1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Quy tắc Taylor mở rộng đối với tỷ giá hối đoái: Nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á.

299 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Quy Tắc Taylor Mở Rộng Đối Với Tỷ Giá Hối Đoái: Nghiên Cứu Thực Nghiệm Tại Một Số Quốc Gia Đông Nam Á
Tác giả Nguyễn Hà Thạch
Người hướng dẫn PGS.TS. Nguyễn Khắc Quốc Bảo, PGS.TS. Nguyễn Hữu Huy Nhựt
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Tài chính
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 299
Dung lượng 26,96 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU (11)
    • 1.1 Lý do chọn đề tài (11)
    • 1.2 Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu (15)
    • 1.3 Phạm vi và phương pháp nghiên cứu (15)
      • 1.3.1 Phạm vi nghiên cứu (Dữ liệu nghiên cứu) (15)
      • 1.3.2 Phương pháp nghiên cứu (16)
    • 1.4 Đóng góp mới của Luận án (17)
      • 1.4.1 Đóng góp về cơ sở lý thuyết (17)
      • 1.4.2 Đóng góp về thực tiễn (18)
    • 1.5 Cấu trúc của Luận án (19)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ QUY TẮC TAYLOR (20)
    • 2.1 Chính sách tiền tệ và quy tắc Taylor (20)
      • 2.1.1 Giới thiệu (20)
      • 2.1.2 Phương pháp tiếp cận tùy nghi (21)
      • 2.1.3 Phương pháp tiếp cận theo quy tắc (22)
      • 2.1.4 Quy tắc Taylor (25)
        • 2.1.4.1 Quy tắc Taylor tuyến tính (26)
        • 2.1.4.2 Quy tắc Taylor phi tuyến (31)
      • 2.1.5 Kết luận về chính sách tiền tệ và quy tắc Taylor (32)
    • 2.2 Các hướng mở rộng đối với quy tắc Taylor (33)
      • 2.2.1 Giới thiệu (33)
      • 2.2.2 Cơ sở lý thuyết quy tắc Taylor và ổn định tài chính (0)
        • 2.2.2.1 Quan điểm về ổn định tài chính (0)
        • 2.2.2.2 Ổn định tài chính và quy tắc Taylor (0)
      • 2.2.3 Các hướng mở rộng đối với quy tắc Taylor (42)
        • 2.2.3.1 Quy tắc Taylor mở rộng với tỷ giá hối đoái (42)
        • 2.2.3.2 Quy tắc Taylor mở rộng với giá tài sản (47)
        • 2.2.3.3 Quy tắc Taylor mở rộng với tín dụng (53)
        • 2.2.3.4 Quy tắc Taylor mở rộng với chênh lệch lãi suất (59)
        • 2.2.3.5 Quy tắc Taylor mở rộng với điều kiện tài chính (64)
      • 2.2.4 Kết luận về các hướng mở rộng trong quy tắc Taylor (66)
    • 2.3 Tổng quan chính sách tiền tệ tại một số quốc gia Đông Nam Á (69)
      • 2.3.1 Giới thiệu (69)
      • 2.3.2 Chính sách tiền tệ tại các quốc gia Đông Nam Á (70)
        • 2.3.2.1 Chính sách tiền tệ của NHTƯ Indonesia (70)
        • 2.3.2.3 Chính sách tiền tệ của NHTƯ Malaysia (71)
        • 2.3.2.3 Chính sách tiền tệ của NHTƯ Philippines (74)
        • 2.3.2.4 Chính sách tiền tệ của NHTƯ Thailand (75)
        • 2.3.2.5 Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam (77)
      • 2.3.3 Kết luận tổng quan chính sách tiền tệ tại các quốc gia Đông Nam Á (82)
    • 2.4 Kết luận chương tổng quan lý thuyết về quy tắc Taylor (83)
  • CHƯƠNG 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU (86)
    • 3.1 Mô hình quy tắc Taylor (86)
      • 3.1.1 Quy tắc Taylor tuyến tính (86)
        • 3.1.1.1 Quy tắc Taylor gốc (86)
        • 3.1.1.2 Quy tắc Taylor động (90)
      • 3.1.2 Quy tắc Taylor phi tuyến (91)
        • 3.1.2.1 Tổng quan các dạng mô hình phi tuyến trong nghiên cứu CSTT (92)
        • 3.1.2.2 Quy tắc Taylor và mô hình STR (95)
      • 3.1.3 Mô hình quy tắc Taylor đề xuất cho nghiên cứu (100)
    • 3.2 Phương pháp nghiên cứu (101)
    • 3.3 Dữ liệu (103)
    • 3.4 Kết luận chương phương pháp nghiên cứu và dữ liệu (108)
  • CHƯƠNG 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN (112)
    • 4.1 Ước lượng quy tắc Taylor tuyến tính (112)
    • 4.2 Ước lượng quy tắc Taylor phi tuyến (123)
    • 4.3 Kết luận chương kết quả nghiên cứu và thảo luận (135)
  • CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH (138)
    • 5.1 Đóng góp về cơ sở lý thuyết (138)
    • 5.2 Đóng góp về thực tiễn (139)
    • 5.3 Những hạn chế của luận án và hướng nghiên cứu xa hơn (141)

Nội dung

Quy tắc Taylor mở rộng đối với tỷ giá hối đoái Nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á.Quy tắc Taylor mở rộng đối với tỷ giá hối đoái Nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á.Quy tắc Taylor mở rộng đối với tỷ giá hối đoái Nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á.Quy tắc Taylor mở rộng đối với tỷ giá hối đoái Nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á.Quy tắc Taylor mở rộng đối với tỷ giá hối đoái Nghiên cứu thực nghiệm tại một số quốc gia Đông Nam Á.

GIỚI THIỆU

Lý do chọn đề tài

Mishkin (2013) cho rằng chính sách tiền tệ (CSTT) không chỉ nhằm ổn định giá cả mà còn hướng đến nhiều mục tiêu khác như tạo việc làm, tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tài chính, lãi suất và tỷ giá hối đoái Các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách đang tranh cãi về việc CSTT nên theo đuổi mục tiêu duy nhất hay điều hành linh hoạt tùy theo điều kiện kinh tế cụ thể Luận án phân tích xu hướng điều hành CSTT của các ngân hàng trung ương trên thế giới, bao gồm quy tắc Taylor tuyến tính và phi tuyến Tại Việt Nam, một số nghiên cứu đã xem xét việc áp dụng quy tắc Taylor trong điều hành CSTT của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Liên (2010) cho rằng NHNN không tuân theo quy tắc Taylor nhưng nếu tuân thủ thì sẽ có tác động tích cực Tuấn (2013) chỉ ra rằng NHNN điều hành lãi suất cao hơn quy tắc Taylor trong giai đoạn 2006 – 2012, cho thấy CSTT đã được thắt chặt mà không ảnh hưởng đến sản lượng thực tế.

Nghiên cứu của Ân (2016) về chính sách lãi suất của NHNN Việt Nam giai đoạn 2000-2014 cho thấy quy tắc Taylor gốc, liên quan đến lãi suất, khoảng cách lạm phát và khoảng cách sản lượng, gần sát với trần lãi suất huy động mà NHNN áp dụng nhằm kiểm soát lạm phát và duy trì tăng trưởng kinh tế Tuy nhiên, các nghiên cứu hiện tại chỉ dừng lại ở việc xác định liệu NHNN có áp dụng quy tắc Taylor gốc hay không, mà chưa xem xét đến quy tắc Taylor phiên bản hướng tới tương lai Điều này mở ra khoảng trống nghiên cứu cần thiết để đưa các yếu tố kỳ vọng lạm phát và xu hướng sản lượng vào quy trình điều hành CSTT của NHNN Việt Nam.

Quy tắc Taylor chỉ tập trung vào lạm phát và khoảng cách sản lượng, nhưng bị chỉ trích vì không xem xét tác động của tỷ giá hối đoái lên chính sách tiền tệ (CSTT) (Ball, 1999; Ghosh và cộng sự, 2016; Svensson, 2000; Taylor, 2000) Các quốc gia có nền kinh tế mới nổi cần chú ý đến sự biến động tỷ giá hối đoái trong quản lý CSTT (Ghosh và cộng sự, 2016) Svensson (2000) chỉ ra tác động trực tiếp và gián tiếp của tỷ giá hối đoái lên nền kinh tế và lãi suất, trong khi Goldberg và Campa (2010) cho rằng biến động tỷ giá có thể ảnh hưởng lớn đến giá nội địa qua kênh nhập khẩu Việc giảm giá đồng nội tệ có thể khiến các ngân hàng trung ương phải tập trung vào mục tiêu ổn định giá và thắt chặt CSTT, mặc dù điều này có thể làm tăng cạnh tranh quốc tế (Bailliu và Fujii, 2004; Baily, 2003; Gagnon và Ihrig, 2004; Ghosh và cộng sự, 2016).

Quy tắc Taylor tuyến tính là một hàm phản ứng chuẩn trong việc lựa chọn chính sách tiền tệ tối ưu của ngân hàng trung ương, nhằm tối thiểu hóa hàm tổn thất bậc hai trong điều kiện kinh tế bình thường Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngân hàng trung ương có thể gán các trọng số khác nhau cho các chênh lệch âm và dương trong hàm tổn thất Lạm phát và khoảng cách sản lượng có thể điều chỉnh khác nhau theo trạng thái chu kỳ kinh doanh, với sản lượng giảm nhanh trong khi phục hồi chậm và kéo dài, trong khi lạm phát gia tăng nhanh hơn trong chu kỳ kinh doanh (Hamilton, 1989) Do đó, ngân hàng trung ương cần có phản ứng khác nhau đối với chênh lệch sản lượng và lạm phát dương hay âm, điều này khẳng định tầm quan trọng của việc tính toán quy tắc Taylor phi tuyến trong phân tích hàm phản ứng của ngân hàng trung ương (Castro, 2011).

Lý thuyết về chính sách tiền tệ (CSTT) đang ngày càng chú trọng vào việc áp dụng các mô hình phi tuyến để giải thích sự bất cân xứng trong điều hành CSTT của các ngân hàng trung ương (NHTƯ) Các nghiên cứu như của Kaufmann (2002) và Altavilla cùng Landolfo (2005) đã áp dụng mô hình chuyển đổi Markov, trong khi Bunzel và Enders (2010) sử dụng mô hình hồi quy ngưỡng Mô hình hồi quy chuyển tiếp trơn (STR), đặc biệt là dạng logistic và dạng mũ, được coi là công cụ chủ yếu trong phân tích thực nghiệm các quy tắc CSTT, nhờ vào khả năng cung cấp nền tảng cấu trúc và trực quan cho hành vi phi tuyến Mô hình STR cho phép các thông số hồi quy thay đổi một cách mượt mà giữa các chế độ khác nhau của nền kinh tế, khác với các mô hình Markov và hồi quy ngưỡng, vốn chỉ cho thấy sự chuyển đổi đột ngột giữa các chế độ CSTT Hơn nữa, mô hình STR giúp giải thích rõ ràng hơn về quy tắc CSTT bất cân xứng và khả năng điều hành của NHTƯ theo các mục tiêu cụ thể.

Miles và Schreyer (2012) đã áp dụng phân tích hồi quy phân vị để khảo sát hàm phản ứng trong điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương tại bốn quốc gia châu Á: Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc và Indonesia Đồng thời, Akdoğan (2015) đã sử dụng mô hình chuyển tiếp trơn tự hồi quy mũ bất đối xứng để phân tích chính sách tiền tệ của 19 quốc gia theo lạm phát mục tiêu, bao gồm Indonesia, Thái Lan và Philippines Từ đó, có thể nhận thấy rằng nghiên cứu thực nghiệm về quy tắc Taylor nhằm cung cấp bằng chứng về tính phi tuyến và các hiệu ứng ngưỡng trong phản ứng của cơ quan điều hành chính sách tiền tệ đối với lạm phát và khoảng cách sản lượng vẫn còn ít được đề cập tại Việt Nam, cũng như ở các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á.

Phân tích cho thấy phương trình cơ sở của quy tắc Taylor gốc có thể không phù hợp cho nền kinh tế mở chịu tác động bởi cú sốc bên ngoài, do đó cần bổ sung các biến số khác như TGHĐ Mặc dù một số nghiên cứu chỉ ra rằng việc thêm biến TGHĐ có thể không cần thiết cho các nền kinh tế phát triển, nhưng điều này lại rất quan trọng đối với các nước mới nổi Luận án này tập trung vào phân tích quy tắc Taylor tuyến tính phiên bản hướng tới tương lai và quy tắc Taylor tuyến tính mở rộng với TGHĐ trong điều hành CSTT tại các quốc gia đang phát triển ở Đông Nam Á, bao gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam Nghiên cứu cũng áp dụng mô hình STR để xem xét quy tắc Taylor phi tuyến, nhằm bổ sung khoảng trống chưa được đề cập trong các nghiên cứu thực nghiệm về quy tắc Taylor.

Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu

Để lấp đầy khoảng trống trong nghiên cứu thực nghiệm về quy tắc Taylor, bài viết này sẽ xem xét quy tắc Taylor tuyến tính phiên bản hướng tới tương lai, quy tắc Taylor mở rộng với tỷ giá hối đoái, và quy tắc Taylor phi tuyến trong điều hành chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương tại các quốc gia Đông Nam Á như Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam Luận án sẽ tập trung vào việc trả lời hai câu hỏi nghiên cứu cụ thể.

Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu xem chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) tại một số quốc gia Đông Nam Á có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor tuyến tính và quy tắc Taylor tuyến tính mở rộng với tỷ giá hối đoái hay không Cụ thể, nghiên cứu sẽ xem xét ảnh hưởng của sự thay đổi trong độ trễ lãi suất, lạm phát, sản lượng và tỷ giá hối đoái đến việc điều hành lãi suất của NHTƯ theo quy tắc Taylor.

Câu hỏi nghiên cứu thứ hai đặt ra là liệu Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) tại các quốc gia được nghiên cứu có thực hiện chính sách tiền tệ (CSTT) theo quy tắc Taylor phi tuyến hay không Điều này có nghĩa là NHTƯ có phản ứng khác nhau đối với lạm phát khi nó vượt qua hoặc không đạt đến mức ngưỡng nhất định.

Phạm vi và phương pháp nghiên cứu

1.3.1 Phạm vi nghiên cứu (Dữ liệu nghiên cứu)

Quy tắc Taylor có thể áp dụng hiệu quả trong chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được mục tiêu kép là ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong các quốc gia thực hiện chính sách lạm phát mục tiêu như Mỹ, Anh, Nhật Bản, Chi Lê và Thụy Sĩ Trong số năm quốc gia được nghiên cứu, Indonesia, Philippines và Thái Lan áp dụng CSTT theo chế độ lạm phát mục tiêu, trong khi Malaysia và Việt Nam không thực hiện chế độ này.

Nhiều quốc gia áp dụng chính sách tiền tệ (CSTT) theo lạm phát mục tiêu thường sử dụng lãi suất như công cụ chính để tác động đến lãi suất thị trường Quy tắc Taylor được đề xuất như một phương pháp hữu ích trong việc điều hành CSTT tại các quốc gia này Trong chương 2, phân tích tổng quan về CSTT cho thấy lãi suất đóng vai trò quan trọng trong việc đạt được mục tiêu CSTT Bài viết sẽ xem xét khả năng NHTƯ có thực hiện CSTT theo quy tắc Taylor hay không Luận án cũng áp dụng quy tắc Taylor rút gọn, không sử dụng dữ liệu lạm phát mục tiêu trong phân tích CSTT tại các quốc gia Kết quả phân tích quy tắc Taylor có thể khác nhau giữa các quốc gia điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu và không theo lạm phát mục tiêu Thêm vào đó, do cả năm quốc gia nghiên cứu đều là các nước đang phát triển, việc phân tích quy tắc Taylor mở rộng với tỷ giá hối đoái cũng là một yếu tố quan trọng cần được xem xét.

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu vĩ mô từ Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam trong giai đoạn từ tháng 1/2000 đến tháng 12/2016, đặc biệt chú trọng vào năm 2007 khi cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu xảy ra, ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ (CSTT) của các quốc gia này Sự kiện này có thể dẫn đến những phản ứng phi tuyến trong việc điều hành CSTT Nghiên cứu cũng nhằm phân tích quy tắc Taylor phi tuyến trong quản lý CSTT tại một số quốc gia Đông Nam Á, nhằm bổ sung khoảng trống trong nghiên cứu thực nghiệm trước đây.

1.3.2 Phương pháp nghiên cứu Để kiểm tra CSTT của NHTƯ có thể được mô tả theo quy tắc Taylor tuyến tính hay phi tuyến, nghiên cứu thực hiện các bước sau:

Bước 1: Thu thập số liệu

Bước 2: Tính toán, chuyển đổi thành các dữ liệu cần thiết trong nghiên cứu Bước 3: Thống kê mô tả dữ liệu

Bước 4: Kiểm tra tính dừng của dữ liệu

Bước 5: Phân tích quy tắc Taylor tuyến tính

Theo nghiên cứu của Clarida và cộng sự (1998, 2000), phương pháp GMM là công cụ hiệu quả để ước tính hàm phản ứng của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) theo quy tắc Taylor phiên bản hướng tới tương lai, nhờ vào khả năng xử lý các giá trị kỳ vọng không quan sát được trong quyết định lãi suất Phương pháp này cũng giúp loại bỏ sự sai lệch có thể xảy ra giữa biến công cụ và biến giải thích Trong nghiên cứu, biến công cụ bao gồm hằng số cố định, lãi suất, tỷ giá hối đoái và các độ trễ của lạm phát và khoảng cách sản lượng từ 1 đến 12 tháng (Castro, 2011).

Bước 6: Phân tích quy tắc Taylor phi tuyến

Bài viết phân tích quy tắc Taylor phi tuyến thông qua mô hình hồi quy chuyển tiếp trơn (STR) với ba bước chính: (i) Kiểm định tính tuyến tính để xác định xem quy tắc Taylor có dạng tuyến tính hay phi tuyến, (ii) Nếu phát hiện phi tuyến, bài viết sẽ xem xét các hàm phi tuyến như Hàm hồi quy chuyển tiếp trơn dạng Logistic bậc 1 (LSTR1), bậc 2 (LSTR2) và dạng mũ (ESTR) thông qua kiểm định tham số G(𝛾, c, s t), và (iii) Tiến hành ước lượng hàm phi tuyến được đề xuất.

Đóng góp mới của Luận án

1.4.1 Đóng góp về cơ sở lý thuyết

Trong chương Tổng quan lý thuyết về quy tắc Taylor, luận án đã phân tích chi tiết về chính sách tiền tệ (CSTT) và quy tắc Taylor, đồng thời khám phá các hướng mở rộng của quy tắc này liên quan đến ổn định tài chính qua các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm Những đóng góp của luận án về cơ sở lý thuyết đã làm sáng tỏ mối liên hệ giữa CSTT và quy tắc Taylor.

- Nhiều nghiên cứu lý thuyết đồng thuận rằng, NHTƯ nên cân nhắc việc điều hành CSTT theo quy tắc nhất định, trong đó có quy tắc Taylor.

Khi phân tích hướng mở rộng của quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), cần chú ý đến ổn định tài chính của các ngân hàng trung ương (NHTƯ) Kết quả cho thấy rằng, tùy thuộc vào đặc điểm trong điều hành CSTT của từng quốc gia, các NHTƯ và nhà nghiên cứu cần bổ sung thêm một số biến phù hợp vào quy tắc Taylor mở rộng.

Từ nghiên cứu lý thuyết đến thực nghiệm có thể phân chia thành bốn hướng bao gồm

Tổng hợp các yếu tố như TGHĐ, giá tài sản, tín dụng và chênh lệch lãi suất đã được nghiên cứu liên quan đến chỉ số điều kiện tài chính (FCI) Điều này cho thấy mối quan hệ giữa các biến này và quy tắc Taylor mở rộng, góp phần vào việc hiểu rõ hơn về tình hình tài chính hiện tại.

Luận án này tập trung phân tích quy tắc Taylor mở rộng với tỷ giá hối đoái tại một số quốc gia Đông Nam Á, bao gồm cả quy tắc tuyến tính và phi tuyến, nhằm lấp đầy khoảng trống trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây Các nghiên cứu tiếp theo về quy tắc Taylor có thể mở rộng để xem xét các yếu tố khác như giá tài sản, tín dụng, chênh lệch lãi suất, hoặc sử dụng một chỉ số tổng hợp bao gồm nhiều biến, chẳng hạn như chỉ số điều kiện tài chính (FCI).

1.4.2 Đóng góp về thực tiễn

Quy tắc Taylor tuyến tính đóng vai trò quan trọng trong việc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) và có thể được áp dụng để mô tả cách các ngân hàng trung ương ở Đông Nam Á, như Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam, thiết lập lãi suất Các yếu tố chính như lãi suất kỳ trước, lạm phát, chênh lệch sản lượng và tỷ giá hối đoái đều có tác động khác nhau đến quyết định lãi suất của các ngân hàng trung ương, điều này được phân tích chi tiết trong chương 4 của luận án.

Nghiên cứu về quy tắc Taylor mở rộng với TGHĐ cho thấy TGHĐ ảnh hưởng đến hành vi điều hành CSTT của NHTƯ Malaysia và Philippines, thể hiện rõ mối tương quan giữa lãi suất và TGHĐ Kết quả cung cấp bằng chứng thực nghiệm về phản ứng đáng kể của NHTƯ đối với TGHĐ tại hai quốc gia Đông Nam Á, phù hợp với các nghiên cứu trước đây Ngược lại, tỷ giá hối đoái không tác động đến việc thiết lập lãi suất của NHTƯ Indonesia, Thái Lan và NHNN Việt Nam Do đó, NHTƯ Malaysia và Philippines nên xem xét áp dụng quy tắc Taylor mở rộng với TGHĐ nếu có kế hoạch điều hành CSTT theo quy tắc này.

Kiểm định tính tuyến tính cho thấy rằng mô hình phi tuyến không phù hợp để giải thích chính sách tiền tệ (CSTT) tại Việt Nam, trong khi các quốc gia như Thái Lan và Malaysia có thể áp dụng mô hình này hiệu quả hơn.

Indonesia và Philippines có thể được phân tích thông qua mô hình phi tuyến LSTR1, cho thấy hành vi phi tuyến trong chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương các nước này cùng với Malaysia Các nghiên cứu trước đây (Martin và Milas, 2004, 2013; Petersen, 2007; Castro, 2008, 2011; Jawadi và cộng sự, 2011) đã chỉ ra rằng mô hình hồi quy logistic bậc 1 (LSTR1) là phù hợp để phân tích chính sách tiền tệ Kết quả này đóng góp vào nghiên cứu thực nghiệm về quy tắc Taylor phi tuyến tại một số quốc gia Đông Nam Á, một vấn đề chưa được đề cập trong các nghiên cứu trước.

Cấu trúc của Luận án

Luận án được trình bày thành năm chương như sau:

- Chương 2 Tổng quan lý thuyết về quy tắc Taylor

- Chương 3 Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu

- Chương 4 Kết quả nghiên cứu và thảo luận

- Chương 5 Kết luận và hàm ý chính sách

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ QUY TẮC TAYLOR

Chính sách tiền tệ và quy tắc Taylor

Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) nhằm mục tiêu ổn định giá cả thông qua quản lý cung tiền NHTƯ có thể xác định ổn định giá cả là mục tiêu chính và công khai điều này để định hình kỳ vọng của người dân Phương pháp này giúp NHTƯ duy trì tính đồng nhất theo thời gian, được xem là yếu tố cốt lõi cho sự thành công của chính sách tiền tệ.

Mishkin (2013) chỉ ra rằng chính sách tiền tệ (CSTT) của các quốc gia không chỉ nhằm mục tiêu ổn định giá cả mà còn hướng đến nhiều vấn đề khác như tạo việc làm, ổn định sản lượng đầu ra, tăng trưởng kinh tế, ổn định thị trường tài chính, lãi suất và tỷ giá hối đoái Do đó, tranh luận giữa các nhà nghiên cứu và nhà hoạch định chính sách về việc CSTT nên tập trung vào mục tiêu duy nhất là ổn định giá cả hay cần linh hoạt theo từng điều kiện kinh tế cụ thể đã diễn ra trong gần một thế kỷ qua.

CSTT tùy nghi cho phép nhà hoạch định chính sách phản ứng nhanh với các tình huống phát sinh, nhưng cũng dễ dẫn đến sự không nhất quán theo thời gian Ví dụ, khi NHTƯ tuyên bố sẽ nâng lãi suất không hạn chế để kiểm soát lạm phát nhưng sau đó không thực hiện, điều này có thể làm giảm lòng tin của người dân vào NHTƯ và làm giảm hiệu quả của CSTT.

Taylor và Mayer (1993) cho rằng chính sách tài chính tùy nghi được quản lý một cách chủ quan, phản ánh sự phê phán các hành vi nhằm thích ứng với biến động kinh tế mà không tuân theo quy tắc hay kế hoạch cụ thể Ngược lại, Kydland, Prescott (1977) và Barro, Gordon (1983) không ủng hộ chính sách này, lập luận rằng việc tăng cung tiền để kích thích sản lượng sẽ dẫn đến sự điều chỉnh kỳ vọng của người dân và doanh nghiệp, làm tăng lạm phát kỳ vọng và thực tế, trong khi chính sách tài chính không còn tác động đến sản lượng.

Một số nhà nghiên cứu hàn lâm và thực nghiệm đã đề xuất tiếp cận điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) theo quy tắc, như Hall và Mankiw (1994), Bernanke và Mishkin (1997), Ball (1999) và Taylor (1993, 2013a) Những quy tắc này bao gồm lý thuyết số lượng tiền tệ của Milton Friedman, quy tắc tập trung vào thu nhập danh nghĩa mục tiêu (NIT) của McCallum, và quy tắc Taylor với mục tiêu lạm phát, được nghiên cứu và ứng dụng rộng rãi trong thực tiễn.

Trong phần này, luận án phân tích các phương pháp điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của một số Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) và xác định phương pháp nào là phù hợp nhất để đạt được mục tiêu CSTT Nghiên cứu thực nghiệm đã rút ra những kết luận quan trọng về quy tắc Taylor trong điều hành CSTT Việc tổng hợp lý thuyết và kết quả nghiên cứu gần đây không chỉ hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách trong việc đưa ra quyết định chính xác, mà còn cung cấp nền tảng lý thuyết vững chắc cho các nhà nghiên cứu kinh tế trong việc phát triển các nghiên cứu liên quan.

Trong phần tiếp theo, luận án sẽ trình bày một cái nhìn tổng quan về lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến hai phương pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương: phương pháp tiếp cận tùy nghi và phương pháp dựa trên quy tắc Đặc biệt, sẽ có sự phân tích sâu sắc về quy tắc Taylor, nhằm làm rõ vai trò và hiệu quả của nó trong việc điều hành CSTT.

2.1.2 Phương pháp tiếp cận tùy nghi

Theo King (1997) và Sauer (2010), cơ quan điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) có thể thu được lợi ích từ việc áp dụng các hành động tùy nghi, bao gồm khả năng linh hoạt ứng phó với cú sốc, gia tăng chính trị, giảm nợ thực tế của chính phủ thông qua lạm phát bất ngờ, và thúc đẩy hoạt động kinh tế cùng giảm tỷ lệ thất nghiệp trong ngắn hạn Tuy nhiên, Taylor (1993) và Mayer (1993) chỉ trích rằng CSTT tùy nghi thường được quản lý một cách chủ quan, không theo quy tắc hay kế hoạch rõ ràng Các quan điểm phản đối CSTT tùy nghi được Kydland và Prescott (1977) cùng Barro và Gordon (1983) nhấn mạnh, cho rằng nếu nhà hoạch định chính sách liên tục tạo ra bất ngờ để tăng sản lượng, các cơ quan tư nhân sẽ điều chỉnh kỳ vọng của họ, dẫn đến lạm phát kỳ vọng và thực tế tăng cao mà không ảnh hưởng đến sản lượng.

Hành động tùy nghi của các nhà hoạch định chính sách có thể gây ra bất lợi cho nền kinh tế, đặc biệt là sự thiên vị lạm phát khi họ cố gắng tăng sản lượng vượt mức cân bằng tiềm năng.

Hành động của các ngân hàng trung ương (NHTƯ) có thể dẫn đến việc tăng tỷ lệ lạm phát và làm mất niềm tin của khu vực tư nhân vào khả năng duy trì tỷ lệ lạm phát thấp Orphanides và Williams (2007) chỉ ra rằng sự không nhất quán về thời gian khiến NHTƯ mất tín nhiệm, trong khi các phương pháp tiếp cận tùy nghi được coi là giải pháp ngắn hạn, thường thiếu tính nhất quán và khó theo dõi Do đó, nhiều nhà nghiên cứu khuyến nghị rằng NHTƯ nên áp dụng các quy tắc trong điều hành chính sách tiền tệ để vượt qua những khó khăn và chỉ trích liên quan đến phương pháp tiếp cận tùy nghi.

Meltzer (1993) định nghĩa quy tắc điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) là "một quy trình hệ thống các quyết định sử dụng thông tin một cách nhất quán và có thể dự đoán" Taylor (2000) mô tả quy tắc này như "một kế hoạch dự phòng rõ ràng trong trường hợp NHTƯ thay đổi công cụ CSTT" Quy tắc được xác định thông qua lựa chọn các công cụ CSTT và đóng vai trò hướng dẫn trong việc thiết lập CSTT (Hall và Mankiw, 1994; Svensson, 1999; Taylor, 1993) Điều này giúp ngăn cản nhà điều hành chính sách CSTT hành động nhằm ổn định sản lượng ngắn hạn và tránh thiên vị lạm phát do cách tiếp cận tùy nghi (Walsh, 2010).

Nghiên cứu của Taylor (1993), Svensson (1999), Orphanides và Williams (2007), Walsh (2010) và Taylor (2013b) chỉ ra rằng cách tiếp cận theo quy tắc mang lại nhiều lợi ích quan trọng Cụ thể, nó giúp tránh các vấn đề không nhất quán trong thời gian, tăng cường kết nối với công chúng, xây dựng sự tín nhiệm, hỗ trợ nhà hoạch định chính sách trong việc dự báo kỳ vọng hợp lý của các cơ quan điều hành chính sách tiền tệ, và giảm thiểu sự không chắc chắn.

Hall và Mankiw (1994) chỉ ra rằng quy tắc chính sách tiền tệ (CSTT) tối ưu cần có ba đặc điểm quan trọng Đầu tiên, CSTT tối ưu phải đạt hiệu quả bằng cách thay đổi lượng tiền cần thiết cho sự thay đổi trong sản lượng mà không làm ảnh hưởng đáng kể đến mức giá Thứ hai, quy tắc CSTT nên đơn giản để dễ áp dụng và duy trì Cuối cùng, trách nhiệm là yếu tố quan trọng, giúp CSTT trở nên đáng tin cậy hơn khi nhà điều hành có quyền tự chủ trong các hành động nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra Ví dụ, Ủy ban CSTT của Ngân hàng Trung ương Anh chịu trách nhiệm trước một Ủy ban Nghị viện (Taylor, 1998).

Sau khi xác định các đặc điểm của một quy tắc chính sách tốt, việc điều hành chính sách tiền tệ theo quy tắc có thể bị ảnh hưởng bởi các tác động phụ Những tác động này, phát sinh từ việc kiểm soát chặt chẽ một biến như lạm phát, có thể dẫn đến sự biến động cao của các biến kinh tế vĩ mô khác như tỷ lệ thất nghiệp Do đó, các nhà hoạch định chính sách cần theo đuổi quy tắc chính sách tiền tệ tối ưu để đạt hiệu quả cao trong việc ổn định giá cả và sản lượng, đồng thời thỏa mãn đủ ba đặc điểm đã đề ra.

Nghiên cứu của Hall và Mankiw (1994), Bernanke và Mishkin (1997), Ball (1999), cùng với Taylor (1993, 2013a) chỉ ra rằng quy tắc chính sách tiền tệ (CSTT) của Milton Friedman liên quan đến lý thuyết số lượng tiền, trong khi McCallum tập trung vào thu nhập danh nghĩa mục tiêu (NIT) và quy tắc Taylor liên quan đến lạm phát mục tiêu Tuy nhiên, sự không chắc chắn về cầu tiền đã làm cho lý thuyết số lượng tiền trở nên kém hấp dẫn đối với các ngân hàng trung ương (NHTƯ) và ít được đề cập trong các nghiên cứu gần đây Do đó, các lập luận hiện tại trong cơ sở lý thuyết chủ yếu tập trung vào quy tắc lạm phát mục tiêu như quy tắc Taylor hoặc thu nhập danh nghĩa mục tiêu.

Các hướng mở rộng đối với quy tắc Taylor

Quy tắc Taylor đã đóng vai trò quan trọng trong việc ổn định giá cả và sản lượng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc điều hành lãi suất của nhiều NHTƯ trên thế giới trong hơn hai thập kỷ qua Mức lạm phát thấp đạt được ở một số nước phát triển gần đây được coi là kết quả của việc thực hiện chính sách tiền tệ theo quy tắc bởi các NHTƯ độc lập Tuy nhiên, bên cạnh mục tiêu chính thống, các mối lo ngại về sự ổn định tài chính đã được đề cập nhiều trong các nghiên cứu sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu từ năm 2007 Vấn đề liệu NHTƯ có trách nhiệm trong việc đảm bảo sự ổn định tài chính hay không vẫn chưa có kết luận rõ ràng, nhưng quan điểm ủng hộ cho rằng mục tiêu ổn định tài chính là một bổ sung hữu ích cho lý thuyết lạm phát mục tiêu linh hoạt.

Nghiên cứu về vai trò của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) trong việc duy trì ổn định tài chính đã thu hút nhiều ý kiến khác nhau Trong khi một số học giả như NHTƯ (2012) và Svensson (2012) nhấn mạnh tầm quan trọng của lãi suất và công cụ điều tiết, thì Allen và Wood (2006) cho rằng việc đảm bảo ổn định tài chính gặp nhiều khó khăn do xung đột với các mục tiêu chính sách khác Baxter (2013) khẳng định ổn định tài chính là điều kiện tiên quyết cho sự ổn định tiền tệ và kinh tế vĩ mô, nhưng chưa có công thức rõ ràng trong luật định để đạt được mục tiêu này Để giải quyết vấn đề này, nhiều nghiên cứu thực nghiệm đã được công bố về quy tắc Taylor và mối liên hệ với ổn định tài chính Luận án này sẽ làm rõ xu hướng mở rộng quy tắc Taylor liên quan đến ổn định tài chính và đánh giá các hướng nghiên cứu mở rộng dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm Quy tắc Taylor mở rộng được hệ thống hóa theo bốn yếu tố: tỷ giá hối đoái, giá tài sản, tín dụng/đòn bẩy và chênh lệch lãi suất Ngoài ra, một số nghiên cứu gần đây cũng đề cập đến các chỉ số tài chính trong bối cảnh quy tắc Taylor mở rộng Bài viết sẽ tổng hợp và phân tích các nghiên cứu thực nghiệm để cung cấp cái nhìn sâu sắc về mối quan hệ giữa quy tắc Taylor và ổn định tài chính.

2.2.2 Cơ sở lý thuyết quy tắc Taylor và ổn định tài chính

2.2.2.1 Quan điểm về ổn định tài chính

Hiện nay, vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về ổn định tài chính, điều này dẫn đến sự thiếu đồng thuận trong việc xác định trách nhiệm của Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) đối với ổn định tài chính.

Định nghĩa ổn định tài chính là yếu tố quan trọng trong việc phát triển công cụ phân tích và chính sách điều hành an toàn cho kinh tế vĩ mô Hiện nay, trên thế giới có nhiều quan điểm khác nhau về ổn định tài chính, trong đó các ngân hàng trung ương đóng vai trò chủ chốt trong việc hình thành các khái niệm này.

Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính, đảm bảo rằng các chủ thể như trung gian tài chính, thị trường tài chính và hạ tầng tài chính hoạt động hiệu quả và có khả năng ứng phó với các cú sốc tiềm ẩn.

NHTƯ Đức nhấn mạnh rằng ổn định tài chính là khả năng duy trì hoạt động hiệu quả của các chức năng chính trong hệ thống tài chính, ngay cả trong giai đoạn kinh tế khó khăn và điều chỉnh cơ cấu Điều này giúp phân bổ nguồn lực và rủi ro tài chính một cách hiệu quả, đồng thời tạo ra nền tảng hạ tầng tài chính vững chắc.

Ngân hàng Trung ương Úc xác định rằng sự ổn định của hệ thống tài chính là trạng thái trong đó các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính phân bổ hiệu quả các luồng vốn giữa tiết kiệm và đầu tư, góp phần vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

- NHTƯ Anh: Ổn định tài chính hàm ý việc xác định rủi ro và hành động để giảm thiểu chúng trong hệ thống tài chính 4 ;

1 Nguồn Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ: https://www.snb.ch/en/iabout/finstab

2 Nguồn NHTƯ Đức: https://www.bundesbank.de/en/tasks/financial-and-monetary-system/financial-and- monetary-stability

3 Nguồn NHTƯ Úc: https://www.rba.gov.au/fin-stability/

4 Nguồn NHTƯ Anh: https://www.bankofengland.co.uk/financial-stability

NHTƯ Châu Âu định nghĩa ổn định tài chính là khả năng của hệ thống tài chính, bao gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính, trong việc chống chọi với các cú sốc và rủi ro do mất cân đối tài chính Tình trạng này giúp giảm thiểu nguy cơ sụp đổ của các trung gian tài chính, từ đó có tác động tích cực đến việc phân bổ tiết kiệm và đầu tư.

Theo tổng kết của một số ngân hàng trung ương trên thế giới, hiện tại chưa có định nghĩa chính thức cho thuật ngữ “ổn định tài chính” Bài viết sẽ tiếp tục trình bày tác động của ổn định tài chính đối với quy tắc Taylor.

2.2.2.2 Ổn định tài chính và quy tắc Taylor

Allen và Wood (2006) định nghĩa sự bất ổn tài chính là giai đoạn mà nhiều đơn vị bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng bên ngoài, với nguyên nhân cốt lõi không nhất thiết liên quan đến vấn đề tài chính mà thường do các yếu tố kinh tế vĩ mô Sự ổn định tài chính sẽ dần được thiết lập lại khi khủng hoảng qua đi Bất ổn tài chính có tính đa dạng và khó nắm bắt, vì vậy định nghĩa về ổn định tài chính của Allen và Wood (2006) được nhiều nhà nghiên cứu và nhà điều hành kinh tế ủng hộ, do họ không đi sâu phân tích nguyên nhân gây ra bất ổn Trong lĩnh vực chính sách tiền tệ (CSTT), ổn định tài chính có thể được phân chia thành hai quan điểm riêng biệt.

(i) Quan điểm thứ nhất là quan điểm truyền thống hay phản ứng, đại diện bởi (Bernanke, 2002) và (Posen, 2006) Theo quan điểm này, NHTƯ phản ứng lại

Để đảm bảo ổn định giá cả và sản lượng, cần tập trung vào việc thu thập tất cả thông tin liên quan Ngăn ngừa khủng hoảng là trách nhiệm của các công cụ pháp lý, không phải là lãi suất Trong trường hợp mất cân bằng tài chính xảy ra, Ngân hàng Trung ương sẽ phải thực hiện các biện pháp cân bằng sau đó.

Quan điểm thứ hai, trái ngược với quan điểm đầu tiên, được coi là quan điểm thay thế hoặc chủ động, được đại diện bởi các tác giả như Borio và White (2004), Roubini (2006), và Woodford (2012) Họ lập luận rằng tất cả thông tin liên quan đã được xem xét kỹ lưỡng.

Trong bối cảnh NHTƯ Châu Âu, sự ổn định tài chính không chỉ phụ thuộc vào việc kiểm soát lạm phát mà còn cần phải chú trọng đến các bất ổn tài chính đã xảy ra trong những năm gần đây, ngay cả khi giá cả ổn định Các tác giả nhấn mạnh rằng ổn định giá cả là điều kiện cần thiết nhưng không đủ để đảm bảo sự ổn định tài chính Do đó, các NHTƯ cần chủ động theo dõi và quản lý các rủi ro tài chính để duy trì một hệ thống tài chính ổn định và hoạt động hiệu quả.

Hình 2.1 Mối liên kết giữa ổn định tài chính và ổn định tiền tệ

Ngân hàng Trung ương Indonesia duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính thông qua cơ chế truyền dẫn trong điều hành chính sách tiền tệ, sử dụng các kênh như lãi suất, tỷ giá hối đoái, giá tài sản và tín dụng Những kênh này có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và lạm phát Do đó, một số nhà nghiên cứu khuyến nghị cần xem xét quy tắc Taylor mở rộng để tăng cường ổn định tài chính.

Xuất phát từ hai quan điểm khác nhau về ổn định tài chính trong việc điều hành chính sách tiền tệ, có ba tranh luận thú vị thường xuyên được đề cập trong các nghiên cứu.

Tổng quan chính sách tiền tệ tại một số quốc gia Đông Nam Á

Nghiên cứu của Asso và cộng sự (2010) về "Quy tắc Taylor và việc vận dụng của các NHTƯ" chỉ ra rằng quy tắc này có thể áp dụng trong chính sách tiền tệ (CSTT) nhằm đạt được mục tiêu kép là ổn định giá cả và tăng trưởng kinh tế, đặc biệt trong các quốc gia theo chế độ lạm phát mục tiêu như Mỹ, Anh, Nhật, Chi Lê và Thụy Sĩ Các quốc gia này không chỉ tập trung vào tỷ lệ lạm phát mà còn xem độ lệch sản lượng như một chỉ báo của áp lực lạm phát trong tương lai, từ đó hướng đến mục tiêu lạm phát hiện tại và tương lai Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm tại các quốc gia như Mỹ, Nhật, Canada và Anh, luận án này sẽ tập trung vào việc đánh giá CSTT tại năm quốc gia Đông Nam Á, trong đó Indonesia, Philippines và Thái Lan áp dụng CSTT lạm phát mục tiêu, trong khi Malaysia và Việt Nam không thực hiện chính sách này.

Luận án này nhằm bổ sung khoảng trống trong các nghiên cứu trước đó bằng cách đánh giá chính sách tiền tệ (CSTT) thông qua quy tắc Taylor Nghiên cứu tập trung vào việc mô tả CSTT ở các quốc gia, nhấn mạnh cách mà các ngân hàng trung ương sử dụng công cụ chính sách nhằm đạt được mục tiêu điều hành trong các khoảng thời gian khác nhau Ngoài ra, sự khác biệt về thể chế giữa các quốc gia cũng được xem xét, vì điều này có thể ảnh hưởng đến các biến được đưa vào mô hình nghiên cứu.

2.3.2 Chính sách tiền tệ tại các quốc gia Đông Nam Á

2.3.2.1 Chính sách tiền tệ của NHTƯ Indonesia

Trước khi áp dụng chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu, Ngân hàng Trung ương Indonesia đã sử dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định và mục tiêu cung tiền Trong cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á năm 1997, Indonesia chịu tác động nặng nề và trải qua sự mất giá mạnh nhất trong số các nước Đông Á, với giá trị đồng Rupiah giảm chỉ còn một phần sáu so với trước khủng hoảng vào giữa tháng 1 năm đó.

1998 gây thiệt hại đáng kể cho nền kinh tế; chẳng hạn như GDP giảm 13% năm

Năm 1998, Indonesia đối mặt với tỷ lệ thất nghiệp cao và thị trường chứng khoán Jakarta sụp đổ, dẫn đến hàng loạt công ty phá sản (Ito, 2007) Thêm vào đó, tỷ lệ lạm phát đạt mức 82% vào giữa năm.

Vào năm 1997, Ngân hàng Trung ương Indonesia (NHTƯ) đã phải nâng lãi suất lên khoảng 70% do cuộc khủng hoảng kinh tế Cuộc khủng hoảng này đã dẫn đến tình trạng xã hội và chính trị bất ổn vào năm 1998, buộc NHTƯ phải từ bỏ chế độ tỷ giá hối đoái điều chỉnh dần và chuyển sang chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi Để ổn định mức giá và tỷ giá, nhiều cải cách thể chế đã được thực hiện, trong đó có việc ban hành Đạo luật số 23 năm 1999, nhằm tăng cường tính độc lập cho NHTƯ trong việc thực hiện chính sách tiền tệ.

Theo Đạo luật này, NHTƯ Indonesia có công cụ tiền cơ sở và mục tiêu độc lập, trong đó sự ổn định của đồng nội tệ là mục tiêu chính cho chính sách tiền tệ, nhằm đảm bảo mức giá thấp và ổn định thông qua việc áp dụng mục tiêu lạm phát Mục tiêu lạm phát 3-5% đã được thông qua vào năm 2000, và tiền cơ sở được xem xét là công cụ chính trong chính sách tiền tệ.

Năm 2004, Ủy ban tiền tệ đã ban hành đạo luật số 3 nhằm duy trì sự ổn định của đồng rupiah và giảm thiểu biến động Chỉ số giá tiêu dùng được sử dụng để đo lường lạm phát, là yêu cầu thiết yếu cho sự phát triển kinh tế bền vững Theo đạo luật này, chính phủ có trách nhiệm thiết lập mục tiêu lạm phát trong ba năm, trong khi Ngân hàng Trung ương có quyền độc lập trong việc quyết định các công cụ để đạt được mục tiêu đó Từ năm 2005, lãi suất đã trở thành công cụ chính của chính sách tiền tệ để tác động đến hoạt động kinh tế, được xác định hàng tháng bởi Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Indonesia Mục tiêu lạm phát cho năm 2016 được thông báo dao động trong biên độ 4 ± 1%.

2.3.2.3 Chính sách tiền tệ của NHTƯ Malaysia

Mục tiêu chính của chính sách tiền tệ (CSTT) mà Ngân hàng Negara Malaysia công bố là giảm lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng GDP thực và duy trì sự cân bằng giữa tính linh hoạt và ổn định của hệ thống tài chính.

Mục tiêu trung hạn của chính sách tiền tệ (CSTT) ở Malaysia từ năm 1990 là sử dụng các chỉ tiêu tiền tệ làm mục tiêu trung gian, với sự chuyển đổi từ M1 sang M3 do mối liên hệ chặt chẽ với tỷ lệ lạm phát Sự phát triển nhanh chóng của hệ thống tài chính và luồng vốn lớn trong những năm gần đây đã ảnh hưởng đến cách thức thực hiện các mục tiêu CSTT này.

Việc tiên đoán M3 trong giai đoạn 1992 và 1993 gặp nhiều khó khăn do lãi suất liên ngân hàng trở thành một mục tiêu trung gian quan trọng Lãi suất này được xác định thông qua Thị trường tiền tệ liên ngân hàng Hồi giáo, do Ngân hàng Trung ương quản lý, trong đó lãi suất cho vay trung bình là tỷ lệ bình quân gia quyền của các khoản đầu tư ngân hàng với Mudarabah trong các giao dịch tiền mặt giữa các ngân hàng trong thị trường Hồi giáo.

Công cụ chính sách tiền tệ ở Malaysia

6 Nguồn NHTƯ Indonesia: https://www.bi.go.id/en/moneter/tujuan-kebijakan/Contents/Default.aspx

7 Nguồn NHTƯ Malaysia: http://www.bnm.gov.my/index.php?ch=en_about&pg=en_intro&lang=en

* Công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ

- Tỷ lệ dự trữ pháp định:

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tại Malaysia được xác định dựa trên các khoản nợ đủ điều kiện, bao gồm tiền gửi không kỳ hạn tại Malaysia Rangit, tiền gửi trong hệ thống thanh toán liên ngân hàng và tiền gửi của Ngân hàng Negara nhằm hỗ trợ thanh khoản Các ngân hàng phải báo cáo cho Ngân hàng Trung ương về khoản nợ đủ điều kiện hai lần mỗi tháng Ngân hàng Negara công bố mức dự trữ hàng tháng dựa trên các báo cáo này, cho phép linh động di chuyển 20% tỷ lệ dự trữ bắt buộc cơ bản, với phần trăm dự trữ được tính toán dựa trên số tiền thiếu hằng ngày của ngân hàng, gấp 1000 lần số tiền thiếu.

Kể từ năm 1993, Malaysia đã phát triển một hệ thống ngân hàng không điều hành theo lãi suất, tạo nền tảng cho thị trường tiền tệ Hồi giáo Đây là quốc gia đầu tiên trên thế giới thiết lập một thị trường tài chính dành riêng cho các ngân hàng Hồi giáo, với các công cụ tài chính ngắn hạn.

Cơ chế tỷ lệ chiết khấu đã được thay thế bằng hệ thống trao đổi thanh khoản giữa các ngân hàng Hồi giáo và ngân hàng thông thường, nhằm cung cấp các dịch vụ ngân hàng Hồi giáo trong các dự án ngân hàng.

Hệ thống ngân hàng Hồi giáo dựa vào việc trao đổi thanh khoản giữa các ngân hàng thặng dư và thiếu hụt, nhằm đầu tư số dư dư thừa trên cơ sở đầu cơ Tất cả các ngân hàng trong nước tham gia vào hệ thống thanh toán bù trừ, và nếu vẫn còn thâm hụt, Ngân hàng Trung ương sẽ hỗ trợ tài chính với thời gian từ một đến mười hai tháng, với mức đầu tư tối thiểu là 50.000 RM Các cuộc đàm phán giữa các ngân hàng được điều chỉnh bởi tỷ lệ tham gia vào lợi nhuận, cùng với sự giám sát của Ngân hàng Negara Malaysia Hệ thống này không chỉ phục vụ cho việc tài chính các dự án mà còn giải quyết các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn, đồng thời duy trì tính ổn định trong hệ thống ngân hàng thông qua việc tạo ra cơ chế tài chính và thanh khoản hiệu quả.

Hệ thống trao đổi thanh khoản giữa các ngân hàng được thiết lập để tạo ra sự linh hoạt trong việc chuyển khoản thanh toán, cho phép các ngân hàng thặng dư hỗ trợ các ngân hàng thiếu hụt Các cơ chế này đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì sự ổn định của hệ thống tài chính.

+ Đầu tư thông qua đầu cơ giữa các ngân hàng

Kết luận chương tổng quan lý thuyết về quy tắc Taylor

Trong chương tổng quan lý thuyết về quy tắc Taylor, luận án đã phân tích sâu sắc lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm gần đây Kết quả nghiên cứu cho thấy một số điểm quan trọng có thể được rút ra.

Luận án không phân tích sự hiệu quả của việc NHTƯ điều hành CSTT theo quy tắc hay tùy nghi, nhưng các nghiên cứu cho thấy NHTƯ nên áp dụng quy tắc nhất định, như quy tắc Taylor Lãi suất của nhiều NHTƯ có thể được mô tả bằng quy tắc Taylor, với nhiều nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng quy tắc này đã được áp dụng rộng rãi ở cả các quốc gia phát triển và các nền kinh tế mới nổi.

Nghiên cứu về Taylor phi tuyến chủ yếu được thực hiện tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trong khi các quốc gia có nền kinh tế mới nổi cần tiến hành thêm các nghiên cứu để hiểu rõ hơn về vấn đề này.

Trong bối cảnh phát triển mới của lý thuyết và thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), quy tắc Taylor gốc đã trở nên không còn phù hợp để phân tích CSTT của ngân hàng trung ương (NHTƯ) ở nhiều quốc gia, đặc biệt là sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu.

Năm 2007, luận án đã phân tích lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về các hướng mở rộng của quy tắc Taylor trong điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) của ngân hàng trung ương, với mục tiêu xem xét đến sự ổn định tài chính Tùy thuộc vào đặc điểm CSTT của từng quốc gia, quy tắc Taylor cần được mở rộng và bổ sung một số biến số phù hợp Kết quả nghiên cứu cho thấy quy tắc Taylor mở rộng có thể được phân chia thành bốn hướng chính: tỷ giá hối đoái, giỏ tài sản, tín dụng và chênh lệch lãi suất (Kọfer, 2014).

Chỉ số tổng hợp đại diện cho các biến, như chỉ số FCI, đã được nghiên cứu liên quan đến quy tắc Taylor mở rộng.

Quy tắc Taylor mở rộng với biến TGHĐ đã được nghiên cứu nhiều cả về lý thuyết lẫn thực nghiệm, đặc biệt là trong phân tích chính sách tiền tệ (CSTT) tại các nước mới nổi Mặc dù có nhiều nghiên cứu, vẫn chưa có câu trả lời rõ ràng về vai trò của giá tài sản, tín dụng và chênh lệch lãi suất đối với quy tắc này Những yếu tố này được coi là bổ sung hữu ích và cần được xem xét khi phân tích ảnh hưởng của chúng lên CSTT Các nghiên cứu thực nghiệm hiện tại chủ yếu tập trung vào các quốc gia phát triển, do đó, cần có thêm các nghiên cứu lý thuyết và thực nghiệm liên quan đến quy tắc Taylor, đặc biệt là tại các quốc gia có nền kinh tế mới nổi.

Nghiên cứu cho thấy nền kinh tế của một số quốc gia Đông Nam Á bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của TGHĐ, và việc điều hành CSTT của các NHTƯ có thể được mô tả qua quy tắc Taylor, đặc biệt là quy tắc Taylor phi tuyến chưa được khai thác nhiều Để lấp đầy khoảng trống này, luận án sẽ phân tích quy tắc Taylor tuyến tính phiên bản hướng tới tương lai và quy tắc Taylor mở rộng với TGHĐ, đồng thời áp dụng mô hình STR để khảo sát quy tắc Taylor phi tuyến trong điều hành CSTT tại Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam.

Trong chương 2, bài viết phân tích tổng quan về chính sách tiền tệ (CSTT) và nhấn mạnh vai trò của lãi suất như một công cụ quan trọng để đạt được mục tiêu CSTT tại các quốc gia Luận án đặt ra câu hỏi liệu Ngân hàng Trung ương có thực hiện CSTT theo quy tắc Taylor hay không, đồng thời sử dụng quy tắc Taylor rút gọn để phân tích CSTT mà không cần dữ liệu lạm phát mục tiêu Chỉ có Indonesia, Philippines và Thái Lan áp dụng chế độ CSTT lạm phát mục tiêu (LPMT), trong khi Malaysia và Việt Nam không theo chế độ này Phân tích quy tắc Taylor giữa các quốc gia theo và không theo LPMT có thể dẫn đến những kết quả khác nhau Ngoài ra, năm quốc gia nghiên cứu đều là các nước đang phát triển, thường chịu ảnh hưởng lớn từ biến động tỷ giá hối đoái, tạo điều kiện cho việc nghiên cứu quy tắc Taylor mở rộng với yếu tố tỷ giá.

Trong phần tiếp theo, luận án sẽ giới thiệu các loại mô hình quy tắc Taylor, cùng với phương pháp và dữ liệu nghiên cứu liên quan đến quy tắc Taylor tuyến tính mở rộng, phiên bản TGHĐ hướng tới tương lai, và quy tắc Taylor phi tuyến.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ DỮ LIỆU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Ngày đăng: 22/07/2021, 21:04

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[65]. Chadha, J. S., Sarno, L., & Valente, G. (2004). Monetary policy rules, asset prices, and exchange rates. IMF Economic Review, 51(3), 529-552 Sách, tạp chí
Tiêu đề: IMF Economic Review, 51
Tác giả: Chadha, J. S., Sarno, L., & Valente, G
Năm: 2004
[66]. Chow, H. K., Lim, G. C., & McNelis, P. D. (2014). Monetary regime choice in Singapore: Would a Taylor rule outperform exchange-rate management?Journal of Asian Economics, 30, 63-81.doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.asieco.2013.09.001 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Asian Economics, 30
Tác giả: Chow, H. K., Lim, G. C., & McNelis, P. D
Năm: 2014
[68]. Cipollini, A., Coakley, J., & Lee, H. (2015). The European sovereign debt market: from integration to segmentation. The European Journal of Finance, 21(2), 111-128 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The European Journal of Finance,21
Tác giả: Cipollini, A., Coakley, J., & Lee, H
Năm: 2015
[69]. Clarida, R., Gali, J., & Gertler, M. (1998). Monetary policy rules in practice: some international evidence. European economic review, 42(6), 1033- 1067 Sách, tạp chí
Tiêu đề: European economic review, 42
Tác giả: Clarida, R., Gali, J., & Gertler, M
Năm: 1998
[70]. Clarida, R., Gali, J., & Gertler, M. (2000). Monetary policy rules and macroeconomic stability: evidence and some theory. The Quarterly journal of economics, 115(1), 147-180 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Quarterly journal ofeconomics, 115
Tác giả: Clarida, R., Gali, J., & Gertler, M
Năm: 2000
[71]. Clarida, R. H. (2014). Monetary policy in open economies: Practical perspectives for pragmatic central bankers. Journal of Economic Dynamics and Control, 49, 21-30. doi:http://dx.doi.org/10.1016/j.jedc.2014.09.036 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Economic Dynamics andControl, 49
Tác giả: Clarida, R. H
Năm: 2014
[72]. Corsetti, G., Kuester, K., Meier, A., & Müller, G. J. (2013). Sovereign risk, fiscal policy, and macroeconomic stability. The Economic Journal, 123(566), F99-F132 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Economic Journal, 123
Tác giả: Corsetti, G., Kuester, K., Meier, A., & Müller, G. J
Năm: 2013
[73]. Cosslett, S. R., & Lee, L.-F. (1985). Serial correlation in latent discrete variable models. Journal of Econometrics, 27(1), 79-97 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Econometrics, 27
Tác giả: Cosslett, S. R., & Lee, L.-F
Năm: 1985
[74]. Côté, D., Kuszczak, J., Lam, J. P., Liu, Y., & Amant, P. S. (2004). The performance and robustness of simple monetary policy rules in models of the Canadian economy. Canadian Journal of Economics/Revue canadienne d'économique, 37(4), 978-998 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Canadian Journal of Economics/Revue canadienned'économique, 37
Tác giả: Côté, D., Kuszczak, J., Lam, J. P., Liu, Y., & Amant, P. S
Năm: 2004
[75]. Cukierman, A., & Gerlach, S. (2003). The inflation bias revisited: Theory and some international evidence. The Manchester School, 71(5), 541-565 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The Manchester School, 71
Tác giả: Cukierman, A., & Gerlach, S
Năm: 2003
[76]. Cukierman, A., & Muscatelli, A. (2008). Nonlinear Taylor rules and asymmetric preferences in central banking: Evidence from the United Kingdom and the United States. The BE Journal of macroeconomics, 8(1) Sách, tạp chí
Tiêu đề: The BE Journal of macroeconomics, 8
Tác giả: Cukierman, A., & Muscatelli, A
Năm: 2008
[77]. Curdia, V., & Woodford, M. (2010). Credit spreads and monetary policy.Journal of money, credit and banking, 42(s1), 3-35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of money, credit and banking, 42
Tác giả: Curdia, V., & Woodford, M
Năm: 2010
[79]. Daude, C., Yeyati, E. L., & Nagengast, A. J. (2016). On the effectiveness of exchange rate interventions in emerging markets. Journal of International Money and Finance, 64, 239-261 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of International Moneyand Finance, 64
Tác giả: Daude, C., Yeyati, E. L., & Nagengast, A. J
Năm: 2016
[80]. De la Torre, A., Yeyati, E. L., & Pienknagura, S. (2013). Latin America and the Caribbean as Tailwinds Recede: In Search of Higher Growth (LAC Semiannual Report, April 2013): World Bank Publications Sách, tạp chí
Tiêu đề: Latin Americaand the Caribbean as Tailwinds Recede: In Search of Higher Growth (LACSemiannual Report, April 2013)
Tác giả: De la Torre, A., Yeyati, E. L., & Pienknagura, S
Năm: 2013
[83]. Dijk, D. v., Terọsvirta, T., & Franses, P. H. (2002). Smooth transition autoregressive models—a survey of recent developments. Econometric reviews, 21(1), 1-47 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Econometric reviews,21
Tác giả: Dijk, D. v., Terọsvirta, T., & Franses, P. H
Năm: 2002
[86]. Dolado, J. J., Marı́a-Dolores, R., & Naveira, M. (2005). Are monetary- policy reaction functions asymmetric?: The role of nonlinearity in the Phillips curve. European economic review, 49(2), 485-503 Sách, tạp chí
Tiêu đề: European economic review, 49
Tác giả: Dolado, J. J., Marı́a-Dolores, R., & Naveira, M
Năm: 2005
[88]. Edwards, S. (2007). The relationship between exchange rates and inflation targeting revisited. Central Banking, Analysis, and Economic Policies Book Series, 11, 373-413 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Central Banking, Analysis, and Economic PoliciesBook Series, 11
Tác giả: Edwards, S
Năm: 2007
[90]. Filosa, R. (2001). Monetary policy rules in some mature emerging economies. BIS papers, 8, 39-68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: BIS papers, 8
Tác giả: Filosa, R
Năm: 2001
[91]. Fuhrer, J., & Tootell, G. (2008). Eyes on the prize: How did the fed respond to the stock market? Journal of Monetary Economics, 55(4), 796-805 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Journal of Monetary Economics, 55
Tác giả: Fuhrer, J., & Tootell, G
Năm: 2008
[92]. Gagnon, J. E., & Ihrig, J. (2004). Monetary policy and exchange rate pass through. ‐ International Journal of Finance & Economics, 9(4), 315-338 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Finance & Economics, 9
Tác giả: Gagnon, J. E., & Ihrig, J
Năm: 2004

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w