Tổng quan về lãi suất
Khái niệm lãi suất
Khi vay tín dụng, người vay không chỉ hoàn trả vốn gốc mà còn phải trả thêm một khoản lãi suất Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của khoản tiền tăng thêm so với số vốn vay ban đầu Đây chính là chi phí mà người sử dụng phải trả cho quyền sử dụng vốn trong một khoảng thời gian nhất định.
Lãi suất phản ánh giá trị thời gian của tiền tệ, khi đồng tiền hôm nay có giá trị cao hơn đồng tiền nhận được trong tương lai Người cho vay chuyển quyền sử dụng vốn cho người vay, đánh đổi quyền sử dụng tiền tệ hiện tại với hy vọng nhận lại nhiều hơn trong tương lai Sự chuyển nhượng vốn chỉ xảy ra khi có lợi nhuận đủ lớn để bù đắp cho giá trị thời gian của tiền tệ.
Lãi suất có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định tiêu dùng và tiết kiệm của cá nhân, đồng thời tác động đến việc phân bổ vốn đầu tư của doanh nghiệp và hộ gia đình, như việc chọn giữa đầu tư vào máy móc hay gửi tiết kiệm Ở cấp độ xã hội, những quyết định này ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia Do lãi suất phản ánh chi phí sử dụng tiền của người khác, việc xác định chính xác mức lãi suất là rất quan trọng trong quá trình cấp và nhận tín dụng.
Bản chất của lãi suất
Lãi suất là một lĩnh vực phức tạp, liên quan đến nhiều mối quan hệ và mâu thuẫn trực tiếp với lợi ích vật chất trong xã hội Nhà kinh tế học A.Poial đã khẳng định rằng lãi suất có thể là công cụ tích cực trong phát triển kinh tế, nhưng cũng có thể kìm hãm sự phát triển nếu không được sử dụng khôn ngoan Sự tổng hợp, đa dạng và phức tạp của lãi suất trong tiến trình phát triển kinh tế đã dẫn đến nhiều tranh cãi và quan niệm khác nhau.
Khi thảo luận về bản chất của lãi suất, người ta thường so sánh quan niệm của Mác với các nhà kinh tế hiện đại Mác nhấn mạnh rằng nguồn gốc của lãi suất là giá trị thặng dư và lãi suất phản ánh giá trị quyền sử dụng vốn Trong khi đó, các nhà kinh tế hiện đại coi lãi suất là giá mua và giá bán quyền sử dụng vốn, đồng thời xem lãi suất tiết kiệm như phần thưởng cho việc tiết chế tiêu dùng hiện tại nhằm đạt được tiêu dùng lớn hơn trong tương lai Mặc dù không đi sâu vào nguồn gốc của lãi suất, quan niệm này nhấn mạnh tính hoàn trả trong tín dụng, bao gồm cả gốc và lãi, là trách nhiệm của người vay Điều này bổ sung lý thuyết về lãi suất của Mác trong bối cảnh kinh tế hiện nay.
Phân loại lãi suất
Khi nói đến lãi suất, chúng ta thấy có rất nhiều loại lãi suất khác nhau và phạm vi hoạt động của chúng cũng khác nhau.
- Phân loại theo nguồn vốn sử dụng trong ngân hàng sẽ bao gồm: lãi suất huy động và lãi suất cho vay.
Lãi suất huy động vốn, hay còn gọi là lãi suất tiền gửi, là tỷ lệ lãi suất mà ngân hàng trả cho các khoản tiền gửi của khách hàng Mức lãi suất này phụ thuộc vào thời gian gửi tiền và quy mô của khoản tiền gửi, với nhiều mức khác nhau để đáp ứng nhu cầu của người gửi.
Lãi suất cho vay vốn là khoản lãi mà người vay phải trả cho ngân hàng khi sử dụng vốn vay Mức lãi suất này được áp dụng để tính toán số tiền lãi mà khách hàng cần trả, và thường cao hơn mức lãi suất tiền gửi bình quân Ngoài ra, lãi suất cho vay còn phụ thuộc vào thời hạn vay và mức độ rủi ro của từng khoản vay.
- Phân loại theo giá trị thực: lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực
Lãi suất danh nghĩa là tỷ lệ lãi suất được tính dựa trên giá trị danh nghĩa của tiền tệ tại thời điểm nghiên cứu, chưa bao gồm tác động của tỷ lệ lạm phát Đây là loại lãi suất thường được công bố chính thức trong các giao dịch tín dụng.
Lãi suất thực tế là lãi suất đã được điều chỉnh để phản ánh những biến động của lạm phát, tức là lãi suất đã loại bỏ tỷ lệ lạm phát.
Lãi suất thực có 2 loại:
Lãi suất thực trước (dự tính): là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi dự tính về lạm phát.
Lãi suất thực tính sau: là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi thực tế về lạm phát.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa, lãi suất thực và lạm phát được Irving Fisher, một trong những chuyên gia kinh tế tiền tệ hàng đầu thế kỷ XX, trình bày qua phương trình Fisher.
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát
- Phân loại theo mức độ ổn định của lãi suất: lãi suất cố định và lãi suất thả nổi.
+ Lãi suất cố định: là lãi suất được áp dụng cố định trong suốt thời hạn vay
Sản phẩm tài chính này mang lại lợi ích cho cả người gửi và người vay khi họ đều biết trước số tiền lãi sẽ nhận được và phải trả Tuy nhiên, nhược điểm lớn là các bên sẽ bị ràng buộc vào một lãi suất cố định trong một khoảng thời gian nhất định, điều này khiến cho tổ chức cung ứng tín dụng và người vay khó có khả năng điều chỉnh linh hoạt trước những biến động của cung cầu vốn trên thị trường tài chính.
Lãi suất thả nổi là loại lãi suất có khả năng thay đổi theo biến động của lãi suất thị trường, có thể được thông báo trước hoặc không Dù cả người vay và người cho vay không thể xác định chính xác mức lãi suất phải trả, loại lãi suất này lại phù hợp trong môi trường đầu tư không ổn định, nơi mà các yếu tố ảnh hưởng đến lãi suất thường khó dự đoán.
Mối quan hệ giữa lãi suất tiền gửi và tiền vay trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng
Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng, lãi suất cho vay luôn lớn hơn lãi suất huy động để đảm bảo lợi nhuận cho các tổ chức này Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay và lãi suất huy động được xác định bởi quy luật kinh doanh tiền tệ.
LS cho vay = LS huy động + Chi phí + Rủi ro tối thiểu + Lợi nhuận
Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế thị trường
a) Lãi suất là phương tiện kích thích lợi ích vật chất để thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế:
Lãi suất là một loại giá cả đặc biệt trong giao dịch vốn tiền tệ, chịu ảnh hưởng bởi quy luật cung cầu thị trường Để thu hút nguồn vốn nhàn rỗi từ các chủ thể kinh tế, ngân hàng cần cung cấp dịch vụ tốt và đưa ra mức lãi suất hợp lý, hấp dẫn Lãi suất huy động cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư của khách hàng, từ đó giúp ngân hàng tăng cường huy động vốn Vì vậy, lãi suất không chỉ là một công cụ tài chính mà còn là yếu tố quan trọng trong việc kích thích đầu tư và phát triển kinh tế.
Mức lãi suất cho vay hợp lý không chỉ kích thích nhà đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, mà còn tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội, tăng thu nhập quốc dân và hạn chế thất nghiệp Điều này góp phần nâng cao mức sống của người dân, từ đó thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Lãi suất cũng đóng vai trò quan trọng như một đòn bẩy cho ngân hàng và doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn một cách hiệu quả để đảm bảo khả năng hoàn trả Ngân hàng, với nhiệm vụ huy động vốn để cho vay, cần áp dụng các biện pháp thu hút nguồn vốn nhàn rỗi và thực hiện cho vay hiệu quả, đáp ứng yêu cầu hạch toán kinh tế Cuối cùng, lãi suất còn là một công cụ quan trọng để đánh giá "sức khỏe" của nền kinh tế.
Dựa vào sự biến động lãi suất, có thể dự đoán các yếu tố kinh tế như tính sinh lời của cơ hội đầu tư, tình hình tiền tệ và triển vọng kinh tế trong tương lai Điều này giúp ngân hàng và doanh nghiệp chuẩn bị và lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
Sự thay đổi lãi suất có tác động lớn đến nhu cầu đầu tư và xuất khẩu, từ đó ảnh hưởng đến tổng sản phẩm quốc dân Bên cạnh đó, lãi suất cũng tác động đến nhu cầu tiêu dùng và cầu hàng hóa Như vậy, lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc điều tiết sản xuất, tiêu dùng và cân bằng cung cầu hàng hóa.
Lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia Ngân hàng trung ương sử dụng công cụ lãi suất để thắt chặt hoặc mở rộng cung tiền, kiểm soát lạm phát và kích cầu nhằm hạn chế tình trạng giảm phát, từ đó góp phần ổn định thị trường và thúc đẩy phát triển kinh tế.
Rủi ro lãi suất
Khái niệm rủi ro lãi suất
Timothy W Koch defines interest rate risk as the potential fluctuations in net interest income and the market value of a bank's capital that arise from changes in interest rates.
Thomas P Fitch defines interest rate risk as the potential for market interest rate fluctuations to decrease the value of income-generating assets.
Rủi ro lãi suất là nguy cơ xảy ra khi có sự biến động của lãi suất thị trường hoặc các yếu tố liên quan, gây ra tổn thất tài sản hoặc giảm thu nhập cho ngân hàng.
Rủi ro lãi suất liên quan đến sự khác biệt trong cấu trúc thời hạn giữa tài sản và nợ, bao gồm huy động vốn và cho vay, cùng với sự biến động của lãi suất thị trường Rủi ro này xảy ra trong hai trường hợp cụ thể.
Thời hạn cho vay với lãi suất cố định thường dài hơn so với vay với lãi suất biến đổi, nhưng điều này cũng mang lại rủi ro khi lãi suất thị trường tăng.
Ví dụ: Huy động tiền gửi có thời hạn 3 tháng và cho vay có thời hạn 6 tháng, rủi ro xảy ra khi lãi suất thị trường tăng lên.
Biểu đồ 1.1: Rủi ro khi lãi suất thị trường tăng
Thời hạn vay với lãi suất cố định ngắn thường có lợi hơn so với vay dài hạn, tuy nhiên, rủi ro lãi suất có thể xảy ra nếu lãi suất thị trường giảm.
Ví dụ: Huy động tiền gửi có kỳ hạn 6 tháng và cho vay có kỳ hạn 3 tháng.
Biểu đồ 1.2: Rủi ro khi lãi suất thị trường giảm
Khi áp dụng lãi suất thả nổi, rủi ro xuất hiện khi lãi suất thị trường tăng hoặc giảm, liên quan đến sự chênh lệch về thời hạn định giá giữa tài sản và nợ.
Khi lãi suất tăng, ngân hàng sẽ đối mặt với rủi ro từ các khoản vay có thời hạn định giá khác nhau, chẳng hạn như khoản vay 3 tháng và khoản cho vay 6 tháng.
Trong cơ chế kế hoạch hóa, lãi suất tiền gửi và cho vay do Ngân hàng Nhà nước quy định ổn định trong thời gian dài, dẫn đến việc không có hoặc rất ít rủi ro lãi suất Tuy nhiên, khi nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường, tính ổn định của lãi suất bị phá vỡ, đặc biệt là vào cuối những năm 1990 khi lãi suất quy định thay đổi thường xuyên (4-5 lần mỗi năm) Bắt đầu từ năm 2002, cơ chế lãi suất thỏa thuận được áp dụng, làm lộ rõ rủi ro lãi suất và yêu cầu các ngân hàng phải chú trọng quản trị rủi ro để hạn chế tổn thất.
Nguyên nhân dẫn đến rủi ro lãi suất
1.2.2.1 Khi xuất hiện sự không cân xứng về kỳ hạn giữa tài sản Có và tài sản Nợ:
Khi ngân hàng huy động vốn ngắn hạn để cho vay và đầu tư dài hạn, rủi ro xảy ra nếu lãi suất huy động tăng lên trong những năm tiếp theo, trong khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn vẫn giữ nguyên Điều này đặc biệt đúng trong trường hợp kỳ hạn của tài sản có lớn hơn kỳ hạn của tài sản nợ.
Khi kỳ hạn của tài sản có ngắn hơn kỳ hạn của tài sản nợ, ngân hàng sẽ huy động vốn dài hạn để cho vay và đầu tư ngắn hạn Rủi ro xảy ra nếu lãi suất huy động không thay đổi trong khi lãi suất cho vay và đầu tư dài hạn giảm.
1.2.2.2 Do các ngân hàng áp dụng các loại lãi suất khác nhau trong quá trình huy động vốn và cho vay:
Ngân hàng có thể huy động vốn với lãi suất cố định để cho vay và đầu tư với lãi suất biến đổi Khi lãi suất thị trường giảm, ngân hàng sẽ phải đối mặt với rủi ro lãi suất, do chi phí lãi suất cố định không thay đổi trong khi thu nhập từ lãi suất giảm, dẫn đến lợi nhuận của ngân hàng bị ảnh hưởng tiêu cực.
Ngân hàng huy động vốn với lãi suất biến đổi để cho vay và đầu tư với lãi suất cố định, điều này dẫn đến rủi ro lãi suất khi lãi suất thị trường tăng Khi chi phí lãi vay tăng trong khi thu nhập lãi không thay đổi, lợi nhuận của ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng và giảm sút.
1.2.2.3 Do có sự không phù hợp về khối lượng giữa nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn để cho vay:
- Ngân hàng huy động vốn 100, lãi suất 1%/tháng, thời hạn 6 tháng, chi phí lãi
- Cho vay 60, lãi suất 1,2%/tháng, thời hạn 6 tháng, thu nhập lãi
=> Ngân hàng không sử dụng hết nguồn vốn huy động để cho vay: Lợi nhuận giảm 1,68.
1.2.2.4 Do không có sự phù hợp về thời hạn giữa nguồn vốn huy động với việc sử dụng nguồn vốn đó để cho vay:
- Ngân hàng huy động 100, thời hạn 6 tháng, chi phí lãi = 100 x 1% x 6 = 6.
- Cho vay 100, lãi suất 1,2%/tháng, thời hạn 3 tháng, thu nhập lãi
=> Ngân hàng huy động vốn với thời hạn dài nhưng cho vay với thời hạn ngắn hơn: Lợi nhuận giảm 2,4.
1.2.2.5 Do tỷ lệ lạm phát dự kiến không phù hợp với tỷ lệ lạm phát thực tế -> vốn ngân hàng không được bảo toàn sau khi cho vay:
Lãi suất cho vay danh nghĩa = Lãi suất thực + Tỷ lệ lạm phát dự kiến
Ví dụ: Khi dự kiến lãi suất cho vay 8% = 3% (lãi suất thực) + 5% (dự kiến tỷ lệ lạm phát)
Nhưng nếu sau khi cho vay tỷ lệ lạm phát thực tế là 8% thì lãi suất thực ngân hàng được hưởng sẽ là 0%.
1.2.2.6 Khi lãi suất thị trường thay đổi, ngân hàng còn có thể gặp rủi ro giảm giá trị tài sản:
Giá trị thị trường của tài sản Có và tài sản Nợ phụ thuộc vào giá trị hiện tại của tiền tệ Khi lãi suất thị trường tăng, mức chiết khấu giá trị tài sản cũng tăng, dẫn đến giảm giá trị hiện tại của tài sản Có và Nợ Ngược lại, khi lãi suất thị trường giảm, giá trị của tài sản Có và Nợ sẽ tăng lên.
Đánh giá rủi ro lãi suất
1.2.3.1 Hệ số chênh lệch lãi thuần (còn gọi là hệ số thu nhập lãi ròng cận biên NIM – Net Interest Margin)
Thu nhập lãi – Chi phí lãi
Hệ số chênh lệch lãi thuần = x 100%
(NIM) ∑ Tài sản Có sinh lời
- Thu nhập lãi: lãi cho vay, đầu tư, lãi tiền gửi tại ngân hàng khác, lãi đầu tư chứng khoán…
- Chi phí lãi: chi phí huy động vốn, đi vay …
- Tổng tài sản Có sinh lời = Tổng tài sản Có – Tiền mặt & tài sản cố định.
Hệ số lãi ròng biên tế (NIM) là chỉ số quan trọng mà các chủ ngân hàng theo dõi để dự đoán khả năng sinh lãi của ngân hàng Nó được xác định dựa trên việc kiểm soát tài sản sinh lời và tìm kiếm nguồn vốn với chi phí thấp nhất Nếu chi phí huy động vốn tăng nhanh hơn lãi thu từ cho vay và đầu tư, hoặc nếu lãi thu từ cho vay và đầu tư giảm nhanh hơn chi phí huy động vốn, NIM sẽ bị thu hẹp, dẫn đến rủi ro lãi suất gia tăng.
1.2.3.2 Hệ số rủi ro lãi suất (R) – Khe hở nhạy cảm lãi suất (Interest rate sensitive gap):
Hệ số rủi ro lãi suất (R) = Tài sản Có nhạy lãi – Tài sản Nợ nhạy lãi
Tài sản Có nhạy cảm với lãi suất (có thể được định giá lại) bao gồm :
- Các khoản cho vay có lãi suất biến đổi.
- Các khoản cho vay ngắn hạn (cho vay thương mại) với thời hạn dưới n tháng.
- Các khoản cho vay có thời hạn còn lại dưới n tháng.
- Chứng khoán có thời hạn còn lại dưới n tháng (trái phiếu chính phủ, công ty, xí nghiệp…)
Tiền gửi trên thị trường liên ngân hàng và tiền gửi không kỳ hạn tại các ngân hàng thương mại khác thường có thời gian đáo hạn dưới một tháng Các khoản đầu tư tài chính này cũng có đặc điểm tương tự, với thời gian đến hạn ngắn, giúp tối ưu hóa tính thanh khoản cho nhà đầu tư.
Tài sản Nợ nhạy cảm với lãi suất (có thể được định giá lại) bao gồm :
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi giao dịch) và tiết kiệm không kỳ hạn của khách hàng.
- Tiền gửi có kỳ hạn và tiết kiệm có kỳ hạn thời hạn còn lại dưới n tháng.
- Các khoản vay ngắn hạn trên thị trường tiền tệ với thời hạn dưới n tháng (vay qua đêm, vay tái chiết khấu thời hạn dưới n tháng).
Các trường hợp có thể xảy ra:
(a) R = 0: Tài sản Có nhạy cảm với lãi suất = Tài sản Nợ nhạy cảm với lãi suất.
Trong trường hợp lãi suất thay đổi, dù tăng hay giảm, lợi nhuận của ngân hàng vẫn không bị ảnh hưởng, vì sự thay đổi trong thu nhập lãi và chi phí lãi luôn cân bằng.
Ví Dụ: Tài sản Có nhạy cảm lãi suất = Tài sản Nợ nhạy cảm lãi suất = 100
- Lãi suất thị trường tăng (+0,5%):
=> Mức tăng của lợi nhuận = Mức tăng của thu nhập – Mức tăng của chi phí = 0 Khi lãi suất tăng, lợi nhuận của ngân hàng không bị ảnh hưởng.
- Lãi suất của thị trường giảm (-0,5%):
=> Mức giảm của lợi nhuận = (-0,5) – (-0,5) = 0
Khi R = 0, cho dù lãi suất thị trường tăng hay giảm thì rủi ro lãi suất không xuất hiện (NIM của ngân hàng không thay đổi).
(b) R > 0: Tài sản Có nhạy cảm với lãi suất > Tài sản Nợ nhạy cảm với lãi suất – Khe hở dương
- Lãi suất thị trường tăng (+0,5%):
=> Mức tăng của lợi nhuận = (+0,5) – (+0,4) = + 0,1.
Rủi ro lãi suất không xuất hiện mà lợi nhuận ngân hàng còn được tăng NIM của ngân hàng tăng.
- Lãi suất thị trường giảm (-0,5%)
=> Mức giảm của lợi nhuận = (-0,5) – (-0,4) = - 0,1.
Khi R > 0, lãi suất thị trường giảm rủi ro lãi suất xuất hiện (NIM của ngân hàng giảm).
(c) R < 0: Tài sản Có nhạy cảm lãi suất < Tài sản Nợ nhạy cảm lãi suất–Khe hở âm
Vẫn áp dụng ví dụ trên:
- Lãi suất thị trường tăng (+0,5%):
=> Mức giảm của lợi nhuận = (+0,4) – (+0,5) = - 0,1.
Rủi ro lãi suất xuất hiện NIM của ngân hàng giảm.
- Lãi suất thị trường giảm (-0,5%)
=> Mức tăng của lợi nhuận = (-0,4) – (-0,5) = 0,1.
Khi R < 0, Rủi ro lãi suất xuất hiện khi lãi suất thị trường tăng.
Từ các ví dụ trên, ta có kết luận chung:
R = 0: Rủi ro lãi suất không xuất hiện.
R > 0: Rủi ro xuất hiện khi lãi suất thị trường giảm.
R < 0: Rủi ro xuất hiện khi lãi suất thị trường tăng.
Mức thay đổi lợi nhuận = (Tổng tài sản Có nhạy lãi – Tổng tài sản Nợ nhạy lãi) x Mức thay đổi lãi suất
Khoảng cách hay khe hở nhạy cảm lãi suất, được thể hiện qua hiệu số trong công thức, là một khái niệm quan trọng trong phân tích tài chính Phương pháp này, gọi là phân tích khoảng cách nhạy cảm lãi suất, giúp đánh giá sự ảnh hưởng của biến động lãi suất đến lợi nhuận của các tổ chức tài chính.
1.2.3.3 Khe hở kỳ hạn (Duration Gap):
Nhược điểm của việc dựa vào khe hở nhạy cảm lãi suất để đánh giá rủi ro lãi suất là thiếu sót trong việc nghiên cứu tác động của rủi ro lãi suất đến giá trị thị trường của vốn, chỉ chú trọng vào số liệu kế toán Phương pháp này không cung cấp thông tin đầy đủ về mức độ rủi ro lãi suất tổng thể của ngân hàng Do đó, cần có một phương pháp đo lường và kiểm soát rủi ro lãi suất hiệu quả hơn, như phương pháp dựa vào khe hở kỳ hạn, nhằm khắc phục những hạn chế này.
Kỳ hạn hoàn vốn Kỳ hạn hoàn trả Tổng nợ
Khe hở kỳ hạn = - x trung bình của tài sản trung bình của nợ Tổng tài sản
Kỳ hạn hoàn vốn của tài sản là khoảng thời gian trung bình cần thiết để thu hồi vốn đầu tư ban đầu, dựa trên dòng tiền dự kiến nhận được trong tương lai.
Kỳ hạn hoàn trả của tài sản nợ là thời gian trung bình cần thiết để hoàn trả khoản vốn đã huy động, phản ánh thời gian trung bình của dòng tiền dự kiến ra khỏi ngân hàng, bao gồm cả thanh toán lãi và vốn vay.
Công thức xác định kỳ hạn hoàn vốn và kỳ hạn hoàn trả của một công cụ tài chính như sau:
∑ Dòng tiền dự tính trong khoảng thời gian t x
DA: Kỳ hạn hoàn vốn của công cụ tài chính t: Thời gian khoản tiền được thanh toán.
Cft: Giá trị khoản tiền dự tính được thanh toán trong giai đoạn t.
∑ Cf t : Giá trị hiện tại của công cụ tài chính
YTM: Tỷ lệ thu nhập khi công cụ tài chính đến hạn.
Một ngân hàng cung cấp cho khách hàng khoản vay 1.000 USD với thời gian trả nợ là 5 năm và lãi suất 10% mỗi năm Kỳ hạn hoàn vốn của khoản vay này sẽ được xác định dựa trên các điều kiện cụ thể của hợp đồng vay.
- Ta có YTM = 10% nên giá trị thị trường của khoản vay cũng là 1.000 USD.
- Thay số liệu trên vào công thức, ta có:
Giá trị ròng của ngân hàng (NW) = A – L
A: Giá trị của tổng tài sản
L: Giá trị của tổng vốn huy động
Khi lãi suất thay đổi, giá trị của tổng tài sản và vốn huy động thay đổi làm cho giá trị ròng của ngân hàng thay đổi theo:
Khi lãi suất tăng, giá trị thị trường của tổng tài sản và tổng vốn huy động có lãi suất cố định và kỳ hạn dài sẽ giảm.
Ta có thể tính được mức tăng giảm giá trị ròng của ngân hàng theo công thức sau:
NW: Mức thay đổi giá trị ròng của ngân hàng.
DA : Kỳ hạn hoàn vốn trung bình theo giá trị của danh mục tài sản.
A: Tổng giá trị của tài sản.
DL : kỳ hạn hoàn trả trung bình theo giá trị của danh mục nợ.
∆r : Mức thay đổi của lãi suất. r: lãi suất ban đầu.
- Khi khe hở kỳ hạn dương (Kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản > Kỳ hạn hoàn trả trung bình nợ):
+ Nếu lãi suất tăng sẽ làm giảm giá trị ròng của ngân hàng.
+ Nếu lãi suất giảm sẽ làm tăng giá trị ròng của ngân hàng.
- Khi khe hở kỳ hạn âm (Kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản < Kỳ hạn hoàn trả trung bình nợ):
+ Nếu lãi suất tăng sẽ làm tăng giá trị ròng của ngân hàng.
+ Nếu lãi suất giảm sẽ làm giảm giá trị ròng của ngân hàng.
Khi khe hở kỳ hạn bằng không, tức là kỳ hạn hoàn vốn trung bình của tài sản bằng với kỳ hạn hoàn trả của nợ, giá trị ròng của ngân hàng sẽ không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi lãi suất Điều này có nghĩa là sự tăng giảm của giá trị tài sản sẽ được cân bằng hoàn toàn với sự tăng giảm của giá trị nợ.
Tác động của rủi ro lãi suất đối với hoạt động kinh doanh của NHTM
Sự thay đổi của lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập tương lai của ngân hàng, làm biến động giá trị kinh tế của tài sản và nguồn vốn.
Thay đổi lãi suất đã ảnh hưởng đáng kể đến lợi nhuận thuần và báo cáo thu nhập của ngân hàng, phản ánh phương pháp truyền thống trong đánh giá rủi ro lãi suất Sự biến động trong thu nhập là yếu tố then chốt trong phân tích rủi ro lãi suất, vì thu nhập giảm hoặc tổn thất tài chính có thể làm suy yếu sự ổn định tài chính của các tổ chức tài chính, từ đó giảm niềm tin của thị trường.
Yếu tố thu nhập quan trọng nhất là thu nhập ròng từ lãi suất, phản ánh chênh lệch giữa tổng thu nhập từ lãi cho vay và chi phí lãi suất huy động Sự thay đổi của lãi suất sẽ ảnh hưởng đến cả thu nhập và chi phí, dẫn đến biến động trong thu nhập lãi suất.
Thu nhập từ lãi suất = Tổng thu nhập từ lãi suất – Tổng chi phí về lãi suất
Khi các ngân hàng mở rộng hoạt động thu phí và thu nhập ngoài lãi, những hoạt động này trở nên nhạy cảm với lãi suất Ví dụ, khi ngân hàng cung cấp hạn mức tín dụng, khách hàng có thể không sử dụng hết hạn mức nếu lãi suất thay đổi, dẫn đến việc phải trả phí cam kết tùy thuộc vào hạn mức tín dụng và lãi suất thị trường Tương tự, trong dịch vụ quản lý khoản vay có tài sản đảm bảo, lãi suất tăng có thể khiến ngân hàng thu phí thấp hơn do khách hàng ngừng vay và lấy lại tài sản Hơn nữa, các thu nhập ngoài lãi từ giao dịch cũng trở nên nhạy cảm với lãi suất, yêu cầu các nhà quản lý ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng tác động của lãi suất đối với thu nhập của ngân hàng.
Sự biến động của lãi suất thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến giá trị kinh tế của tài sản, tài sản nợ và trạng thái ngoại bảng của ngân hàng Do đó, việc đánh giá độ nhạy cảm của giá trị kinh tế các tài sản đối với sự thay đổi lãi suất là yếu tố quan trọng mà các nhà điều hành ngân hàng cần xem xét kỹ lưỡng.
Giá trị kinh tế của một tài sản ngân hàng được xác định bởi giá trị hiện tại của các dòng tiền tương lai, chiết khấu theo lãi suất hiện tại Nó phản ánh giá trị hiện tại của các dòng tiền mong đợi, bao gồm dòng tiền từ tài sản có trừ đi dòng tiền từ tài sản nợ và cộng với dòng tiền từ các trạng thái ngoại bảng Sự biến động của lãi suất ảnh hưởng lớn đến giá trị kinh tế của ngân hàng, cung cấp cái nhìn sâu sắc về tác động dài hạn hơn là chỉ xem xét thu nhập ngân hàng Đánh giá này giúp hiểu rõ hơn về ảnh hưởng của lãi suất đối với tình hình tài chính tổng thể của ngân hàng, vì thay đổi thu nhập ngắn hạn có thể không phản ánh đúng tác động thực sự.
Sự thay đổi lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập và giá trị kinh tế của tài sản, dẫn đến biến động trong tình hình tài chính của ngân hàng Khi đánh giá rủi ro lãi suất, ngân hàng cần xem xét tác động của lãi suất trong quá khứ đối với hoạt động tương lai Các công cụ thị trường tiền tệ không được định giá lại theo thị trường có thể dẫn đến lợi nhuận hoặc thua lỗ do biến động lãi suất Những thay đổi này thường được phản ánh trong thu nhập của ngân hàng theo thời gian Chẳng hạn, một khoản vay dài hạn với lãi suất cố định được cấp phát khi lãi suất thấp có thể gây lỗ cho ngân hàng nếu bên nguồn vốn phải chịu lãi suất cao hơn trong suốt thời gian còn lại của khoản vay.
Quản lý rủi ro lãi suất & ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của các NHTM
Khái niệm quản lý rủi ro lãi suất
Quản lý rủi ro (QLRR) là hệ thống chính sách và hoạt động của các tổ chức tài chính, bao gồm tất cả các hoạt động liên quan đến các loại rủi ro QLRR tập trung vào việc xác định, đo lường, giám sát và kiểm soát rủi ro để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả trong hoạt động của tổ chức.
- Rủi ro của các tổ chức nằm trong giới hạn đảm bảo
- Các quyết định có liên quan tới rủi ro phải tương xứng với mục tiêu và chiến lược kinh doanh do HĐQT đề ra
- Có đủ quĩ dự phòng để bù đắp được các rủi ro dự kiến sẽ xảy ra
- Việc ra quyết định liên quan tới rủi ro phải rõ ràng, minh bạch
Quản lý RRLS trong các NHTM là các biện pháp, các hoạt động tác động tới
Quản lý rủi ro lãi suất (RRLS) trong các tổ chức ngân hàng bao gồm việc đo lường, xác định, giám sát và kiểm soát các yếu tố liên quan nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực đến thu nhập của ngân hàng khi lãi suất biến động Thông qua việc sử dụng các công cụ tài chính, quản lý RRLS giúp hạn chế hoặc giảm thiểu thiệt hại tài chính do rủi ro lãi suất gây ra.
Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng bao gồm việc áp dụng bốn yếu tố quan trọng trong quản lý tài sản có (TSC), tài sản nợ (TSN) và các yếu tố ngoại bảng Những thông lệ chuẩn mực này giúp ngân hàng cải thiện khả năng kiểm soát rủi ro và tối ưu hóa hiệu quả tài chính.
- Có hội đồng thích hợp (ALCO), có chuyên môn sâu chịu trách nhiệm việc quản lý RRLS
- Có các chính sách và cách thức đúng đắn, thích hợp để quản lý RRLS
- Có cách đo lường RRLS đúng đắn, có các chức năng giám sát và kiểm soát
- Hệ thống kiểm soát nội bộ cần thiết và bộ phận kiểm toán độc lập
Ngân hàng lựa chọn các yếu tố để quản lý Rủi ro Lợi suất Tài sản (RRLS) dựa vào độ phức tạp và bản chất của rủi ro, các hoạt động của TSC và TSN, cũng như mức độ của RRLS Các ngân hàng có độ phức tạp thấp có thể áp dụng quy trình quản lý RRLS cơ bản, trong khi các tổ chức phức tạp hơn cần quy trình quản lý cẩn thận và chuẩn mực hơn để giám sát các hoạt động tài chính đa dạng Hơn nữa, với quy trình quản lý RRLS phức tạp, ngân hàng cần có chế độ kiểm soát nội bộ thích hợp, bao gồm các đơn vị kiểm toán và cơ chế chịu trách nhiệm, nhằm đảm bảo tính trung thực của thông tin cho cán bộ cao cấp Trách nhiệm trong việc đo lường, giám sát và kiểm soát RRLS cần được tách biệt và độc lập với quyết định kinh doanh để tránh xung đột lợi ích.
Việc giám sát rủi ro tín dụng (RRLS) cần được thực hiện một cách đầy đủ và vững chắc, bao gồm cả các chi nhánh và đơn vị thành viên Điều này là cần thiết vì quản lý RRLS có thể trở nên khó khăn khi các trạng thái của một đơn vị thành viên được cấn trừ vào trạng thái của đơn vị thành viên khác.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý rủi ro lãi suất tại các NHTM
1.3.2.1 Trình độ công nghệ, năng lực cán bộ chuyên môn:
Bước đầu tiên trong kiểm soát RRLS là thu thập dữ liệu để mô tả tình hình tài chính của ngân hàng, yêu cầu thông tin từ bảng tổng kết tài sản Ngân hàng cần có hệ thống quản lý thông tin hiệu quả để đảm bảo truy xuất thông tin chính xác và kịp thời Bên cạnh công nghệ, năng lực nhận thức về RRLS cũng ảnh hưởng đến quản lý rủi ro Do đó, ngân hàng cần tổ chức các khóa đào tạo chuyên sâu cho cán bộ quản lý rủi ro nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, vì trình độ cán bộ là yếu tố quan trọng trong quản lý RRLS.
1.3.2.2 Môi trường pháp lý và sự phát triển của thị trường tài chính:
Sự phát triển của thị trường tài chính có tác động lớn đến quản lý rủi ro lãi suất (QLRRLS), khi các công cụ mới được ra đời để bảo vệ trước rủi ro này Hơn nữa, sự phát triển của thị trường cũng dẫn đến biến động lãi suất lớn hơn, làm tăng nhu cầu đa dạng trong việc quản lý rủi ro lãi suất.
Khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chú trọng đến các loại rủi ro trong hệ thống ngân hàng, việc quản lý và giám sát rủi ro cùng với môi trường pháp lý sẽ ảnh hưởng đáng kể đến quản lý rủi ro lãi suất tại các ngân hàng thương mại.
1.3.3 Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh của các NHTM: Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro lãi suất là nhằm hạn chế tối đa tổn thất về thu nhập do sự thay đổi của lãi suất thị trường, hay nói cách khác khi lãi suất thị trường thay đổi sẽ không ảnh hưởng đến mức chênh lệch giữa thu nhập lãi và chi phí lãi và giá vốn chủ sở hữu Các nhà quản trị tài chính thường dùng hệ số chênh lệch lãi ròng để đo lường và so sánh sự thay đổi của thu nhập khi có biến động của lãi suất thị trường.
Hệ số chênh lệch lãi ròng (HCL) là tỷ lệ thu nhập lãi ròng chia cho tài sản sinh lời hoặc tổng tài sản.
Thu nhập lãi – Chi phí lãi
Hệ số chênh lệch lãi Tổng tài sản
Nhiệm vụ chính của quản lý rủi ro lãi suất là kiểm soát quy mô hệ số thu nhập lãi ròng bằng cách điều chỉnh cấu trúc danh mục tài sản và nợ nhạy cảm lãi suất của ngân hàng Khi lãi suất thị trường thay đổi, nếu hệ số chênh lệch lãi ròng giảm, điều này cho thấy rủi ro lãi suất đang gia tăng Do đó, nhà quản trị cần triển khai các giải pháp hiệu quả để duy trì hoặc tăng cường hệ số này.
1.4 Một số kinh nghiệm về quản lý rủi ro lãi suất tại các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam:
Tại chi nhánh Ngân hàng HSBC, Việt Nam
Chi nhánh ngân hàng HSBC áp dụng phương pháp giá trị có thể tổn thất (VaR) và P&L (Lợi nhuận và Thua lỗ) để quản lý rủi ro lãi suất VaR giúp HSBC xác định trường hợp xấu nhất liên quan đến rủi ro lãi suất, đồng thời đo lường mức độ biến động của P&L trong những ngày khó khăn nhất.
Ví dụ: VaR của HSBC Singapore là 7 triệu $ (chi nhánh Ngân hàng HSBC, Việt
Nam là chi nhánh trực thuộc ngân hàng HSBC chi nhánh Singapore nên sẽ tuân theo các quy định & hạn mức cuả ngân hàng HSBC chi nhánh Singapore)
Với xác suất 99%, giá trị VaR trong 10 ngày tới của Trading Book ngân hàng HSBC Singapore là 7 triệu USD, nghĩa là tất cả các trạng thái kinh doanh không được lỗ quá con số này trong khoảng thời gian đó Tuy nhiên, có 1% khả năng HSBC có thể chịu tổn thất vượt quá 7 triệu USD Giá trị VaR này có thể thay đổi hàng ngày tùy thuộc vào nhiều yếu tố tác động.
- Các trạng thái kinh doanh tại HSBC Singapore (Trading Positions).
- Sự thay đổi của lãi suất (Market Volatility).
- Hiệu quả của các danh mục đầu tư và các trạng thái khác tại Singapore
VaR (Value at Risk) là một chỉ số đo lường sự thay đổi giá trị của các trạng thái vốn trong thị trường, giả định rằng chúng ta giữ nguyên trạng thái hiện tại Chỉ số VaR phản ánh tác động của biến động lãi suất thị trường đối với các tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ Để dự đoán rủi ro trong tương lai gần, VaR sử dụng dữ liệu lịch sử để phân tích và đưa ra các dự báo chính xác.
HSBC tính VaR như thế nào?
HSBC không sử dụng sự thay đổi của lãi và lỗ (P&L) để tính toán giá trị rủi ro (VaR) vì P&L không thể phản ánh chính xác những gì sẽ xảy ra trong tương lai và cách thức bảo vệ trước rủi ro Tuy nhiên, HSBC áp dụng P&L cho mục đích kiểm tra (Back Testing).
VaR được tính bằng = PVBP * sự thay đổi của thị trường (Market Volatility)
VaR = Risk (Position) * Volatility (Market)
Để tính toán VaR, cần sử dụng PVBPs (trạng thái rủi ro), điều này giúp phân tách giá trị VaR và P&L thành hai phần riêng biệt, dựa trên các trạng thái và biến động của thị trường (Market Volatility) Công thức tính VaR được xác định bởi PVBP vị trí/thị trường, kết hợp với độ lệch chuẩn của thị trường theo ngày và yếu tố độ tin cậy.
Ngân hàng dùng VaR như thế nào trong việc quản lý rủi ro:
Ngân hàng đã tính mối quan hệ giữa VaR và vốn điều lệ (Regulatory Capital).
Capital = VaR (10 - days)*Regulatory Factor
Ví dụ: Xác suất 99%, 10 ngày, VaR của HSBC Singapore là 7 triệu $.
Giả thiết rằng các nhân tố quy định (Regulatory Factor) = 3.8
HSBC Singapore cần ít nhất là: 26.6 triệu $ vốn = 7 triệu $*3.8
Nếu ngân hàng thiếu vốn cần thiết, họ phải báo cáo trường hợp ngoại lệ cho Hội sở tại Luân Đôn hoặc giảm trạng thái nắm giữ Hành động này sẽ dẫn đến việc giảm giá trị VaR và giảm yêu cầu về vốn.
Trách nhiệm quản lý rủi ro nằm trong tay người đứng đầu Treasury, Giám đốc Phòng quản lý rủi ro và Giám đốc tài chính Họ cần tăng cường quản lý và nhận diện rủi ro lãi suất một cách kịp thời hơn.
THỰC TRẠNG VỀ QUẢN LÝ RỦI RO LÃI SUẤT TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI NGÂN HÀNG TMCP Á CHÂU
Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng TMCP Á Châu
2.1.1 Sự hình thành và phát triển:
Pháp lệnh về Ngân hàng và Pháp lệnh về NHTM, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính được ban hành vào tháng 5/1990 đã thiết lập khung pháp lý cho hoạt động ngân hàng thương mại tại Việt Nam Trong bối cảnh này, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB) được thành lập theo Giấy phép số 0032/NH-GP của Ngân hàng Nhà nước cấp ngày 24/04/1993 và Giấy phép số 533/GP-UB do Ủy ban Nhân dân Tp.Hồ Chí Minh cấp ngày 13/05/1993 ACB chính thức đi vào hoạt động từ ngày 04/06/1993.
Tầm nhìn, mục tiêu và chiến lược của ACB đã được cổ đông và nhân viên đồng lòng thực hiện trong suốt 19 năm qua, chứng minh sự đúng đắn trong định hướng phát triển Những thành tựu này đã giúp ngân hàng khẳng định vị trí dẫn đầu trong lĩnh vực bán lẻ tại Việt Nam Dưới đây là những cột mốc đáng nhớ của ACB.
Giai đoạn 1993 – 1995 đánh dấu sự hình thành của ACB, nơi những người sáng lập với năng lực tài chính và kinh nghiệm thương trường đã thống nhất nguyên tắc kinh doanh "quản lý sự phát triển của doanh nghiệp an toàn, hiệu quả" Trong giai đoạn này, ACB tập trung vào khách hàng cá nhân và doanh nghiệp trong khu vực tư, với chiến lược thận trọng trong cấp tín dụng và phát triển các sản phẩm dịch vụ mới chưa có trên thị trường, như cho vay tiêu dùng, dịch vụ chuyển tiền nhanh Western Union và thẻ tín dụng.
Giai đoạn 1996 – 2000, ACB trở thành ngân hàng cổ phần đầu tiên tại Việt Nam phát hành thẻ tín dụng quốc tế MasterCard và Visa Năm 1997, ngân hàng bắt đầu áp dụng các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại thông qua chương trình đào tạo kéo dài hai năm với giảng viên nước ngoài Đến năm 1999, ACB triển khai chương trình hiện đại hóa công nghệ thông tin, xây dựng hệ thống mạng diện rộng để tối ưu hóa hoạt động giao dịch Năm 2000, ACB thực hiện tái cấu trúc theo chiến lược phát triển, thay đổi cơ cấu tổ chức để phù hợp với định hướng kinh doanh và hỗ trợ, chuyển giao hoạt động kinh doanh của Hội sở cho Sở giao dịch tại Tp.HCM, nhằm đảm bảo quản lý sản phẩm theo định hướng khách hàng và phát triển bền vững.
Giai đoạn 2001 – 2005, ACB đã chính thức vận hành hệ thống công nghệ ngân hàng lõi TCBS vào cuối năm 2001, kết nối tất cả chi nhánh và phòng giao dịch, cho phép giao dịch tức thời và sử dụng cơ sở dữ liệu tập trung Năm 2003, ngân hàng xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2000 và được công nhận trong các lĩnh vực huy động vốn, cho vay, thanh toán quốc tế và cung ứng nguồn lực Đến năm 2005, ACB ký kết thỏa thuận hỗ trợ kỹ thuật với Ngân hàng Standard Chartered, trở thành cổ đông chiến lược, và triển khai giai đoạn hai của chương trình hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, bao gồm nâng cấp máy chủ, thay thế phần mềm giao dịch thẻ ngân hàng và lắp đặt hệ thống máy ATM.
Giai đoạn 2006 đến 2010, ACB niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vào tháng 11/2006 và nhanh chóng mở rộng mạng lưới với 31 chi nhánh mới trong năm 2007, đồng thời thành lập Công ty Cho thuê tài chính ACB Ngân hàng hợp tác với Open Solution (OSI) và Microsoft để nâng cấp công nghệ ngân hàng, phát hành 10 triệu cổ phiếu với số tiền thu về hơn 1.800 tỷ đồng Năm 2008, ACB tiếp tục mở thêm 75 chi nhánh, hợp tác với American Express và triển khai dịch vụ thanh toán thẻ JCB, nâng vốn điều lệ lên 6.355 tỷ đồng, và được vinh danh là “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam năm 2008” bởi tạp chí Euromoney tại Hong Kong.
Năm 2009, ACB hoàn tất tái cấu trúc nguồn nhân lực và hệ thống phân phối, mở rộng thêm 51 chi nhánh và phòng giao dịch Hệ thống chấm điểm tín dụng cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp được áp dụng chính thức, cùng với việc triển khai hệ thống bàn trợ giúp ACB vinh dự nhận 6 giải thưởng “Ngân hàng tốt nhất Việt Nam năm 2009” từ các tạp chí quốc tế uy tín Đến năm 2010, ACB tập trung vào công tác dự báo để đưa ra quyết sách an toàn và hiệu quả, xây dựng Trung tâm dữ liệu dự phòng đạt chuẩn tại Đồng Nai, và phát triển kênh phân phối phi truyền thống như ngân hàng điện tử và telesales Hội đồng quản trị cũng đã thảo luận sâu rộng về chiến lược mới trong quý 3.
Năm 2011: tháng Giêng, Định hướng Chiến lược phát triển của ACB giai đoạn
Từ năm 2011 đến 2015, ACB đã triển khai chương trình chuyển đổi hệ thống quản trị điều hành, phù hợp với quy định pháp luật Việt Nam và các thông lệ quốc tế tốt nhất Chương trình này tập trung vào việc phân định rõ vai trò và trách nhiệm của các cơ quan lãnh đạo, tăng cường năng lực chỉ đạo của Hội đồng quản trị, mở rộng trách nhiệm và thẩm quyền của Tổng giám đốc, cùng với việc nâng cao vai trò độc lập của Ban kiểm soát và năng lực của Ban kiểm toán nội bộ Cuối năm, ACB đã khánh thành Trung tâm Dữ liệu dạng mô-đun tại Tp HCM, với tổng giá trị đầu tư gần 2 triệu USD, đánh dấu đây là trung tâm dữ liệu đầu tiên tại Việt Nam đạt tiêu chuẩn quốc tế Đồng thời, Trung tâm Vàng ACB cũng trở thành đơn vị đầu tiên trong ngành được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001:2008 và công nhận năng lực thử nghiệm theo tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2005 Đây là bước đầu quan trọng để Trung tâm Vàng ACB xây dựng Nhà máy tinh luyện vàng và Phòng thí nghiệm giám định theo chuẩn mực quốc tế trong tương lai Trong năm, ACB cũng đã mở thêm 45 chi nhánh và phòng giao dịch mới.
2.1.2 Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Á Châu (giai đoạn
Ngành nghề chính của ACB bao gồm huy động vốn ngắn, trung và dài hạn qua các hình thức như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và chứng chỉ tiền gửi ACB còn nhận vốn ủy thác đầu tư, cho vay ngắn, trung và dài hạn, cũng như chiết khấu thương phiếu và công trái Ngoài ra, ngân hàng đầu tư vào chứng khoán, cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng, kinh doanh ngoại tệ và vàng bạc, thực hiện thanh toán quốc tế, bao thanh toán, và tư vấn đầu tư chứng khoán ACB cũng cung cấp dịch vụ lưu ký, tư vấn tài chính doanh nghiệp, bảo lãnh phát hành, cùng với các dịch vụ quản lý nợ và khai thác tài sản.
Qua 19 năm hoạt động, ACB luôn giữ vững sự tăng trưởng mạnh mẽ và ổn định Điều này được thể hiện qua các chỉ tiêu chính qua các năm:
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động kinh doanh của ACB từ năm 2007-2011 Đvt: tỷ đồng
Tổng dư nợ cho vay 31.974 34.833 62.358 87.195 104.094
Nguồn: BCTC thường niên của ACB năm 2011 a) Huy động vốn:
Nguồn: BCTC thường niên của ACB năm 2011
Biểu đồ 2.1: Tổng vốn huy động hợp nhất (tỷ đồng) b) Sử dụng vốn:
Nguồn: BCTC thường niên của ACB năm 2011
Biểu đồ 2.2: Tổng dư nợ cho vay hợp nhất (tỷ đồng) c) Tổng tài sản:
Nguồn: BCTC thường niên của ACB năm 2011
Biểu đồ 2.3: Tổng tài sản hợp nhất (tỷ đồng) d) Kết quả hoạt động kinh doanh:
Nguồn: BCTC thường niên của ACB năm 2011
Biểu đồ 2.4: Lợi nhuận trước thuế hợp nhất (tỷ đồng)
Kết thúc năm 2011 đầy thách thức, ACB đã khẳng định vị thế ngân hàng hàng đầu tại Việt Nam Năm qua, ngân hàng hoàn thành kế hoạch lợi nhuận đầy tham vọng với lợi nhuận hợp nhất trước thuế đạt khoảng 4.203 tỷ đồng, tăng 1,35 lần so với cùng kỳ năm trước và vượt kế hoạch đã đề ra Hoạt động kinh doanh ngân hàng đóng góp chủ yếu với 4.175 tỷ đồng, tăng 24% so với cuối năm 2010.
Các chỉ tiêu về quy mô của ACB có bước tiến nhanh và bền vững trong năm
Đến cuối năm 2011, tổng tài sản của ACB đạt 281.019 tỷ đồng, tăng 37% so với năm 2010, tương đương 9,64% tổng phương tiện thanh toán, với 63% mức tăng này đến từ tiền gửi khách hàng, đạt 185.637 tỷ đồng, tăng gần 35% so với năm trước Thị phần huy động của ACB ước tính đạt 6,5%, tăng gần 1% so với đầu năm Chính sách tăng tốc tín dụng giúp cho vay khách hàng cá nhân và tổ chức kinh tế của ACB tăng trưởng 18%, gấp 1,5 lần bình quân ngành, với dư nợ cho vay đạt 102.809 tỷ đồng, tăng 1,2 lần so với cuối năm ngoái, đưa thị phần tín dụng của ACB lên 4% Hoạt động tín dụng tiếp tục là nguồn thu nhập chính của ACB trong năm 2011, với cả huy động tiền gửi và cho vay đều đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn mức trung bình của ngành.
Đến ngày 31/12/2011, ACB ghi nhận tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu (ROEtt) đạt 36%, trong khi tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản (ROAtt) giữ nguyên ở mức 1,7% Sự gia tăng này chủ yếu nhờ vào hiệu quả hoạt động ngày càng cao của các chi nhánh và phòng giao dịch, với số dư huy động và dư nợ cho vay bình quân trên mỗi nhân viên tăng lần lượt 11% và 28% so với cùng kỳ.
2010 Năm 2011, thời gian trung bình để các CN&PGD mới thành lập trong vòng
24 tháng có lợi nhuận dương ổn định là khoảng 11 tháng, rút ngắn 3 tháng so cùng kỳ năm trước.
Bảng 2.2: Khả năng sinh lời của ACB từ năm 2007-2011
LN trước thuế/Vốn CSH bình quân (ROE) 53,8% 36,7% 31,8% 28,9% 36%
LN trước thuế/TTS bình quân (ROA) 3,3% 2,6% 2,1% 1,7% 1,7%
Nguồn: BCTC thường niên của ACB năm 2011
Năm 2011, ACB đã có nhiều tiến bộ trong quản lý rủi ro bằng cách hoàn thiện hệ thống giám sát rủi ro chuyên sâu Ủy ban Quản lý rủi ro được thành lập dưới sự chỉ đạo của Hội đồng quản trị nhằm đáp ứng yêu cầu pháp lý và áp dụng các chuẩn mực quốc tế tốt nhất Hệ thống quản lý rủi ro mới của ACB đã được xác định cùng với lộ trình triển khai cụ thể.
Tính đến ngày 31/12/2011, ACB đạt tỷ lệ an toàn vốn riêng lẻ 9,24% và tỷ lệ an toàn vốn hợp nhất 9,25%, đều vượt mức quy định 9% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Ngoài ra, tỷ lệ khả năng chi trả của ACB là 18,47%, cao hơn 3,47% so với hạn mức 15% do NHNN quy định.
Bảng 2.3: Tỷ lệ khả năng chi trả ngày báo cáo theo quy định NHNN thời điểm
Vàng EUR GBP USD Ngoại tệ khác quy
Tỷ lệ khả năng chi trả ngày báo cáo 18,47% 16,15% 76,16% 132,64% 30,59% 137,75%
ACB năm 2011 đã kiểm soát rủi ro tín dụng hiệu quả, bất chấp chất lượng tín dụng toàn ngành ngân hàng giảm sút Ngân hàng đã đầu tư mạnh vào phân tích nguyên nhân và cảnh báo nợ quá hạn, đồng thời thực hiện quyết liệt các biện pháp thu hồi nợ Kết quả là tỷ lệ nợ nhóm 3 đến nhóm 5 của ACB chỉ đạt 0,89%, thấp hơn khoảng 1/4 so với mức trung bình của toàn ngành là 3,4%.
Thực trạng về quản lý rủi ro lãi suất trong hoạt động kinh doanh tại Ngân hàng TMCP Á Châu
2.2.1 Tình hình biến động lãi suất từ năm 2007 đến năm 2011:
Lãi suất tiền đồng tại Việt Nam được điều tiết bởi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từ năm 2000, thông qua việc thiết lập các mức lãi suất cơ bản Những lãi suất này giúp các ngân hàng thương mại (NHTM) xác định lãi suất riêng của họ, dẫn đến việc chuyển đổi sang cơ chế lãi suất thả nổi.
Kể từ năm 2002, NHNN đã thiết lập cơ chế cho phép các TCTD áp dụng lãi suất thoả thuận cho các khoản vay thương mại, cho phép các tổ chức này tự quyết định lãi suất dựa trên nhu cầu thị trường và độ tín nhiệm của khách hàng.
Từ năm 2005 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh các mức lãi suất cơ bản, với lãi suất cơ bản tăng từ 7,5% vào năm 2005 lên 9% vào tháng 6 năm 2012 Lãi suất tái cấp vốn cũng tăng từ 5,5% năm 2005 lên 11% vào tháng 6 năm 2012, sau khi đạt đỉnh 15% vào tháng 10 năm 2011 Đối với lãi suất chiết khấu, mức này đã tăng từ 3,5% vào đầu năm 2005 lên 9% vào tháng 6 năm 2012, nhằm khuyến khích các tổ chức tín dụng huy động vốn và kiểm soát tín dụng để đạt được các mục tiêu kinh tế.
Trong các năm gần đây có sự thay đổi lớn về lãi suất và chính sách của NHNN:
Vào đầu năm 2007, Ngân hàng Nhà nước duy trì các mức lãi suất chủ đạo, trong khi áp lực tăng lãi suất toàn cầu, đặc biệt là lãi suất USD, giảm bớt Tuy nhiên, lãi suất vẫn tăng khi nhiều ngân hàng cổ phần điều chỉnh lãi suất huy động, tạo ra áp lực cạnh tranh mới Ngân hàng Kỹ thương (Techcombank) khởi đầu năm 2007 bằng việc tăng lãi suất “Tiết kiệm điện tử” ngay từ ngày 1/1, với mức lãi suất VND kỳ hạn 12 tháng tăng từ 9,42% lên 9,48% cho các mức tiền gửi khác nhau Cuộc đua lãi suất thực sự bắt đầu vào cuối năm, với sự tham gia của nhiều ngân hàng cổ phần, mặc dù nhìn chung, lãi suất trong năm 2007 không có nhiều biến động, vẫn duy trì ở mức 9,5%/năm.
Biểu đồ 2.5: Sự thay đổi của lãi suất huy động và cho vay trong năm 2007 (ii) – Năm 2008:
Sau hơn một thập kỷ tăng trưởng kinh tế từ năm 1997, Việt Nam đã phải đối mặt với khủng hoảng tài chính toàn cầu, gây ra nhiều khó khăn, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính Để kiểm soát lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất cơ bản từ 8,7% lên 12-14%/năm, đồng thời tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và yêu cầu các ngân hàng thương mại mua kỳ phiếu Tuy nhiên, những biện pháp này đã dẫn đến tác động tiêu cực, khiến các ngân hàng thương mại mất thanh khoản kéo dài, với lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng có lúc lên tới 40% Điều này đặc biệt khó khăn cho các ngân hàng nhỏ khi phải đối mặt với rủi ro thanh khoản, làm giảm thanh khoản toàn hệ thống ngân hàng.
Lãi suất huy động và cho vay đang ở mức cao kỷ lục, với lãi suất cho vay lên tới 21%/năm, khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc huy động vốn và phải chấp nhận mức lãi suất rất cao Điều này dẫn đến tình trạng thua lỗ hoặc gián đoạn trong hoạt động kinh doanh Đồng thời, nợ xấu tại các ngân hàng thương mại cũng gia tăng đáng kể.
Vào thời điểm đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã thực hiện nhiều quyết định nhằm hạ lãi suất, bao gồm việc phát hành Tín phiếu kho bạc trị giá 20.300 tỷ đồng với lãi suất 7,8%/năm theo Quyết định số 346/QD-NHNN ngày 13/2/2008, quy định giới hạn lãi suất huy động tối đa của các ngân hàng thương mại (NHTM) là 12%/năm, và chuyển từ chế độ lãi suất thỏa thuận sang lãi suất cơ bản theo Quyết định số 16/2008/QD-NHNN ngày 16/5/2008, trong đó lãi suất cho vay thương mại bằng VND không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố Ngoài ra, NHNN cũng điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12% lên 14%.
Mặc dù các ngân hàng thương mại (NHTM) đã tăng cường huy động vốn với lãi suất lên đến 18%, nhưng hiệu quả vẫn chưa cao khi lãi suất thị trường tiếp tục tăng Để thu hút khách hàng, nhiều NHTM đã cho vay với lãi suất cao hơn 21%/năm, khiến khách hàng đổ xô gửi tiền để hưởng lãi suất hấp dẫn.
NHNN tiếp tục thực hiện các biện pháp hành chính nhằm thanh tra lãi suất huy động tiết kiệm của các TCTD và xử phạt các NHTM huy động vốn cao mà không có kế hoạch đầu tư tương ứng Trong giai đoạn này, các chính sách mới đã được áp dụng với mục đích giảm lãi suất hoạt động một cách hiệu quả Nhờ đó, lãi suất đã dần ổn định và lạm phát cũng được kiểm soát tốt hơn.
Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam
Biểu đồ 2.6: Các lãi suất cơ bản từ năm 2007-2011
Trong 4 tháng cuối cùng của năm 2008, nền kinh tế lâm vào tình trạng giảm phát do bị ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu mà bắt đầu từ Mỹ, nền kinh tế Việt Nam trở nên khó dự đoán
Khi nền kinh tế Việt Nam đối mặt với tình trạng giảm phát, Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã quyết định nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua gói kích cầu kinh tế với ưu đãi lãi suất từ 2-4% và giảm lãi suất cơ bản từ 8,5% xuống 7% trong khoảng thời gian từ 1/2/2009 đến 30/11/2009 Chính sách này đã góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế, giúp Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng 5,2%, trong khi nhiều quốc gia khác gặp khó khăn Tuy nhiên, gói kích cầu cũng dẫn đến việc tăng cung trên thị trường và giảm giá trị đồng VND, đồng thời mở rộng khoảng cách giữa tăng trưởng tín dụng cao (37,73%) và tăng trưởng huy động vốn (28,67%) Các ngân hàng thương mại đã phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn trong quý 4 năm 2009.
Lãi suất cho vay và huy động VND trên thị trường:
Lãi suất huy động VND đã tăng liên tục từ tháng 3/2009, vào khoảng thời gian cuối năm 2009, lãi suất huy động của các NHTM nằm trong vùng từ 9-10,5%
Vào ngày 25/11/2009, Thống đốc NHNN đã quyết định nâng lãi suất cơ bản lên 8% sau 10 tháng giữ mức 7%, nhằm quản lý cung cầu tiền tệ, tăng thanh khoản và giảm tốc độ tăng trưởng tín dụng Tuy nhiên, do cung tiền tệ tăng, lãi suất trên thị trường tiền tệ cũng gia tăng, với lãi suất huy động luôn đạt trần 10,49% và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại giữ mức trần 12%, tương ứng 150% lãi suất cơ bản theo quy định của NHNN.
Cuối năm 2009, lãi suất VND tăng do nhu cầu vốn của nền kinh tế gia tăng Chính phủ đã thực hiện gói kích cầu 1 để thúc đẩy kinh tế và có khả năng triển khai gói kích cầu 2 trong Quý I/2010 Lãi suất huy động từ các tổ chức dân cư cũng tăng cao Dưới đây là lãi suất huy động tiết kiệm của một số ngân hàng thương mại trong tháng 12 năm 2009.
Bảng 2.4: Lãi suất tiết kiệm của một số NHTMVN trong tháng 12/2009
Ngân hàng Loại tiền Ngày áp dụng Tên sản phẩm 1T
As of December 2009, various banks in Vietnam have reported their interest rates for the VND currency ABBank offers a tiered rate structure with rates ranging from 10.3% to 10.56% ACB's rates vary from 9.83% to 10.33%, while Eximbank presents rates between 10.164% and 10.5% GPBank maintains a consistent rate of 10.65%, and Sacombank's rates range from 10.22% to 10.4% Seabank offers rates from 10.31% to 10.49%, and Techcombank's rates fluctuate between 10.15% and 10.35% Lastly, Tienphongbank reports a lower tiered rate from 9.62% to 9.92%.
VIBank VND 24/11/09 Bậc thang-cuối kỳ 9,05 9,6 9,41 9,61
VPBank VND 02/12/09 Bậc thang-cuối kỳ 10,46 10,56 10,5 10,5 10,5
SHB VND 01/12/09 Bậc thang-cuối kỳ 10,5 10,5 10,5 10,5 10,5
Nguồn: Tổng hợp từ các ngân hàng
Lãi suất tiền gửi tiết kiệm tại các Ngân hàng Thương mại Nhà nước đã tăng lên đáng kể, với lãi suất của Vietcombank (VCB) đạt 10,20%/năm cho kỳ hạn 3 tháng, 10,30%/năm cho kỳ hạn 6 tháng và 10,5%/năm cho kỳ hạn 12 tháng Đồng thời, lãi suất huy động từ khách hàng doanh nghiệp cũng ghi nhận sự tăng trưởng, cụ thể là 10%/năm cho kỳ hạn 1 tháng và 10,2%/năm cho kỳ hạn 3 tháng.
10,3%/năm cho kỳ hạn 06 tháng.
Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng (VNIBOR):
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Biểu đồ 2.7: Lãi suất VNIBOR kỳ hạn O/N, 01 & 03 tháng từ năm 2007-2011