MỞ ðẦU
Tớnh cấp thiết của ủề tài
Trong mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của đất nước, vấn đề việc làm và thu nhập luôn là chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước, nhằm tạo ra nhiều việc làm và đảm bảo thu nhập ổn định cho người lao động Nếu một quốc gia hoặc địa phương liên tục chịu áp lực về thất nghiệp, người lao động thiếu việc làm và thu nhập thấp, thì tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội sẽ tiềm ẩn nhiều phức tạp, dẫn đến kinh tế chậm phát triển.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH-HĐH) đòi hỏi lực lượng lao động có trình độ cao Cạnh tranh trên thị trường lao động gia tăng khiến thanh niên cần có cơ hội việc làm và phát triển nghề nghiệp Do đó, việc định hướng, hỗ trợ học nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên là rất quan trọng để đảm bảo thành công trong sự nghiệp CNH-HĐH, đặc biệt là trong phát triển nông nghiệp và nông thôn, với mục tiêu xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao.
Lực lượng lao động thanh niên nông thôn chiếm khoảng 75% tổng lực lượng lao động cả nước, nhưng tỷ lệ thanh niên nông thôn qua dạy nghề chỉ đạt 17%, với khoảng 7% tổng số bằng cấp, chứng chỉ Nguyên nhân chính là tâm lý xem nhẹ học nghề trong cộng đồng và khả năng chi trả hạn chế Việc học nghề chưa gắn kết với thị trường lao động, dẫn đến khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm Hệ thống cơ sở dạy nghề còn thiếu, cơ sở vật chất lạc hậu, đặc biệt trong ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn, nội dung đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thực tiễn Đảng và Nhà nước Việt Nam đã quan tâm đến công tác dạy nghề cho thanh niên nông thôn, nhưng trình độ chuyên môn, tay nghề của họ vẫn còn hạn chế Việc đổi mới toàn diện công tác dạy nghề, tư vấn, hỗ trợ vốn cho thanh niên nông thôn là rất cần thiết, đặc biệt là cải cách hình thức và ngành nghề dạy nghề, cùng với chính sách khuyến khích tham gia học nghề.
Việc nghiên cứu đề xuất chính sách dạy nghề và tạo việc làm cho thanh niên nông thôn đến năm 2020 là rất cần thiết để xây dựng cơ sở khoa học cho phát triển nguồn nhân lực nông thôn Nghiên cứu này nhằm xác định những điểm yếu của hệ thống dạy nghề hiện tại và phát hiện sự không khớp giữa năng lực của người lao động nông thôn với nhu cầu của doanh nghiệp Đặc biệt, huyện Đông Anh, với dân số 348.570 người, trong đó có 318.245 người làm nông nghiệp, đang đối mặt với tình trạng lao động có việc làm nhưng thu nhập thấp và không ổn định Số lao động không có việc làm khoảng 14.700 người, trong đó có 7.800 nữ thanh niên Mặc dù huyện có 2 khu công nghiệp, thanh niên nông thôn vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc ổn định với thu nhập cao do trình độ học vấn và tay nghề thấp Họ chủ yếu chỉ tìm được những công việc đơn giản, theo thời vụ, với mức thu nhập không bền vững.
Bắt nguồn từ thực tiễn khách quan, chúng tôi tiến hành nghiên cứu về đề tài: “Giải pháp tăng cường công tác hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên nông thôn huyện Đông Anh - Hà Nội.” Nghiên cứu này nhằm tìm ra các phương thức hiệu quả để nâng cao cơ hội việc làm cho thanh niên tại khu vực nông thôn, góp phần phát triển kinh tế địa phương và cải thiện đời sống người dân.
Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung đánh giá thực trạng công tác hỗ trợ tạo việc làm từ ựó ựề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên nông thôn ở huyện đông Anh - Hà Nội
Bài viết này nhằm hệ thống hoá lý luận và thực tiễn về công tác hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, đồng thời đánh giá thực trạng công tác này tại huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội.
Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả và hiệu quả công tác hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên nông thôn huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội Đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường công tác hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên nông thôn tại huyện Đông Anh - Hà Nội.
ðối tượng và phạm vị nghiên cứu
Công tác hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên nông thôn huyện đông Anh - Hà Nội
Về nội dung: Nghiờn cứu thực trạng việc làm, vấn ủề tư vấn, cỏch thức tạo việc làm cho thanh niên nông thôn
Về không gian: địa bàn huyện đông Anh, thành phố Hà Nội
Về thời gian: Nguồn số liệu phục vụ ủề tài ủược thu thập giai ủoạn
2009 - 2011 Số liệu sơ cấp ủược thu thập thụng qua ủiều tra, phỏng vấn hộ gia ủỡnh, thanh niờn năm 2011.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Những vấn ủề lý luận
2.1.1 Một số khỏi niệm liờn quan ủến vấn ủề tạo việc làm cho thanh niờn
Lao động là hoạt động thiết yếu của con người, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần cho xã hội Năng suất, chất lượng và hiệu quả của lao động chính là những yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước.
Người lao động là công dân từ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và ký kết hợp đồng lao động Họ có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm Những người cần tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ việc làm, phù hợp với nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khỏe của bản thân.
Người sử dụng lao động bao gồm doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân (tối thiểu 18 tuổi) có quyền thuê mướn và trả lương cho lao động Họ có thể trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động, đồng thời có quyền điều chỉnh số lượng lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất, kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Nguồn lao động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định có khả năng tham gia lao động, bao gồm những người đang có việc làm, người làm việc không ổn định và người thất nghiệp đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Việc làm được định nghĩa là mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập và không bị pháp luật cấm Trách nhiệm giải quyết việc làm và đảm bảo mọi người có cơ hội lao động thuộc về Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội.
Người cú việc làm được định nghĩa là những cá nhân từ 15 tuổi trở lên có hoạt động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân Để được coi là có việc làm, họ phải có thời gian làm việc không dưới mức chuẩn quy định trong tuần lễ liền kề trước thời điểm điều tra Trong nhiều quốc gia, mức chuẩn giờ làm việc là 1 giờ, trong khi tại Việt Nam, mức chuẩn này là 8 giờ.
Trong tuần lễ tham khảo, những người nghỉ việc do lý do bất khả kháng như ốm đau, thai sản, nghỉ phép hay nghỉ hè vẫn được coi là có việc làm nếu họ có thời gian làm việc thực tế không dưới mức quy định Họ sẽ tiếp tục trở lại làm việc bình thường sau thời gian tạm nghỉ và vẫn được tính là người có việc làm.
Dựa vào chế độ làm việc, thời gian thực tế và nhu cầu lao động của người được khảo sát, việc làm trong tuần lễ trước điều tra được xác định Người lao động được phân thành hai nhóm: người có việc làm và người thất nghiệp.
Người ủng hộ việc làm là những cá nhân có số giờ làm việc trong tuần từ 36 giờ trở lên nhưng không có nhu cầu làm thêm, hoặc có số giờ làm việc dưới 36 giờ nhưng đáp ứng đủ yêu cầu tối thiểu đối với những công việc nặng nhọc, độc hại.
Người thiếu việc làm được định nghĩa là những cá nhân có thời gian làm việc trong tuần dưới 36 giờ, hoặc dưới số giờ quy định cho các công việc nặng nhọc, độc hại Họ sẵn sàng làm việc và có nhu cầu làm thêm giờ khi có cơ hội việc làm.
Thất nghiệp: Theo luật lao ủộng nước ta sửa ủổi và bổ sung năm 2002:
Thất nghiệp là tình trạng những người trong độ tuổi lao động muốn làm việc nhưng chưa tìm được việc làm, được chia thành thất nghiệp dài hạn và ngắn hạn Mặc dù ở khu vực nông thôn, thất nghiệp hiếm gặp, nhưng tình trạng thiếu việc làm lại rất phổ biến Cả thất nghiệp và thiếu việc làm đều là nguyên nhân chính dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội như cờ bạc, rượu chè, nghiện hút và mại dâm.
Những người khụng thuộc lực lượng lao ủộng trong ủộ tuổi lao ủộng
Người không hoạt động kinh tế, hay còn gọi là dân số không hoạt động kinh tế, bao gồm toàn bộ số người từ 15 tuổi trở lên không thuộc bộ phận có việc làm và thất nghiệp Những người này không tham gia vào lực lượng lao động vì nhiều lý do, như đang đi học, làm công việc nội trợ, già cả, ốm đau kéo dài, tàn tật không có khả năng lao động, hoặc các tình trạng khác.
Người thất nghiệp là những cá nhân từ 15 tuổi trở lên trong độ tuổi lao động, không có việc làm trong tuần tham khảo nhưng có nhu cầu và sẵn sàng làm việc, tuy nhiên lại không tìm được công việc phù hợp.
* Căn cứ vào thời gian thất nghiệp, người thất nghiệp ủược chia thành: Thất nghiệp ngắn hạn và thất nghiệp dài hạn
Thất nghiệp ngắn hạn: Là người thất nghiệp liên tục từ dưới 12 tháng tớnh từ ngày ủăng ký thất nghiệp hoặc từ thời ủiểm ủiều tra trở về trước
Thất nghiệp dài hạn được định nghĩa là tình trạng người lao động không có việc làm trong suốt 12 tháng trở lên, tính từ ngày đăng ký thất nghiệp hoặc từ thời điểm điều tra.
Trong phân loại cơ cấu của các thị trường lao động hiện nay, thất nghiệp được chia thành ba loại chính: thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp theo chu kỳ và thất nghiệp có tính cơ cấu.
Cơ sở thực tiễn của vấn ủề nghiờn cứu
2.2.1 Kinh nghiệm của một số nước trờn thế giới về vấn ủề lao ủộng nụng thụn
Trung Quốc, với dân số hơn 1,4 tỷ người, trong đó gần 70% sống ở khu vực nông thôn, đang đối mặt với thách thức về việc làm khi hàng năm có hơn 10 triệu lao động trẻ tuổi tham gia vào lực lượng lao động Để giải quyết vấn đề này, từ năm 1978, Trung Quốc đã thực hiện chính sách “Ly nông bất ly hương, nhập xưởng bất thành” nhằm phát triển công nghiệp Hương Chấn, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phân bổ lại lao động nông thôn Kết quả là, trong 12 năm từ 1978 đến 1990, doanh nghiệp Hương Chấn đã tạo ra 64,3 triệu việc làm, nâng tổng số lao động lên 92,6 triệu người Đến năm 1991, Trung Quốc có 19 triệu xí nghiệp Hương Chấn, thu hút 96 triệu lao động, chiếm 13,8% lực lượng lao động nông thôn, và tạo ra giá trị tổng sản lượng đạt 1162 tỷ NDT, tương đương 60% tổng giá trị sản phẩm trong khu vực nông thôn.
Trong phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn, Trung Quốc đã thực hiện chính sách đa dạng hóa và chuyển đổi cơ cấu kinh tế, nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh Đặc biệt, việc phi tập trung hóa trong nông nghiệp thông qua hình thức khoán sản phẩm đã được áp dụng, khuyến khích nông dân đầu tư dài hạn vào phát triển sản xuất nông nghiệp và mở rộng các hoạt động phi nông nghiệp trong nông thôn.
Tạo môi trường ủng hộ phát triển nông thôn cần áp dụng nhiều hình thức khác nhau, bao gồm bảo vệ hàng hóa sản xuất trong nước và hạn chế di chuyển nguồn lao động giữa các vùng.
Thiết lập một hệ thống tài chính hiệu quả là cần thiết để phát triển doanh nghiệp nông thôn Nhà nước cần triển khai các chính sách hỗ trợ thuận lợi nhằm khuyến khích doanh nghiệp nông thôn tham gia vào thị trường lao động, từ đó tạo ra việc làm và nâng cao thu nhập cho thanh niên tại khu vực này.
Duy trì và mở rộng mối quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp nông thôn và doanh nghiệp nhà nước là rất quan trọng Sự liên kết chặt chẽ giữa nhà nước, doanh nghiệp và các thành phần kinh tế sẽ thúc đẩy phát triển bền vững Doanh nghiệp nông thôn có lợi thế về khai thác và phát triển lao động, nhưng cần tập trung vào việc phát triển thị trường sản phẩm để cạnh tranh hiệu quả hơn Điều này đòi hỏi sự hợp tác cùng có lợi trong sản xuất, lưu thông và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường.
Sau năm 1945, nền kinh tế Nhật Bản chịu thiệt hại nặng nề do chiến tranh, với hơn 13 triệu người thất nghiệp Để khôi phục kinh tế, chính phủ Nhật Bản đã triển khai nhiều chính sách và biện pháp nhằm phát triển kinh tế và tạo ra việc làm cho người lao động.
Nhật Bản đã tận dụng sự hỗ trợ tài chính và thị trường từ một số nước viện trợ để đầu tư vào nguồn vốn và thiết bị trong giai đoạn phục hồi kinh tế, tạo nền tảng cho sự phát triển mạnh mẽ sau này Mặc dù có hạn chế trong chi tiêu cho phúc lợi xã hội, Nhật Bản vẫn đầu tư lớn vào giáo dục và đào tạo Nhờ đó, người Nhật Bản đã đạt được trình độ chuyên môn kỹ thuật rất cao.
Nhật Bản đã đầu tư vào các ngành có hiệu quả cao như luyện kim, hóa chất, đóng tàu, chế tạo máy và điện tử, nhờ vào nguồn vốn huy động từ tích lũy, tiết kiệm và phát hành công trái Đồng thời, quốc gia này cũng chú trọng vào việc đầu tư nghiên cứu khoa học kỹ thuật và khoa học ứng dụng để thúc đẩy sản xuất hàng tiêu dùng.
Thị trường Nhật Bản có tiềm năng lớn, với hàng hóa xuất khẩu sang Đông Nam Á, châu Mỹ và châu Âu Chính phủ Nhật Bản thực hiện chính sách công nghiệp hóa nông thôn, chuyển đổi nông nghiệp truyền thống thành nền nông nghiệp hiện đại, đồng thời phát triển nông thôn theo hướng đa dạng hóa để tạo việc làm Ngành tiểu thủ công nghiệp truyền thống cũng được khuyến khích phát triển Trong những năm qua, phong trào "Mỗi thôn, làng có một sản phẩm" ở vùng Tây Nam Nhật Bản đã khai thác ngành nghề nông thôn hiệu quả Phong trào phục hồi ngành nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống đã lan rộng khắp Nhật Bản, góp phần tạo việc làm cho hàng triệu lao động và nâng cao mức sống cũng như tiêu thụ ở vùng nông thôn.
Malaysia hiện đang phát triển mạnh mẽ với nhu cầu lao động cao, nhưng trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, nước này đang đối mặt với tình trạng thừa lao động Để giải quyết vấn đề này, Malaysia đã triển khai những chính sách hợp lý nhằm tạo việc làm hiệu quả ở nông thôn.
Khai thác những vựng đất mới để sản xuất nông nghiệp theo định hướng của chính phủ nhằm giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở khu vực nông thôn là một giải pháp quan trọng Malaysia đã có kinh nghiệm hiệu quả trong việc chuyển đổi lao động nông thôn, giúp giảm tình trạng dư thừa lao động và tăng cường khả năng tận dụng nguồn lực, đồng thời đáp ứng nhu cầu lao động từ nước ngoài.
Khai thác những vựng đất mới để sản xuất nông nghiệp theo định hướng của chính phủ nhằm giải quyết việc làm cho lao động dư thừa trong khu vực nông thôn Nhà nước không chỉ đầu tư vào cơ sở hạ tầng mà còn vào các cơ sở phúc lợi xã hội khác, kèm theo cơ chế thu hút đầu tư và thông tin để người dân ổn định cuộc sống.
Thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến nông sản, nhằm nâng cao giá trị và giải quyết tình trạng lao động dư thừa Đồng thời, việc chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, thương mại và dịch vụ cũng được chú trọng Sự phát triển sản xuất sẽ thu hút ngày càng nhiều lao động tham gia.
Khi nền kinh tế đạt mức toàn dụng và lao động, Malaysia đã chuyển sang sử dụng nhiều vốn và áp dụng công nghệ hiện đại Điều này thực hiện thông qua việc thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học, các trung tâm đào tạo quốc gia và các tổ chức công nghiệp chế biến, cũng như các hộ nông dân tại các vùng nguyên liệu Mục tiêu là ứng dụng kỹ thuật mới và cung cấp nguyên liệu thông qua đào tạo, phát triển đồng bộ các ngành nghề ở nông thôn.
2.2.2 Tình hình về việc làm và thu nhập cho thanh niên ở Việt Nam
2.2.2.1 Thực trạng về việc làm và thu nhập cho thanh niên ở nước ta
Sơ ủồ 2.1: Cơ cấu lực lượng lao ủộng thanh niờn
(Nguồn: Số liệu ủiều tra dõn số việc làm 2006, 2008)
Nước ta ủược ủỏnh giỏ là cú cơ cấu “dõn số vàng” với lực lượng lao ủộng khoảng 45,6 triệu người (năm 2006) Dõn số trong thanh niờn là 26,4
Tổng số thanh niên (15-29 tuổi)
Khụng thuộc lực lượng lao ủộng Thuộc lực lượng lao ủộng
Có việc làm Thất nghiệp
Làm công phi chính thức (cho hộ khác)
Làm chủ SXKD (thuờ lao ủộng)
Tự làm cho bản thõn và gia ủỡnh
Tự tạo việc làm là một xu hướng quan trọng trong lực lượng lao động trẻ, với 15,05 triệu thanh niên có khả năng tham gia Tổng cầu về lao động trong nhóm này đạt 17,28 triệu người, với mức tăng trung bình hàng năm là 260.000 người.