Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam.Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam.Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam.Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam.Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch thông tin kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam.
Sự cần thiết của đề tài
Minh bạch trong tài chính công đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế quốc gia thông qua nhiều tác động khác nhau Đầu tiên, các đơn vị công sử dụng ngân sách nhà nước để cung cấp dịch vụ công, do đó, Chính phủ và cộng đồng có quyền truy cập thông tin minh bạch để đảm bảo việc sử dụng ngân sách là hợp lý và hiệu quả Điều này quyết định tính hiệu quả trong phân bổ nguồn lực và phát triển kinh tế Thứ hai, minh bạch tạo điều kiện cho người dân giám sát hoạt động của các đơn vị công, khuyến khích họ cung cấp thông tin một cách có trách nhiệm Thứ ba, nó là chìa khóa chống tham nhũng, tăng cường niềm tin của người dân và thúc đẩy trách nhiệm giải trình Cuối cùng, trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, minh bạch tài chính công được coi là chiến lược thu hút đầu tư trong và ngoài nước, đồng thời là cam kết quan trọng đối với các quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát triển, trong việc thu hút viện trợ.
Minh bạch trong tài chính công đóng vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi kinh tế của Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế đang công nghiệp hóa và đối mặt với vấn đề tham nhũng Theo báo cáo chỉ số công khai ngân sách năm 2017 (OBI 2017) của Liên minh Minh bạch ngân sách (BTAP) và Tổ chức Hợp tác ngân sách quốc tế (IBP), Việt Nam chỉ đạt 15/100 điểm, giảm 03 điểm so với năm trước.
2 điểm so với năm 2016 và thấp hơn khá nhiều so với mức trung bình toàn cầu (42/100 điểm)” (Cẩm Tú,
2018) “Chỉ số tham nhũng trong khu vực công của Việt Nam năm 2017 theo đánh giá của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) công bố ngày 22/2/2018 là
107/180 trên bảng xếp hạng toàn cầu và tiếp tục nằm trong nhóm quốc gia có mức tham nhũng nghiêm trọng”
Nguyên nhân này dẫn đến việc ngân sách nhà nước bị thâm hụt nghiêm trọng, chất lượng dịch vụ công giảm sút và niềm tin của người dân, các nhà tài trợ cùng viện trợ bị suy giảm.
Việt Nam cần thiết phải thu hút các khoản đầu tư, viện trợ và tài trợ để thúc đẩy sự phát triển của đất nước Việc gia nhập và hội nhập vào các tổ chức kinh tế toàn cầu sẽ mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế Việt Nam.
Việt Nam đã phát triển nhanh chóng, giảm thiểu tình trạng nghèo đói, tham nhũng và khủng hoảng kinh tế Để thực hiện các cam kết quốc tế và giảm tham nhũng, các đơn vị công cần cung cấp minh bạch thông tin tài chính Đặc biệt, các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) tại Việt Nam có tính đặc thù cao, được quản lý bởi cơ quan nhà nước và nhận ngân sách nhà nước để cung cấp dịch vụ công, đồng thời tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh Nhà nước hiện đang thúc đẩy khả năng tự chủ tài chính của các đơn vị này nhằm giảm gánh nặng ngân sách và nâng cao chất lượng dịch vụ Các đơn vị SNCL có thể tự quyết định về hoạt động của mình và chuyển sang cơ chế doanh nghiệp nếu cần Tuy nhiên, việc tiếp cận thông tin tài chính của các đơn vị này vẫn gặp khó khăn và không sẵn có, trong khi nhà nước chỉ yêu cầu cung cấp báo cáo tài chính đến một số cơ quan quản lý nhất định.
Minh bạch trong tài chính công đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội, điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu và thực tiễn công nhận trong suốt nhiều thập kỷ qua (Williams, 2015) Tuy nhiên, nghiên cứu về minh bạch tài chính công trong khu vực công, đặc biệt là tại các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) ở Việt Nam, vẫn chưa được chú trọng đầy đủ và còn nhiều khoảng trống cần được khai thác.
Tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “xác định các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến minh bạch tài chính công tại các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) ở Việt Nam” nhằm nhận diện các yếu tố tác động đến mức độ minh bạch tài chính công Nghiên cứu sẽ phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhân tố này và từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao minh bạch tài chính công tại các đơn vị SNCL ở Việt Nam.
Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Nhận diện các nhân tố bên trong đơn vị tác động đến minh bạch TTKT của đơn vị SNCL tại Việt Nam.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, 03 mục tiêu nghiên cứu cụ thể được xác định như sau:
(1) Xác định các nhân tố bên trong đơn vị tác động đến minh bạch TTKT của đơn vị SNCL;
(2) Xác định các thành phần đo lường cho minh bạch TTKT của đơn vị SNCL;
(3) Xác định mức độ tác động của các nhân tố này đến minh bạch TTKT của đơn vị SNCL.
Ba câu hỏi nghiên cứu được đặt ra tương ứng với ba mục tiêu cụ thể ở trên như sau:
(1) Minh bạch TTKT của đơn vị SNCL Việt Nam bị tác động bởi những nhân tố bên trong nào?
(2) Minh bạch TTKT được đo lường bởi các thành phần nào?
(3) Mức độ tác động của các nhân tố này đến minh bạch TTKT của đơn vị SNCL tại Việt Nam như thế nào?
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu sử dụng là phương pháp định tính kết hợp định lượng, cụ thể:
Nghiên cứu định tính : nhằm đạt được các mục tiêu sau:
Xây dựng mô hình nghiên cứu sơ bộ bằng cách kết hợp kết quả tổng quan lý thuyết với việc phân tích các đặc điểm riêng biệt của đơn vị hành chính sự nghiệp (HCSN) tại Việt Nam.
(2) Điều chỉnh mô hình nghiên cứu và các thang đo cho các khái niệm nghiên cứu: thực hiện phỏng vấn chuyên gia.
Nghiên cứu định lượng: nhằm đạt được 02 mục đích: (1) đánh giá giá trị của thang đo và
(2) kiểm định các giả thuyết xây dựng trong mô hình nghiên cứu chính thức.
Đóng góp mới của đề tài
Đóng góp về mặt lý luận
(1) Bổ sung khái niệm về minh bạch TTKT của đơn vị SNCL tại Việt Nam.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ xác định các nhân tố nội bộ ảnh hưởng đến mức độ minh bạch trong công tác tài chính kế toán của đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) tại Việt Nam, đồng thời đánh giá mức độ tác động của những nhân tố này.
Bổ sung hệ thống thang đo minh bạch trong quản lý tài chính công và các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam sẽ mang lại nhiều lợi ích thực tiễn Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý mà còn tăng cường sự tin tưởng của công chúng đối với các đơn vị này.
Việc nhận diện và kiểm định các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến minh bạch trong tài chính công của các đơn vị sự nghiệp công lập tại Việt Nam là cần thiết Điều này sẽ cung cấp cho các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập cơ sở vững chắc để xây dựng và triển khai các chính sách quản lý hiệu quả và phù hợp.
(2) Đưa ra các hàm ý hướng đến minh bạch TTKT để đáp ứng nhu cầu sử dụng của các đối tượng có liên quan và tăng cường hội nhập.
Cấu trúc của luận án
Ngoài phần giới thiệu chung, tài liệu tham khảo, phụ lục, nội dung chính của luận án gồm
Chương 1: Giới thiệu tổng quan về các nghiên cứu trước: xác định khe hổng nghiên cứu và hướng nghiên cứu của luận án.
Chương 2: Cơ sở lý thuyết về minh bạch trong tài chính công trình bày tổng quan các lý thuyết liên quan đến minh bạch tài chính công, đồng thời nhận diện các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến mức độ minh bạch trong khu vực công.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu trình bày các phương pháp nghiên cứu được áp dụng trong luận án, bao gồm việc xây dựng mô hình nghiên cứu và xác định thang đo cho các khái niệm nghiên cứu.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và bàn luận: thực hiện phân tích kết quả kiểm định mô hình nghiên cứu và bàn luận về kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và các hàm ý hướng đến minh bạch TTKT đơn vị SNCL Việt Nam.
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
Giới thiệu
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU Để xác định được vấn đề nghiên cứu, khe hổng nghiên cứu, khái niệm, và các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT, chương này tập trung phân tích tổng quan các nghiên cứu nổi bật trong và ngoài nước có liên quan trực tiếp đến minh bạch TTKT và các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT trong khu vực công Nội dung tổng quan nghiên cứu gồm 03 phần: (1) giới thiệu minh bạch TTKT trong và ngoài nước;
Bài viết sẽ giới thiệu các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch trong tài chính công cả trong và ngoài nước, đồng thời đánh giá các nghiên cứu liên quan đã được thực hiện Ngoài ra, bài cũng sẽ chỉ ra những khoảng trống trong nghiên cứu hiện tại và đề xuất hướng nghiên cứu cho luận án.
Nghiên cứu về minh bạch TTKT và nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT
Để tổng hợp các công trình nghiên cứu về minh bạch tài chính, tác giả đã thu thập luận án và bài báo từ các tạp chí uy tín qua các nguồn tìm kiếm như Science Direct, Emerald, Proquest Data, và Google Scholar với các từ khóa như "Transparency", "Financial transparency", "Public sector accounting", và "Factors influence information transparency" Đối với nghiên cứu trong nước, tác giả sử dụng các từ khóa như "minh bạch", "minh bạch thông tin", và "chất lượng thông tin" từ thư viện của các trường đại học lớn tại Việt Nam như Đại học Kinh tế TP.HCM và Đại học Đà Nẵng, cùng với các tạp chí uy tín như tạp chí Phát triển kinh tế và Kế toán – Kiểm toán.
Tác giả không chỉ tập trung vào các nghiên cứu về minh bạch thông tin tài chính trong khu vực công mà còn mở rộng sang các lĩnh vực khác như phi Chính phủ và doanh nghiệp, bao gồm y tế, giáo dục và marketing, nhằm có cái nhìn tổng quan hơn về vấn đề này Khái niệm minh bạch thông tin tài chính được định nghĩa đa dạng và chưa thống nhất, trong khi hoạt động của đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) hiện nay có nhiều điểm tương đồng với tổ chức phi Chính phủ, cả về cung cấp dịch vụ xã hội phi lợi nhuận và hoạt động sản xuất kinh doanh với mục tiêu lợi nhuận, điều này ngày càng được chú trọng và phát triển.
Phân tích tài liệu từ các bối cảnh khác nhau là rất quan trọng cho nghiên cứu minh bạch trong tài chính công, giúp nâng cao hiểu biết về các vấn đề liên quan đến khu vực công.
Sau khi thu thập các nghiên cứu, một phân tích toàn diện được tiến hành bằng cách xem xét tiêu đề, tóm tắt, từ khóa và giới thiệu của từng bài báo để đảm bảo tính liên quan đến mục tiêu nghiên cứu Tác giả sau đó đọc toàn bộ bài báo để tổng hợp cơ sở lý thuyết cần thiết Để đảm bảo không bỏ sót các nghiên cứu quan trọng, tác giả lựa chọn những bài báo nổi bật và phân tích tài liệu tham khảo của chúng nhằm tìm kiếm thêm nghiên cứu có giá trị Bảng tổng hợp nghiên cứu về minh bạch TTKT được trình bày trong phụ lục 01 trang 1PL.
1.2.1 Nghiên cứu về minh bạch TTKT
1.2.1.1 Các nghiên cứu nước ngoài về minh bạch TTKT
Nghiên cứu về minh bạch trong tài chính công thường dựa vào các lý thuyết như thông tin hữu ích, đại diện, thông tin bất cân xứng và tín hiệu để làm rõ tầm quan trọng của nó Minh bạch tài chính công đóng vai trò thiết yếu trong khu vực công do mối quan hệ phức tạp giữa nhà nước, nhà tài trợ, nhà quản lý và người hưởng lợi Các bên liên quan dựa vào báo cáo tài chính để đánh giá ngân sách nhà nước và cách thức sử dụng các khoản đóng góp, do đó, báo cáo tài chính không minh bạch sẽ cản trở việc đánh giá hiệu suất và hiệu quả hoạt động Lý thuyết thông tin bất cân xứng, đại diện và tín hiệu giúp giải thích rằng nhà quản lý cần phát tín hiệu đáng tin cậy đến các bên ủy quyền thông qua việc công bố thông tin công khai.
Theo Kopits và Craig (1998), để đảm bảo tính minh bạch trong quản lý tài chính công, các đơn vị và cán bộ công chức cần có trách nhiệm công bố thông tin về các chính sách, kế hoạch tài chính và kết quả hoạt động Điều này tạo ra một cơ chế ràng buộc quan trọng nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình trong lĩnh vực tài chính.
Tổng quan nghiên cứu cho thấy minh bạch trong tài chính công là một khái niệm trừu tượng, được định nghĩa theo nhiều góc độ khác nhau và chưa có định nghĩa thống nhất trên toàn cầu (Dapko, 2012) Theo lý thuyết minh bạch và các nghiên cứu trước đây, minh bạch trong tài chính công được tiếp cận từ ba hướng chính, trong đó công bố thông tin là một yếu tố quan trọng (Zimmerman, 1977; Ingram, 1984).
Nghiên cứu về minh bạch trong thông tin tài chính công (TTKT) đã được nhiều tác giả đề cập, bao gồm các yếu tố như công bố TTKT, chất lượng thông tin và trách nhiệm giải trình Để xác định vấn đề nghiên cứu và các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT, quá trình phân tích tổng quan tập trung vào các nghiên cứu nổi bật liên quan Xu hướng nghiên cứu về minh bạch TTKT đã thay đổi theo sự phát triển kinh tế toàn cầu trong những thập kỷ qua, điều này được khẳng định bởi nhiều tác giả như Abu Bakar và Saleh (2015) cũng như Rodríguez Bolívar và cộng sự (2013) Phần tổng quan nghiên cứu sẽ trình bày các dòng nghiên cứu liên quan đến minh bạch TTKT trong cả khu vực công và ngoài khu vực công, đồng thời phản ánh xu hướng nghiên cứu qua các giai đoạn phát triển.
Minh bạch thông tin, đặc biệt là trong lĩnh vực thông tin kinh tế, đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu toàn cầu từ những năm 1970 đến nay Giai đoạn đầu, các nhà nghiên cứu như DeKinder và Kohli (2008) cho rằng công bố thông tin là một tín hiệu quan trọng cho minh bạch, trong khi Vaccaro và Madsen (2009) cũng như Rawlins (2009) xem công bố là tiền đề cho minh bạch Hướng tiếp cận này phù hợp với lý thuyết minh bạch, nhấn mạnh "tự do thông tin" và "quyền để biết" (Fenster, 2015) Công bố thông tin không chỉ làm cho thông tin sẵn có mà còn thúc đẩy sự tham gia của công dân trong việc giám sát hoạt động của Chính phủ, đồng thời nâng cao trách nhiệm giải trình (Fenster, 2015) Nghiên cứu về minh bạch thông tin kinh tế chủ yếu được thực hiện tại Hoa Kỳ (Zimmerman, 1977; Ingram, 1984; Robbins và Austin, 1986; Ingram và DeJong, 1987; Giroux, 1989), với một ngoại lệ duy nhất là nghiên cứu của Singh và Bhargava (1978) tại Ấn Độ.
Từ những năm 1990, sự toàn cầu hóa đã làm nổi bật sự khác biệt trong kế toán giữa các quốc gia, dẫn đến việc các nhà nghiên cứu chú trọng vào công bố thông tin kế toán (TTKT) nhằm đảm bảo tính minh bạch cho quyết định đầu tư đa quốc gia Theo Solberg (2010), thông tin chỉ được coi là minh bạch khi nó được công khai và không có gì để che giấu Các nghiên cứu về báo cáo tài chính (BCKT) đã gia tăng tại Hoa Kỳ trong những năm tiếp theo, với nhiều tác giả như Copley (1991) và Allen và Sanders (1994) đóng góp Thời gian này cũng chứng kiến sự mở rộng nghiên cứu sang các quốc gia phát triển khác như New Zealand, Úc, Anh và Bỉ Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các nghiên cứu tương tự tại các quốc gia đang phát triển và kém phát triển.
Từ những năm 2000, nghiên cứu đã mở rộng từ thông tin tài chính và phi tài chính sang công bố báo cáo hoạt động của các đơn vị công Gần đây, sự chú trọng vào minh bạch thông tin dẫn đến việc nghiên cứu cung cấp thông tin bền vững, bao gồm báo cáo môi trường và xã hội Thông tin bền vững kết hợp giữa môi trường với các chính sách kinh tế và công, ảnh hưởng đến quyết định liên quan đến hoạt động kinh tế và môi trường Hướng nghiên cứu này phát triển mạnh từ năm 2008, đặc biệt do khủng hoảng tài chính toàn cầu đã làm nổi bật tầm quan trọng của thông tin bền vững từ Chính phủ.
Mức độ thâm hụt và nợ công ngày càng gia tăng tại nhiều quốc gia (IGAE, 2011), trong khi báo cáo bền vững đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ chính trị và xã hội (Lansu và cộng sự, 2013) Các nhà nghiên cứu hiện nay ưu tiên công bố báo cáo trên Internet thay vì bản cứng, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin Xu hướng này chủ yếu được dẫn dắt bởi các nước châu Âu (Alcaraz-Quiles, Navarro-Galera, và Ortiz-Rodríguez, 2014; Alcaraz-Quiles, Navarro-Galera và Ortiz-Rodríguez, 2015; García-Sánchez, Frías-Aceituno, và Rodríguez-Domínguez, 2013; Navarro Galera và cộng sự, 2014) và dần mở rộng sang các quốc gia đang phát triển như Malaysia (Joseph, Pilcher và Taplin).
Nghiên cứu năm 2014 cho thấy Đài Loan là một quốc gia phương Đông tiêu biểu (Yang, 2008) Trong lĩnh vực công, chính quyền địa phương là đối tượng nghiên cứu chủ yếu, bởi vì đây là đơn vị trực tiếp sử dụng ngân sách nhà nước để cung cấp dịch vụ công cho người dân.
Trong khu vực tư, nghiên cứu đa quốc gia tập trung vào các công ty niêm yết nhằm xác định ảnh hưởng của sự khác biệt trong công bố giữa các quốc gia đến minh bạch thông tin tài chính Một số nghiên cứu điển hình trong lĩnh vực này bao gồm các tác phẩm của Adhikari và Tondkar (1992), Meek, Roberts và Gray (1995), Jaggi và Low (2000), Bushman và cộng sự (2001), Bushman và Smith (2003), Archambault và Archambault (2003), Cheung và cộng sự (2007), cũng như Barth và Schipper (2007).
Chất lượng thông tin kế toán
Trong những năm đầu thế kỷ 21, toàn cầu hóa đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thế giới, yêu cầu thông tin minh bạch từ cả khu vực công lẫn tư Khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã chỉ ra rằng thiếu minh bạch thông tin tài chính là một trong những nguyên nhân chính Nghiên cứu cho thấy việc công bố thông tin chưa đủ để đảm bảo tính minh bạch, mà chất lượng thông tin mới là yếu tố quan trọng (Christensen, 2002) Nielsen và Madsen (2009) nhấn mạnh rằng công bố quá nhiều thông tin không phải là chiến lược hiệu quả; thông tin cần phải "đúng" và hữu ích cho người sử dụng Việc công bố thông tin trên các phương tiện truyền thông không đủ để xác định tính minh bạch của báo cáo tài chính (Lâm Thị Hồng Hoa, 2008) Thông tin cần được công bố cởi mở với đầy đủ số lượng và chất lượng (Williams, 2015), vì danh tiếng và niềm tin của công chúng vào các đơn vị công sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng nếu chất lượng dữ liệu thấp (Lee và Kwak, 2011; Lourenço).
Nhận xét các nghiên cứu liên quan đến minh bạch TTKT
1.3.1 Nhận xét các nghiên cứu trên thế giới
Minh bạch thông tin, đặc biệt là minh bạch trong tài chính công, là một vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu toàn cầu trong nhiều thập kỷ qua Nghiên cứu về minh bạch TTKT đã được thực hiện chủ yếu ở các quốc gia phát triển như Hoa Kỳ và châu Âu, nhưng gần đây đã mở rộng sang các quốc gia đang phát triển như Malaysia, Indonesia và Romania Mặc dù có sự gia tăng trong nghiên cứu, số lượng công trình chất lượng cao được công bố trên các tạp chí uy tín vẫn còn hạn chế Đối tượng nghiên cứu về minh bạch TTKT rất đa dạng, bao gồm khu vực tư nhân, phi Chính phủ và khu vực công, với nhiều lĩnh vực và quy mô khác nhau Trong khu vực tư, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào minh bạch của các công ty niêm yết và tổ chức phi Chính phủ toàn cầu, trong khi khu vực công lại chú trọng vào cấp chính quyền địa phương, nơi trực tiếp sử dụng ngân sách nhà nước để cung cấp dịch vụ công.
Nghiên cứu về minh bạch thông tin trong khu vực công và tư tập trung vào việc xác định khái niệm minh bạch, xây dựng thang đo đánh giá mức độ minh bạch, nhận diện các nhân tố tác động và đề xuất giải pháp cải thiện minh bạch Minh bạch thông tin tài chính được tiếp cận qua ba góc độ: công bố thông tin, chất lượng thông tin và trách nhiệm giải trình Các nhân tố tác động đến minh bạch thường giao thoa và tương tác với nhau trong cả ba khía cạnh này.
Xu hướng nghiên cứu về minh bạch trong tài chính công đã thay đổi theo sự phát triển kinh tế toàn cầu trong vài thập kỷ qua, như nhận định của Abu Bakar và Saleh (2015) cùng với Rodríguez Bolívar và cộng sự (2013) Gần đây, làn sóng cải cách hành chính theo chính sách Chính phủ mở đã thúc đẩy các nhà nghiên cứu tập trung vào các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch thông tin, đặc biệt trong bối cảnh áp dụng Chính phủ điện tử và công bố thông tin trên Internet và các trang web (Chen, 2012; Lourenço, 2015; Armstrong, 2011).
Minh bạch là khái niệm có nhiều định nghĩa khác nhau, dẫn đến sự xuất hiện của nhiều thang đo để đánh giá Trong các nghiên cứu, thang đo minh bạch thông tin thường được xác định theo ba cách phổ biến: (1) thiết kế thang đo dựa trên khái niệm minh bạch thông tin.
Hiện nay, chưa có một khái niệm hay thang đo nào được công nhận rộng rãi trong toàn ngành và trên toàn cầu Điều này là do việc xây dựng bộ chỉ số đo lường mới hoặc kế thừa các bộ chỉ số từ các tổ chức uy tín quốc tế vẫn đang trong quá trình thực hiện.
Phương pháp luận trong các nghiên cứu rất đa dạng và đạt chất lượng cao, với một số nghiên cứu chỉ sử dụng phương pháp định tính (Xu, 2003; Xu và cộng sự, 2003; Abu Bakar và cộng sự, 2011) Nhiều nghiên cứu khác lại áp dụng phương pháp hỗn hợp, kết hợp các kỹ thuật xử lý dữ liệu khác nhau (Komala, 2012; Rodríguez Bolívar và cộng sự, 2013; Rapina, 2014; Joseph, 2014).
1.3.2 Nhận xét các nghiên cứu tại Việt Nam
Minh bạch thông tin đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam, nhưng chủ đề này phát triển chậm hơn so với thế giới, chỉ bắt đầu từ năm 2008 Các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào minh bạch trong khu vực tư, đặc biệt là các công ty niêm yết, trong khi minh bạch trong khu vực công, đặc biệt là ở đơn vị sự nghiệp công lập, vẫn chưa được quan tâm đúng mức Nghiên cứu về minh bạch trong khu vực công chỉ mới xuất hiện gần đây và số lượng nghiên cứu chất lượng vẫn còn hạn chế.
Nghiên cứu về minh bạch thông tin tập trung vào việc xác định khái niệm, vai trò, thang đo và các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch trong thông tin kinh tế Một trong những hướng tiếp cận chính là chất lượng của thông tin kinh tế, tuy nhiên, mỗi nghiên cứu lại có cách tiếp cận khác nhau về các khái niệm và thang đo, dẫn đến những kết quả đa dạng trong lĩnh vực này Bài viết cũng đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao mức độ minh bạch trong thông tin kinh tế.
Hiện nay, số lượng nghiên cứu chất lượng về các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch tài chính công tại Việt Nam còn hạn chế Đa phần các nghiên cứu này chỉ dừng lại ở cấp độ luận văn thạc sĩ.
Nhiều luận án đã đề xuất giải pháp nhằm nâng cao tính minh bạch trong tài chính công, nhưng chưa xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề này, chủ yếu tập trung vào các khía cạnh như hoàn thiện báo cáo tài chính và kiểm soát ngân sách Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào ở cấp độ tiến sĩ xác định các nhân tố nội tại ảnh hưởng đến minh bạch tài chính công tại các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) ở Việt Nam Các nghiên cứu liên quan chỉ dừng lại ở cấp độ thạc sĩ và còn nhiều hạn chế về phương pháp Hơn nữa, việc nhận diện các nhân tố tác động đến minh bạch tài chính công còn mang tính rời rạc, thiếu tính hệ thống Do đó, nghiên cứu về các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến minh bạch tài chính công vẫn là một khoảng trống lớn cần được khai thác.
Nghiên cứu về minh bạch trong tài chính công và tư tại Việt Nam hiện vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, chủ yếu tập trung vào khái niệm, vai trò và các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch Đặc biệt, chưa có nghiên cứu nào đề cập đến vai trò của công nghệ thông tin trong việc nâng cao minh bạch thông qua việc áp dụng Chính phủ điện tử và công bố thông tin trên Internet, điều này trái ngược với xu hướng nghiên cứu toàn cầu hiện nay.
Khe hổng nghiên cứu và hướng nghiên cứu của đề tài
Trong phần 1.2 và 1.3, tác giả đã phân tích tổng quan các nghiên cứu trong và ngoài nước về minh bạch trong tài chính công Qua đó, nhận thấy tồn tại nhiều khe hổng lớn trong nghiên cứu về minh bạch tài chính công trên toàn cầu cũng như tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
(1) Nghiên cứu về minh bạch TTKT tại quốc gia đang phát triển và kém phát triển, điển hình như Việt Nam vẫn còn hạn chế
Nghiên cứu về minh bạch tài chính công tại các quốc gia đang phát triển đang gia tăng, mặc dù vẫn còn hạn chế về chất lượng (Abu Bakar và Saleh, 2015) Hướng nghiên cứu này được coi là quan trọng hơn ở các nước đang phát triển do sự phụ thuộc lớn vào khu vực nhà nước để thúc đẩy kinh tế và trách nhiệm giải trình cao hơn (Goddard, 2010; Mimba, Helden, và Tillema, 2007) Các quốc gia này thường có chỉ số tham nhũng cao nhất toàn cầu (Abu Bakar và cộng sự, 2011) và cần nguồn viện trợ, đầu tư từ hợp tác toàn cầu để phát triển kinh tế, giảm thiểu khủng hoảng và nghèo đói (Goldin và Van der Mensbrugghe, 1992; Nissanke và Thorbecke, 2006; Wolf, 2003; Madawaki, 2014).
Minh bạch trong tài chính công là một vấn đề quan trọng tại Việt Nam, đặc biệt trong khu vực công Mặc dù có một số nghiên cứu cấp độ thạc sĩ đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch tài chính công, nhưng vẫn còn thiếu những nghiên cứu toàn diện về các yếu tố bên trong đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) Việc nghiên cứu minh bạch tài chính công trong các đơn vị SNCL tại Việt Nam là cần thiết, do hiện tại chưa có nghiên cứu nào xác định rõ ràng các yếu tố này, tạo ra khoảng trống lớn cho các nghiên cứu trong tương lai.
(2) Nghiên cứu minh bạch TTKT của từng đơn vị công trực tiếp sử dụng NSNN để cung cấp dịch vụ công rất quan trọng
Cần tập trung vào việc nghiên cứu tính minh bạch trong quản lý tài chính công của từng đơn vị nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước tại các quốc gia đang phát triển và kém phát triển Điều này là do tham nhũng thường xảy ra nhiều hơn ở cấp độ thấp, nơi các quan chức có nhiều cơ hội để thực hiện hành vi tham nhũng khi trực tiếp quản lý ngân sách nhà nước nhằm cung cấp dịch vụ công.
2011) Treisman (2002) cũng khẳng định “quốc gia phân quyền nhiều hơn tham nhũng cao hơn và kém hiệu quả hơn trong việc cung cấp hàng hoá công”.
Đặc thù của đơn vị SNCL tại Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước (NSNN) để cung cấp dịch vụ công Việc nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch trong tài chính công sẽ hỗ trợ các thủ trưởng và cơ quan quản lý cấp trên xây dựng chính sách phù hợp, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý sử dụng NSNN tại các đơn vị công.
(3) Khái niệm minh bạch TTKT và đo lường minh bạch TTKT vẫn chưa thống nhất
Minh bạch trong tài chính công (TTKT) được hiểu theo nhiều cách khác nhau, và mặc dù đã có nhiều nghiên cứu, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất nào về minh bạch TTKT được chấp nhận rộng rãi Sự không đồng nhất này có thể xuất phát từ việc thiếu bằng chứng thực nghiệm về tính hợp lệ và tính tổng quát của các kết quả nghiên cứu Piotrowski và Van Ryzin (2007) nhấn mạnh rằng việc đo lường minh bạch là một vấn đề phức tạp, khó có thể thu thập dữ liệu đáng tin cậy Do đó, việc đánh giá mức độ minh bạch TTKT thường dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau.
Tại Việt Nam, khái niệm minh bạch trong tài chính công và đo lường tính minh bạch này vẫn chưa được nghiên cứu một cách đầy đủ, đặc biệt trong khu vực công Việc kế thừa các nghiên cứu trước đó cần xem xét kỹ lưỡng bối cảnh, đối tượng và phương pháp nghiên cứu để đảm bảo phù hợp với thực tiễn, nhất là trong một quốc gia đang phát triển như Việt Nam.
(4) Nghiên cứu toàn diện các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến minh bạch TTKT của đơn vị công vẫn chưa được thực hiện
Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch trong tài chính công tại Việt Nam và trên thế giới vẫn còn hạn chế, đặc biệt là trong việc phân tích các yếu tố nội bộ Các nghiên cứu trước đây chưa xem xét đầy đủ cả tác động trực tiếp và gián tiếp của những yếu tố này đến minh bạch tài chính công của các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) tại Việt Nam Do đó, cần có một phân tích toàn diện hơn về cách mà các yếu tố nội bộ ảnh hưởng đến minh bạch tài chính công.
Khi nghiên cứu trong khu vực công, sự phức tạp của đặc điểm chính trị, quản lý và hoạt động của các đơn vị công tại mỗi quốc gia có thể dẫn đến mức độ ảnh hưởng khác nhau của các yếu tố này đến minh bạch trong tài chính công.
Xu hướng nghiên cứu về minh bạch thông tin kinh tế (TTKT) ở các quốc gia đang phát triển, bao gồm Việt Nam, vẫn chưa theo kịp các nước phát triển Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong việc thu thập, xử lý và công bố TTKT trên Internet và các website nhằm đáp ứng yêu cầu minh bạch vẫn còn hạn chế Hơn nữa, số lượng nghiên cứu về chủ đề này ở các quốc gia đang phát triển và kém phát triển rất ít, và kết quả thường trái ngược với các nghiên cứu được thực hiện tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển.
(5) Phương pháp luận nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT của đơn vị công tại Việt Nam vẫn còn hạn chế
Phương pháp nghiên cứu về nhận diện các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch trong tài chính công tại Việt Nam còn mới mẻ, mặc dù có nhiều nghiên cứu chất lượng cao từ nước ngoài Hiện tại, chỉ có một số ít nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ, dẫn đến việc phương pháp luận còn nhiều hạn chế Việc áp dụng các thang đo và nhân tố từ nghiên cứu quốc tế mà không thực hiện nghiên cứu định tính để điều chỉnh cho phù hợp với bối cảnh Việt Nam đã gây ra những hạn chế trong kết quả nghiên cứu.
Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu nào thực hiện việc nhận diện và kiểm định các nhân tố bên trong ảnh hưởng đến minh bạch trong tài chính kế toán (TTKT) của các đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL) Vì vậy, tác giả đã chọn nghiên cứu đề tài “Xác định các nhân tố bên trong đơn vị ảnh hưởng đến minh bạch TTKT của đơn vị SNCL tại Việt Nam” nhằm lấp đầy khoảng trống nghiên cứu về minh bạch TTKT trong lĩnh vực này.
Chương này cung cấp cái nhìn tổng quan về tình hình nghiên cứu minh bạch thông tin tài chính công (TTKT) cả trong nước và quốc tế Mặc dù nghiên cứu về minh bạch TTKT trong khu vực công đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu từ sớm, nhưng số lượng nghiên cứu tại các quốc gia đang phát triển như Việt Nam vẫn còn hạn chế Tác giả tổng hợp hai nội dung chính: khái niệm về minh bạch TTKT và các yếu tố ảnh hưởng đến nó, trong đó định nghĩa minh bạch TTKT bao gồm công bố thông tin, chất lượng thông tin và trách nhiệm giải trình Nghiên cứu về các yếu tố tác động cũng bị chi phối bởi ba hướng nghiên cứu này Gần đây, xu hướng nghiên cứu toàn cầu đã chuyển dịch mạnh mẽ sang các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT liên quan đến Chính phủ điện tử và công bố thông tin trên Internet Tuy nhiên, tại Việt Nam, nghiên cứu này vẫn chỉ ở giai đoạn đầu và chưa có nghiên cứu nào kiểm định các yếu tố ảnh hưởng đến minh bạch TTKT của đơn vị sự nghiệp công lập (SNCL).
Tác giả đã nhận diện khe hổng nghiên cứu thông qua tổng quan nghiên cứu, từ đó lựa chọn hướng đi và mục tiêu nghiên cứu Quá trình này cũng giúp xác định khái niệm minh bạch trong tài chính công và xây dựng mô hình cũng như giả thuyết nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch tài chính tại các đơn vị sự nghiệp công lập ở Việt Nam, sẽ được trình bày trong chương tiếp theo.