và phân tán kinh doanh, đảm bảo ưu việt của tập thể và phát huy tính tích cực của cá nhân; sự sáng tạo và phát triển mới trong lý luận hợp tác hóa nông nghiệp; và tác dụng xoá bỏ sự trì trệ trong sản xuất nông nghiệp, thúc đẩy chuyển đổi từ kinh tế tự cấp và nửa tự cấp sang sản xuất hàng hóa.
Trong nông nghiệp, sự đa dạng trong quan hệ sở hữu thể hiện rõ nét qua sự phát triển mạnh mẽ của các xí nghiệp Hương Trấn Các xí nghiệp này đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế nông thôn từ năm.
1987 khi ngư nụng dõn ủược xỏc lập vai trũ sản xuất và kinh doanh hàng hoỏ ở nông thôn
Xí nghiệp Hương Trấn được hình thành từ nhiều thành phần kinh tế, bao gồm xí nghiệp tập thể do xã, thôn lập ra, xí nghiệp do liên hội nông dân thành lập, và cả những xí nghiệp cá thể Tuy nhiên, lực lượng chủ yếu tạo nên xí nghiệp Hương Trấn là nông dân Những xí nghiệp này đã góp phần quan trọng trong việc thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội ở nông thôn Trung Quốc.
Trung Quốc đã liên tục điều chỉnh chính sách tăng giá thu mua nông sản, với mức tăng lên 20,1% vào năm 1974, 8,1% vào năm 1980, và từ năm 1981 mỗi năm tăng 3% Giá mua ngũ cốc không vượt quá 50% giá trong nghĩa vụ, trong khi nông sản thừa được bán theo giá thỏa thuận Chính phủ đã xóa bỏ cơ chế thu mua nông sản độc quyền và chuyển sang cơ chế mua theo hợp đồng, đồng thời thay thế việc nộp thuế bằng hiện vật bằng hình thức nộp tiền mặt.
Giai đoạn 2, từ năm 1984 - 1988, chủ yếu áp dụng phương thức nới lỏng giá cả thông qua ba phương án, tập trung vào việc điều chỉnh giá nông sản và 10 loại hàng tiêu dùng công nghiệp Cơ chế hai giỏ được thực hiện đối với tư liệu sản xuất công nghiệp, đồng thời điều chỉnh một phần cơ cấu giá cả nhằm nâng cao khả năng thích ứng của giá mua lương thực, giá một số loại thuốc lá, rượu, và giá mua bốn loại thực phẩm chủ yếu tại thành phố.
* Chính sách tự do hoá thương mại
- Về lưu thụng, tiờu thụ trờn thị trường nội ủịa: cho ủến cuối năm