TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Trên thế giới
Nghiên cứu về sâu bệnh hại, đặc biệt là trong cây lâm nghiệp, đã thu hút sự quan tâm từ sớm trên toàn cầu Các nghiên cứu này bao gồm sinh vật học, sinh thái học của các loài sâu bệnh và các biện pháp phòng trừ hiệu quả Một phần quan trọng trong đó là nghiên cứu về côn trùng thiên địch và việc áp dụng côn trùng cũng như vi sinh vật có ích, nhằm hướng tới quản lý sâu bệnh hại tổng hợp.
Các nghiên cứu đáng chú ý về côn trùng trong khu vực là các công trình nghiên cứu của Trung Quốc
Năm 1987, Thái Bàng Hoa và Cao Thu Lâm [27] đã công bố công trình phân loại côn trùng rừng Việt Nam
Cố Mậu Bình và Trần Phượng Trân (1997) đã biên soạn cuốn "Bướm đảo Hải Nam", một tài liệu tham khảo quan trọng về phân loại các loài bướm ngày Tài liệu này giới thiệu hơn 500 loài bướm ngày khác nhau, với hình ảnh màu sắc chụp từ nhiều góc độ và dạng khác nhau, thể hiện sự đa dạng phong phú của bướm ngày trong khu vực.
Xiao Gangrou, trong cuốn sách "Côn trùng rừng Trung Quốc" xuất bản năm 1991, đã cung cấp những nghiên cứu cơ bản về hình thái và tập tính của các loài sâu hại cây lâm nghiệp Mặc dù cuốn sách có hơn 1300 trang, nhưng chỉ giới thiệu một số loài côn trùng có ý nghĩa kinh tế đặc biệt và sâu hại.
Viện Nghiên cứu Khoa học Trung Quốc đã xuất bản cuốn “Sổ tay côn trùng thiên địch” vào năm 1978, trong đó mô tả chi tiết về hình thái và tập tính của các loài côn trùng thiên địch.
Tài liệu "Tạp chí bọ rùa Vân Nam" của Tào Thành Nhất là một nguồn thông tin quan trọng về thiên địch, mặc dù nó chủ yếu tập trung vào phân loại mà ít đề cập đến sự đa dạng sinh học của bọ rùa.
Năm 1989, Coulson cùng các cộng sự đã tiến hành nghiên cứu về quản lý côn trùng hại rừng, góp phần hoàn thiện chương trình quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) Các chương trình này kết hợp hiểu biết về môi trường với công nghệ thông tin, nhằm giải quyết các vấn đề hiện tại và đưa ra quyết định hiệu quả trong quản lý sâu hại lâm nghiệp, đồng thời có thể áp dụng cho nông nghiệp.
Kết quả từ các nghiên cứu đã làm phong phú thêm kiến thức về quản lý côn trùng Tuy nhiên, cần có sự sáng tạo trong việc áp dụng kiến thức này cho từng loài sâu hại, cây trồng và phù hợp với đặc thù của từng quốc gia, đồng thời ưu tiên yêu cầu thực tiễn cụ thể của từng khu vực.
Tại Việt Nam
Nghiên cứu về côn trùng bản địa, đặc biệt là côn trùng lâm nghiệp ở Việt Nam, vẫn chưa được chú trọng đúng mức Hầu hết các nghiên cứu hiện nay tập trung vào côn trùng có hại, chủ yếu nghiên cứu các đặc tính sinh vật học và sinh thái học để đề xuất biện pháp phòng trừ chung Trong khi đó, các nghiên cứu về côn trùng có lợi chủ yếu chỉ đánh giá mặt kinh tế mà chưa khai thác tác dụng đa dạng của chúng Các nghiên cứu cơ bản về côn trùng tại Việt Nam chủ yếu dừng lại ở mức báo cáo và tài liệu giảng dạy, với phạm vi hạn chế chỉ một số loài đại diện Hiện tại, nước ta vẫn thiếu tài liệu đầy đủ về côn trùng để phục vụ cho nghiên cứu, tra cứu và ứng dụng.
Gần đây, với nhu cầu phát triển đa dạng của đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế và sinh thái môi trường, nghiên cứu về côn trùng đã thu hút được sự quan tâm và đầu tư đáng kể.
Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp Việt Nam đã thực hiện công tác dự tính và dự báo loài sâu róm vào năm 1983, tạo nền tảng cho việc áp dụng phương pháp sinh học trong phòng trừ Nghiên cứu này cung cấp thông tin quan trọng về thời điểm xuất hiện các lứa sâu trong năm, mật độ sâu, mức độ gây hại và khả năng hình thành dịch, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý sâu bệnh.
Nguyễn Tiến Định (2000) đã thực hiện một nghiên cứu về sự biến động của các loài côn trùng có ích trên một số loài cây trồng bản địa tại Núi Luốt, thuộc trường Đại học Lâm nghiệp Nghiên cứu này đã ghi nhận 15 loài côn trùng có ích, thuộc 7 họ và 4 bộ, trên ba loài cây gồm Lim xanh, Sồi phảng và Đinh thối Mặc dù là các loài cây khác nhau, nhưng thành phần loài côn trùng có ích lại tương tự nhau.
Lý Thị Tiệp (2000) đã thực hiện một nghiên cứu tốt nghiệp về sự biến động của các loài côn trùng gây hại trên một số cây trồng bản địa tại Núi Luốt, trường Đại học Lâm nghiệp Nghiên cứu đã ghi nhận được 14 loài sâu hại.
Nguyễn Thế Nhã, Trần Công Loanh, Trần Văn Mão (2001) đã xuất bản giáo trình “Điều tra dự tính dự báo sâu bệnh trong lâm nghiệp”, nhấn mạnh mối liên hệ chặt chẽ giữa điều tra, dự tính và dự báo sâu bệnh hại rừng Điều tra chính là nền tảng cho dự tính và dự báo; việc tiến hành điều tra sâu bệnh kịp thời và chính xác sẽ nâng cao độ tin cậy của kết quả dự báo Hơn nữa, dự tính và dự báo đóng vai trò quan trọng trong việc phòng trừ sâu bệnh hại cũng như quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên côn trùng và vi sinh vật có ích.
Nguyễn Thế Nhã và Trần Công Loanh (2002) đã cho ra mắt cuốn sách “Sử dụng côn trùng và vi sinh vật có ích - tập I”, cung cấp tài liệu nghiên cứu hữu ích cho các nhà quản lý tài nguyên rừng Cuốn sách giúp họ đưa ra các giải pháp hiệu quả trong việc phòng trừ sâu bệnh hại rừng theo nguyên lý quản lý dịch hại tổng hợp, tận dụng sự khống chế tự nhiên của các loài côn trùng thiên địch, đồng thời bảo vệ sự cân bằng sinh thái và an toàn cho môi trường.
Nguyễn Thế Nhã và các cộng sự trường Đại học Lâm nghiệp (2003)
Mô hình định lượng nguồn dinh dưỡng của sâu bệnh hại đã được xây dựng nhằm xác định ngưỡng kinh tế trong việc dự đoán và dự báo sự xuất hiện của sâu bệnh hại trên rừng keo tai tượng Đây là một vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của các nhà quản lý và doanh nghiệp trong ngành lâm nghiệp.
Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) đã tài trợ cho Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam từ năm 2000 đến 2002 để thực hiện dự án “Đánh giá sử dụng cây bản địa trong trồng rừng ở Việt Nam” Dự án này đã đánh giá hiện trạng và tiềm năng sử dụng một số loài cây bản địa trong trồng rừng, đồng thời xây dựng mô hình rừng trồng cho các loài có tiềm năng Ngoài ra, Đoàn Đình Tam (2006) đã nghiên cứu về đặc điểm sinh thái của cây Chò chỉ (Parashorea chinensis Wang Hsie) tại khu Bảo tồn thiên nhiên Thượng Tiến – Kim Bôi – Hoà Bình, cho thấy cây Chò chỉ thuộc họ Dầu có nhiều giá trị sinh thái.
Chò chỉ (Dipterocarpacaea) là một loài cây gỗ lớn có giá trị kinh tế cao và đóng vai trò quan trọng trong đa dạng sinh học Loài cây này nằm trong sách đỏ Việt Nam, đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng và cần được bảo tồn Chò chỉ có biên độ sinh thái hẹp, thường mọc tự nhiên ven sông suối hoặc ở chân, sườn núi dốc, với độ cao không quá 700m so với mực nước biển Mức độ tái sinh tự nhiên của Chò chỉ thấp, thường tái sinh theo dạng cụm, đám Tại miền Bắc, Chò chỉ phân bố chủ yếu ở các tỉnh Sơn La, Tuyên Quang, Phú Thọ và Hòa Bình, trong khi ở miền Trung, loài cây này có mặt tại Nghệ An, Hà Tĩnh, và gần như không xuất hiện ở các tỉnh phía Nam.
Nghiên cứu của Trần Ngọc Hải (2007) về bảo tồn nguồn gen thực vật rừng đặc hữu và quý hiếm tại lòng hồ thủy điện Sơn La đã chỉ ra rằng khu vực này có sự đa dạng đặc trưng của hệ thực vật Tây Bắc Nhiều loài thực vật quý hiếm, trong đó một số là cây đặc hữu của Việt Nam, hiện chỉ còn phân bố rải rác ở vài địa phương Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng và tính cấp bách của việc bảo tồn các loài thực vật tại khu vực lòng hồ.
Chi cục Lâm nghiệp Hà Tĩnh (2008) đã báo cáo kết quả đánh giá bước đầu trong việc trồng nâng cấp rừng phòng hộ bằng cây bản địa tại Hà Tĩnh Dưới sự hỗ trợ của Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Hà Tĩnh, Ban quản lý khu bảo tồn thiên nhiên Kẻ Gỗ đã triển khai các mô hình thực nghiệm trồng nâng cấp rừng bằng các loài cây gỗ bản địa lá rộng như Lim xanh, Re hương, và Cồng trắng Các cây này được trồng dưới tán rừng Keo thuần loài với mức độ chặt tỉa thưa 20%, 30%, và 50% diện tích Keo nhằm điều tiết độ tán che thích hợp.
Hiện nay, tỉnh Sơn La chưa có nghiên cứu hay báo cáo nào công bố về côn trùng lâm nghiệp, đặc biệt là sự biến động của côn trùng trên cây bản địa Việc này chưa được chú trọng, mặc dù phát triển cây trồng bản địa là biện pháp hiệu quả trong công tác phục hồi rừng Do đó, nghiên cứu sự biến động của các loài côn trùng trên cây trồng bản địa là điều cần thiết.
ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM, MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu
- Đối tượng: Các loài côn trùng trên một số loài cây bản địa tại Lâm viên Sơn La
- Địa điểm: Khu vườn sưu tập Lâm viên Sơn La
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu thành phần và mật độ côn trùng trên các loài cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La nhằm phục vụ công tác dự đoán và đề xuất biện pháp quản lý côn trùng hiệu quả.
Nội dung nghiên cứu
Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra, đề tài tiến hành nghiên cứu một số nội dung cơ bản sau:
2.3.1 Tìm hiểu thành phần, tình hình sinh trưởng của cây bản địa tại Lâm viên Sơn La
2.3.2 Điều tra thành phần, mật độ các loài côn trùng trên một số cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La
- Xác định thành phần, mật độ côn trùng thiên địch
- Xác định thành phần, mật độ côn trùng có hại
2.3.3 Xác định các loài côn trùng có hại, côn trùng thiên địch chủ yếu
2.3.4 Nghiên cứu một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của các loài côn trùng chủ yếu
- Đặc điểm sinh học cơ bản (đặc điểm hình thái, sinh trưởng, phát triển)
- Đặc điểm sinh thái cơ bản (quan hệ với các yếu tố sinh thái vả biến động của các loài côn trùng chủ yếu)
2.3.5 Đề xuất các giải pháp quản lý côn trùng trên cây bản địa khu lâm viên Sơn La
- Biện pháp điều tra, giám sát
- Biện pháp dự tính, dự báo tình hình phát sinh, phát triển của sâu hại và thiên địch
- Biện pháp phòng chống sâu hại
2.4 Phương pháp nghiên cứu Để thực hiện các nội dung trên, chúng tôi tiến hành các bước như sau:
- Thu thập tài liệu liên quan như bản đồ hiện trạng rừng, điều kiện tự nhiên, dân sinh kinh tế, …
- Chuẩn bị dụng cụ: Mẫu biểu điều tra, vợt bắt mẫu, lọ đựng mẫu, thước dây, máy ảnh, dao,…
Tại khu vực điều tra tiến hành các nội dung điều tra sau đây:
1 Điều tra tình hình cây bản địa
2 Điều tra côn trùng cư trú trong tán cây bản địa
3 Điều tra côn trùng cư trú trên thân và gốc cây
4 Điều tra côn trùng cư trú trong đất
- Điều tra tình hình cây bản địa
Xác định vị trí và tình hình sinh trưởng của một số loài cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La là rất quan trọng Tiêu chí đánh giá sinh trưởng chủ yếu dựa vào đường kính, chiều cao, hình dáng tán lá và các yếu tố tác động như sâu bệnh Việc này giúp theo dõi và cải thiện chất lượng cây trồng trong khu vực.
Cây sinh trưởng tốt cần có một thân khỏe mạnh, đồng đều về chiều cao và đường kính, với thân thẳng đẹp, tán lá xanh tốt và ít bị tác động từ môi trường.
Cây sinh trưởng kém thường có từ hai thân trở lên, chiều cao thấp, đường kính nhỏ, và hình dáng không đẹp, thường bị cong queo Ngoài ra, cây còn có thể bị chèn ép, cụt ngọn, hoặc chịu tác động tiêu cực từ sâu bệnh.
Cây sinh trưởng trung bình là những cây có tiêu chí lựa chọn nằm giữa tiêu chí lựa chọn cây sinh trưởng tốt và cây sinh trưởng xấu
Kết quả thu được ghi vào mẫu biểu 2.1
Mẫu biểu 2.1: Theo dõi tình hình sinh trưởng của cây bản địa
Trạng thái rừng: Toạ độ: Độ dốc: Hướng dốc:
Người điều tra: Ngày điều tra:
Tổng số hố trồng: Số cây sống:
Thời tiết đợt điều tra:
Ghi chú Tốt T.bình Xấu
Điều tra côn trùng cư trú trong tán cây bản địa được thực hiện bằng phương pháp điều tra cây tiêu chuẩn Đối với các loài cây bản địa, một số cây đại diện được chọn làm cây tiêu chuẩn Nếu số lượng cây ít hơn 30, toàn bộ cây sẽ được điều tra; nếu số lượng lớn hơn 30, cây tiêu chuẩn sẽ được chọn theo phương pháp đánh dấu điểm điều tra, sau đó tiến hành điều tra 30 cây xung quanh điểm đó Kết quả thu được sẽ được ghi vào mẫu biểu 2.2.
Mẫu biểu 2.2 Điều tra thành phần, số lượng các loài côn trùng
Người điều tra: Ngày điều tra:
Thời tiết đợt điều tra:
TT Loài sâu Trứng Sâu non ở các tuổi Nhộng Sâu
- Điều tra sâu hại thân và gốc cây :
Khi điều tra thân cây, cần đếm số lượng sâu hại và thiên địch Việc khảo sát khu vực gốc cây được thực hiện bằng tay hoặc que nhỏ để lật lớp lá và cành khô trong bán kính 60cm quanh gốc cây Phương pháp này đơn giản và nhanh chóng, nhưng cần cẩn thận vì nhiều loài côn trùng có màu sắc tương tự môi trường xung quanh, gây khó khăn trong việc phát hiện Đánh giá mức độ hại và tình hình phân bố của các cây bị hại ở thân và gốc là rất quan trọng.
Không Không có cây bị hại
Hại nhẹ Có một vài cây bị hại lẻ tẻ (< 10% số cây)
Hại vừa Những cây bị hại tập trung từ 3 ÷ 10 cây (10 ÷ 30% số cây) Hại nặng Những cây bị hại tập trung trên 10 cây (> 30% số cây)
- Điều tra sâu dưới đất :
Một số loài sâu sống dưới đất, do đó chúng tôi tiến hành điều tra trên ô dạng bản được bố trí dưới tán cây đã chọn, thường gần gốc cây Số lượng ô dạng bản sẽ tương ứng với số cây được điều tra Dụng cụ cần thiết bao gồm thước mét, cuốc, xẻng và bảng mẫu Sau khi xác định vị trí ô dạng bản, cần bới kỹ lớp cỏ và thảm mục trên mặt đất để tìm sâu, sau đó nhổ hết cỏ và cuốc từng lớp đất sâu 10cm Đất từ mỗi lớp được bóp nhỏ để tìm các loài sâu và kéo ra ngoài ô Quá trình này tiếp tục cho đến khi không còn sâu trong lớp đất Các mẫu vật từ từng lớp được ghi chép riêng theo mẫu biểu 2.3.
Mẫu biểu 2.3: Điều tra sâu dưới đất
Người điều tra: Ngày điều tra:
Thời tiết đợt điều tra:
ODB Độ sâu lớp đất
Loài sâu Số lượng sâu hại Các loài động vật khác
Trứng Sâu non Nhộng Sâu TT
Điều tra sâu dưới đất giúp xác định thành phần các loài sâu, mật độ và tỷ lệ xuất hiện của từng loài, cũng như độ sâu phân bố và số lượng tổ mối trong khu vực khảo sát.
Công tác nội nghiệp gồm có: - Xử lý mẫu côn trùng
- Xử lý số liệu điều tra
- Xác định loài chủ yếu, loài chính a) Xử lý mẫu côn trùng
Trong quá trình điều tra côn trùng, việc thu thập mẫu vật đầy đủ là rất quan trọng để phục vụ cho phân loại, mô tả và chụp ảnh Các mẫu vật thu được có thể được xử lý theo hai phương pháp cơ bản: mẫu ngâm và mẫu khô.
Tất cả mẫu côn trùng không phải sâu trưởng thành thuộc bộ cánh vẩy/bộ cánh phấn (Lepidoptera) đều có thể ngâm trong nước pha 5÷10%
Formaldehyde (Phooc môn) hoặc cồn 70 độ có pha thêm một ít Formaldehyde là chất bảo quản quan trọng Cần chú ý ngâm riêng từng loài trong dụng cụ ngâm bằng lọ thủy tinh nút mài Nếu không có đủ dụng cụ, có thể ngâm chung một số loài có đặc điểm tương tự, nhưng phải nhanh chóng tách riêng và ghi chép cụ thể Sau khoảng 7 đến 10 ngày ngâm, có thể vớt mẫu ra và chỉnh tư thế như phương pháp xử lý mẫu khô Mỗi dụng cụ chứa mẫu ngâm cần được dán nhãn với thông tin liên quan đến loài bên trong Nếu nước ngâm chuyển màu mạnh hoặc vẩn đục, cần thay nước mới ngay lập tức.
Tất cả các loài côn trùng đều có thể được xử lý thành mẫu khô, bao gồm hai loại chính là mẫu cắm kim và mẫu bông, trong đó mẫu cắm kim là loại quan trọng nhất Sau khi thu thập côn trùng, có thể xử lý ngay thành mẫu khô hoặc ngâm trong Formaldehyde từ 7 đến 10 ngày để tránh sự phá hại từ các loài động vật ăn côn trùng Mẫu khô thường được sử dụng để phân loại và nghiên cứu các đặc điểm hình thái của sâu trưởng thành Các bước xử lý mẫu khô cần được thực hiện một cách cẩn thận để đảm bảo chất lượng mẫu.
+ Chỉnh hình dáng (tư thế thân thể, râu đầu, chân, cánh);
Mẫu bông được bảo quản trong hộp gỗ hoặc nhôm kích thước 35x25x5cm, với một mặt trên bằng kính Mẫu vật cần được sắp xếp ngay ngắn và có gắn nhãn tương tự như mẫu cắm kim.
Mẫu vòng đời côn trùng có đủ các pha, các ruổi sâu non, nếu là sâu hại thì thêm bộ phận bị hại b) Xử lý số liệu điều tra
Kết quả cần có của điều tra sự biến động của côn trùng trên cây bản địa tại Lâm viên Sơn La là:
+ Xác định thành phần loài
+ Tỷ lệ cây có sâu (chỉ số P%)
Phương pháp chỉnh lý, tính toán số liệu cụ thể như sau:
Để xác định tên loài, chúng tôi dựa vào đặc điểm của mẫu vật so với mẫu chuẩn của bộ môn Bảo vệ thực vật rừng và Trung tâm thí nghiệm thực hành thuộc khoa Bảo vệ thực vật rừng, kết hợp với tài liệu phân loại côn trùng.
+ Tài liệu 1: Nguyễn Viết Tùng, 2006 [21] Bảng tra phân loại các bộ côn trùng (theo pha trưởng thành)
+ Tài liệu 2: Trần Công Loanh, 1984 [14] Côn trùng lâm nghiệp - Trường Đại học Lâm nghiệp
+ Tài liệu 3: Nguyễn Thế Nhã, Trần Công Loanh, 2002 [17] Sử dụng côn trùng và vi sinh vật có ích (tập I) – Giáo trình Đại học Lâm nghiệp NXB Nông nghiệp
- Xác định tỷ lệ sâu ta dùng công thức:
Trong đó: P% = Tỷ lệ cây có sâu n = Số đơn vị điều tra có sâu
N = Tổng số đơn vị điều tra
Tỷ lệ có sâu (P%) thể hiện đặc điểm phân bố hay mức độ bắt gặp sâu trong khu vực điều tra
Khi P% ≤ 25% → Loài ngẫu nhiên gặp (+)
- Xác định mật độ sâu:
Trong đó: MS = Mật độ sâu của đơn vị điều tra
Si là tổng số lượng sâu cần tính cho đơn vị điều tra thứ i, trong khi n là tổng số đơn vị điều tra Mật độ sâu được tính bằng giá trị trung bình cộng, do đó, việc tính sai tiêu chuẩn và hệ số biến động là cần thiết để phân tích kết quả điều tra một cách chính xác.
Trong đó: S = Sai tiêu chuẩn n = Số đơn vị điều tra (số cây hoặc ô dạng bản…) S% = Hệ số biến động
Si = Số lượng sâu của đơn vị điều tra thứ i (i =1→n)
Mật độ sâu của đơn vị điều tra (MS) phản ánh sự biến động của độ sâu, với giá trị S% cho thấy mức độ phân bố của chúng S% càng cao, sự biến động càng lớn, và ngược lại.
Nếu S% càng nhỏ thì loài sâu đó xuất hiện đều và ít biến động Nếu S% càng lớn thì loài đó xuất hiện không đều và biến động nhiều
S% < 25% là loài có mật độ tuyệt đối biến động ít n
25% ≤ S% ≤ 50% là loài có mật độ tuyệt đối biến động nhiều
S% > 50% Là loài có mật độ tuyệt đối biến động rất nhiều c) Xác định loài chủ yếu và loài chính
Việc xác định loài côn trùng là rất quan trọng để quản lý hiệu quả, tập trung vào đúng đối tượng Hai nhóm côn trùng chính cần chú ý là sâu hại và sâu có ích.
- Sinh vật hại chính là những sinh vật thường xuyên xuất hiện phổ biến và hại nặng hàng năm ở địa phương
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA LÂM VIÊN
Điều kiện tự nhiên khu vực nghiên cứu
Lâm Viên Sơn La có tọa độ từ: 21 o 15’00” đến 21 o 15’15” vĩ độ bắc;
Vị trí địa lý của khu vực nằm giữa 103°56'48" đến 104°4'00" kinh độ đông, thuộc hai tiểu khu 293 ở xã Chiềng Sinh và 295a ở xã Chiềng Mung Khu vực này cách thành phố Sơn La khoảng 13 km về phía Đông Nam, cách thủy điện Sơn La 55 km về phía Đông Nam và cách Hà Nội 300 km.
+ Phía Bắc giáp: Bản Cang – xã Chiềng Sinh – thành Phố Sơn La
+ Phía Nam giáp: Bản Nong Lán Đanh – Chiềng Mung – huyện Mai Sơn
+ Phía Đông giáp: Bản Muông – xã Chiềng Ngần - thành Phố Sơn La + Phía Tây giáp: Tiểu khu 1 – xã Chiềng Sinh – thành Phố Sơn La
3.1.2 Địa hình Địa hình ở đây ít bị chia cắt, phía dưới là những bãi bằng rộng thoáng, đất bằng còn khá màu mỡ Phía trên và bên trong là những dãy núi đá vôi chạy dọc quốc lộ 6, có độ cao tuyệt đối so với mực nước biển là 600m – 650m
Vườn sưu tập thực vật Lâm Viên nằm toàn bộ trên khoảng đất bằng phẳng
Lâm viên tọa lạc trên cao nguyên Nà Sản, nơi có khí hậu á nhiệt đới khô nóng với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô lạnh từ tháng 11 đến cuối tháng 4 năm sau.
Nhiệt độ cao nhất: 37 0 C vào tháng 5, 6; nhiệt độ thấp nhất: 2 0 C vào tháng 12 và tháng 1 năm sau; nhiệt độ bình quân: 21 0 C
- Độ ẩm: Độ ẩm bình quân hàng năm 70 – 80 %, độ ẩm xuống dưới 40% vào các tháng 1, tháng 2, tháng 3 khi có gió Tây khô nóng xuất hiện
Lượng mưa trung bình hàng năm tại Lâm Viên đạt khoảng 1400mm, với hơn 80% lượng mưa tập trung vào các tháng 6, 7 và 8 Mặc dù nằm trên cao nguyên, khu vực này vẫn thường xuyên xảy ra lũ quét dọc theo con suối.
Sương muối và gió hại có thể xuất hiện vào đầu tháng 1 và cuối tháng 2, chỉ trong 1 đến 2 ngày hoặc vài giờ, nhưng lại ảnh hưởng lớn đến năng suất cây trồng Tuy nhiên, chu kỳ xuất hiện của sương muối đang thưa dần.
- Gió Tây: Xuất hiện gió Tây thổi mạnh từ tháng 3 đến tháng 4 làm cho các lớp thảm thực vật khô cằn dễ gây cháy rừng lớn
Bảng 3.1 Một số chỉ tiêu Khí hậu, thủy văn của khu vực TP Sơn La năm 2009
Tháng Nhiệt độ không khí
Lượng bốc hơi (mm) Độ ẩm không khí (%)
Nhiệt độ không khí trung bình 22,00c
Tổng lượng mưa trung bình 116,66mm
Tổng lượng nước bốc hơi trung bình 76,1mm Độ ẩm không khí trung bình 80,08%
(Nguồn Trạm khí tượng thủy văn TP Sơn La)
Nhiệt độ không khí (oC) Lượng mưa (mm) Độ ẩm không khí (%)
Hình 3.1 Diễn biến khí hậu thuỷ văn khu vực Sơn La
Lâm Viên có hai loại đá mẹ chính là đá sa thạch và phiến thạch, từ đó hình thành các loại đất như feralit màu vàng nâu, feralit vàng nhạt và đất cát pha Tầng đất dày trên 80 cm với hàm lượng mùn cao và độ pH từ 4,5 đến 5,0, cùng tỉ lệ NPK lớn Tuy nhiên, việc phá rừng không có kế hoạch cải tạo đã dẫn đến hiện tượng bào mòn và rửa trôi bề mặt đất, làm cho đất trở nên chua, khả năng thấm nước kém và tình trạng nước rất hạn chế.
Đất tại vườn sưu tập Lâm Viên Sơn La có chất lượng tốt và độ phì nhiêu cao, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển dự án bảo tồn các loài thực vật quý hiếm tại khu vực lòng hồ thủy điện Sơn La.
3.1.5 Hiện trạng và thảm thực vật rừng
Lâm Viên Sơn La được quy hoạch với tổng diện tích 173,2ha gồm: + Kiểu rừng IIa có diện tích 12,2ha chiếm 7,04% tổng diện tích Lâm Viên
+ Kiểu rừng Ic (núi đá có cây rải rác) có diện tích 92,3 ha chiếm 53,29%
+ Đất có rừng trồng: 46,6,ha chiếm 26,91%
+ Đất không có khả năng tái sinh: 22,1 ha chiếm 12,76% (hiện đang cho người dân địa phương mượn trồng cây lương thực và cây công nghiệp)
Thảm thực vật khu vực hiện đang suy thoái nhưng vẫn giữ những đặc trưng của thực vật Tây Bắc, cho thấy khả năng tái sinh và phục hồi Điều này mở ra hy vọng cho việc hình thành lại những khu rừng phong phú và đa dạng, đặc trưng của rừng Tây Bắc, đặc biệt là ở Sơn La.
Rừng Dẻ với diện tích 12,2ha và rừng núi đá 92,3ha là linh hồn của Lâm Viên, thể hiện sự phong phú và đa dạng của các loài thực vật đã hình thành và phát triển qua thời gian.
Qua phân loại tại khu vực có:
+ Gỗ lớn có 30 loài như: Lát hoa, Giẻ, Vối thuốc, Kháo, Thông, Du sam, Chò chỉ, Tếch, Nghiến
+ Gỗ nhỏ có 50 loài như: Thẩu tấu, Hoắc quang, Me tròn, Bạch đàn, Keo
+ Cây bụi có 60 loài gồm: Xim, Mua, Găng
+ Dây leo có 100 loài gồm: Sắn dây rừng, Gấm, Kim ngân, Bìm bìm,
Khu vực này nổi bật với nhóm cây tre, trúc như Mạy sang, Mạy lay, Mạy hốc, cùng với một số loài gỗ quý hiếm có khả năng tái sinh như Du sam, Lát hoa và Sơn hạnh đào Diện tích rừng tái sinh còn có sự hiện diện của họ đậu, họ giẻ, họ chè và họ thầu dầu, tạo nên một hệ sinh thái đa dạng Đây là vùng có nhiều loài thực vật độc đáo, đặc trưng cho khu vực Tây Bắc, góp phần quan trọng vào việc hình thành Lâm Viên Sơn La.
Tình hình dân sinh kinh tế - xã hội
Lâm viên tọa lạc trên quốc lộ 6, trải dài qua hai xã thuộc huyện Mai Sơn và thành phố Sơn La, bao gồm bản Nà Hạ II (xã Chiềng Mung) và bản Sẳng (xã Chiềng Sinh) Khu vực này được kết nối bởi các dãy núi đá ở phía Nam, tạo nên một quần thể cảnh quan thiên nhiên khép kín, thu hút du khách khám phá.
3.2.1 Dân tộc và dân số
- Dân tộc: Trong khu vực dự án có hai dân tộc sinh sống là: Dân tộc Thái và dân tộc Kinh
- Tổng số 67 hộ với 390 nhân khẩu Trong đó:
+ Dân tộc Thái có 50 hộ, 303 nhân khẩu
+ Dân tộc Kinh 17 hộ, 87 nhân khẩu
3.2.2 Hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống
Hoạt động sản xuất tại khu vực chủ yếu tập trung vào nông nghiệp, với cây trồng cạn chiếm hơn 70% tổng diện tích Diện tích ruộng nước rất hạn chế, tuy nhiên, gần đây đã xuất hiện xu hướng phát triển cây công nghiệp và một số hộ dân đã bắt đầu kinh doanh nghề nuôi ong mật.
Sản xuất cây công nghiệp đang dần hình thành với các loại cây như dâu tằm, cà phê và một số cây lấy dầu như thầu dầu, trẩu Tuy nhiên, hoạt động này chủ yếu phổ biến ở những hộ gia đình khá giả và có tiềm năng lao động.
Trong khu vực, chăn nuôi đang phát triển mạnh với 1.870 con trâu, 2.500 con bò và khoảng 500 con dê Ngoài ra, thu nhập từ nuôi tằm và nuôi ong đóng góp từ 10-15% tổng thu nhập của các hộ gia đình.
Khu vực này hiện có 5,8% hộ nghèo, 64% hộ trung bình và 32% hộ khá Lương thực bình quân đầu người đạt 260 kg/năm, và hầu hết các hộ gia đình đều có điện thắp sáng, trong đó hơn 70% hộ có truyền thanh và truyền hình.
Mặc dù sản xuất lâm nghiệp chưa phát triển mạnh mẽ, nhưng theo các chương trình dự án trồng rừng toàn vùng, đã có 69ha rừng các loại được trồng.
Dự án Trung tâm sản xuất lâm nghiệp Tây Bắc bao gồm diện tích 12,1ha, cùng với 25,6ha cây trồng tại hai bản thuộc hai xã trong khu vực Các loại cây được trồng trong dự án này gồm có Du sam, Lát hoa, Thông, Bạch đàn, Keo tai tượng, Trẩu, và Sở.
3.2.4 Cơ sở hạ tầng phúc lợi công cộng
Khu vực Lâm Viên sở hữu mạng lưới giao thông thuận lợi với quốc lộ 6 chạy dọc, cùng các đường nhánh liên xã và bản Mặt đường bằng phẳng giúp ô tô di chuyển dễ dàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa và đi lại của người dân.
- Cơ sở y tế: Có 1 trạm xá thường xuyên khám chữa bệnh, cấp thuốc cho nhân dân trong vùng
- Trường học: Có một trường Phổ thông cơ sở được xây tiêu chuẩn cấp
4 được xây khá khang trang
- Hệ thống thủy lợi và cấp nước sinh hoạt: Có một nhánh suối nhưng chỉ có nước vào mùa mưa, ao hồ ở đây cũng không có nước thường xuyên
- Về đất đai, thảm thực vật, khí hậu thuận lợi cho việc trồng, bảo tồn các loài thực vật quý hiếm tại đây
- Vườn sưu tập Lâm viên nằm không xa khu vực lòng hồ thủy điện Sơn
La thuận lợi cho việc đi lại, vận chuyển các loài thực vật quý cần bảo tồn
- Địa phương có nguồn lao động dồi dào thuận lợi cho quá trình thực hiện bảo tồn tại Lâm viên Sơn La.
KẾT QỦA NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Tình hình sinh trưởng của cây bản địa tại Lâm viên Sơn La
Vào năm 2008, nhằm mục đích bảo tồn và lưu giữ các loài cây của hệ sinh thái thực vật vùng Tây Bắc, 21 loài cây bản địa đã được di dời từ lòng hồ thủy điện Mường La - Sơn La và trồng tại Lâm Viên, dưới tán rừng tự nhiên IIa với độ tàn che 75%, trên tổng diện tích 12,2ha, chiếm 7,04% tổng diện tích Lâm Viên Trong số 21 loài này, có 19 họ, trong đó 8 loài nằm trong danh lục đỏ của IUCN, 12 loài được ghi trong sách đỏ Việt Nam năm 1996, 11 loài trong sách đỏ Việt Nam năm 1997 và 5 loài theo Nghị định 32/NĐ-CP.
Diện tích rừng này bao gồm nhiều tầng tán:
Tầng cao: chủ yếu là Giẻ, ngoài ra còn có Lát hoa, Vối thuốc, Kháo Tầng nhỏ: Thẩu tấu, Hoắc quang, Me tròn
Tầng cây lùn tại Lâm viên Sơn La bao gồm các loài như xim, mua, găng, chó đẻ, bọt ếch lông, cỏ xước và cỏ voi Nhóm cây thảo mộc bao gồm sắn dây rừng, gấm, kim ngân và bìm bìm Chúng tôi đã tổng hợp thông tin về tình hình sinh trưởng, thành phần, tỷ lệ sâu bệnh của 05 trong số 21 loài cây bản địa tại khu vực nghiên cứu, với kết quả được trình bày trong bảng 4.1 và hình 4.1, 4.2.
Bảng 4.1 Tình trạng cây bản địa tại Lâm viên Sơn La
Chò chỉ Giổi xanh Lim xanh Nghiến Vù hương Loài cây
Hình 4.1 Tình hình sinh trưởng của cây bản địa ở Lâm Viên
(Ghi chú: D 00 = Đường kính gốc; H DC = Chiều cao dưới cành; H VN = Chiều cao vút ngọn)
Chò chỉ Giổi xanh Lim xanh Nghiến Vù hương Loài cây
Hình 4.2 Tỷ lệ % cây bản địa bị sâu, bệnh ở Lâm Viên Sơn La
Thành phần loài côn trùng một số cây bản địa của Lâm viên Sơn La
Các loài cây đều có sự phát triển đồng đều về chiều cao và đường kính Theo tiêu chí đánh giá sinh trưởng, tỷ lệ cây sinh trưởng tốt chiếm ưu thế, trong khi tỷ lệ cây sinh trưởng trung bình và xấu rất thấp.
Tỷ lệ cây bị sâu bệnh không cao (Lim xanh tỷ lệ cây bị sâu, bệnh chiếm
36%, Giổi xanh tỷ lệ cây bị sâu, bệnh chiếm 16,7%), và mức độ gây hại cũng không lớn
Trong nghiên cứu về tỷ lệ sống và chết của cây, năm loài cây được lựa chọn đều có tỷ lệ sống cao trên 80% Các cây bản địa tại Lâm viên, Sơn La được chăm sóc và bảo vệ chặt chẽ, với việc làm cỏ, bón phân và xới gốc hai lần mỗi năm Đánh giá tình hình sinh trưởng của cây được thực hiện liên tục từ khi trồng.
4.2 Thành phần loài côn trùng trên cây bản địa tại Lâm viên, Sơn La
4.2.1 Thành phần loài côn trùng thiên địch
Chúng tôi đã xác định 19 loài côn trùng thiên địch thuộc 07 họ và 4 bộ, sống trên 05 loài cây bản địa bao gồm Chò chỉ, Giổi xanh, Lim xanh, Nghiến và Vù hương tại Lâm viên Sơn La Kết quả này được tổng hợp trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Danh lục các loài côn trùng thiên địch (TĐ)
STT Tên khoa học Tên Việt Nam Loại
H1 Mantidae Họ Bọ ngựa thường
1 Hierodula patellifera Serville Bọ ngựa bụng rộng Ăn thịt ● - +
2 Tenodera sinensis Saussure Bọ ngựa Trung Quốc Ăn thịt ● - +
H2 Hymenopodidae Họ Bọ ngựa chân bè
3 Creobroter gemmatus Bọ ngựa vằn Ăn thịt ● - +
II COLEOPTERA BỘ CÁNH CỨNG
H3 Carabidae Họ Hành trùng/Bọ chân chạy
4 Paederus fuscipes Bọ cánh cộc Ăn thịt - +
5 Megalocaria dilatata Fabricius Bọ rùa vàng 12 chấm đen Ăn thịt +
6 Rodolia pumila Weise Bọ rùa đỏ Ăn thịt - 0 +
7 Scymnus frontalis Fabricius Bọ rùa đen 4 chấm vàng Ăn thịt - +
III HEMIPTERA BỘ CÁNH NỬA CỨNG
H5 Reduviidae Họ Bọ xít ăn sâu
8 Rhinocoris iracundus Bọ xít ăn sâu vằn đỏ Ăn thịt ● - +
9 Sycanus croceovittatus Dorn Bọ xít ăn SRT Ăn thịt ● - +
10 Zelus renardii Bọ xít ăn sâu nâu đỏ Ăn thịt +
IV HYMENOPTERA BỘ CÁNH MÀNG
11 Crematogaster travanconresis Forel Kiến cong bụng Ăn thịt +
12 Formica lomani Kiến đen Ăn thịt +
13 Formica rufa Kiến đỏ Ăn thịt +
14 Lasius sp Kiến 2 màu Ăn thịt +
15 Oecophylla smaragdina Fabricius Kiến vống Ăn thịt +
16 Solenopsis sp Kiến lửa Ăn thịt +
H7 Ichneumonidae Họ Ong cự phong
17 Gotra octocinentus Ashmead Ong vằn đen Ký sinh +
18 Pimpla luctuosa Smith Ong đen vằn vàng Ký sinh +
19 Xanthopimpla punctata Fabricius Ong vàng chấm đen nhỏ Ký sinh +
Ghi chú: (●): Trứng; (-): Sâu non; (0): Nhộng; (+): Sâu trưởng thành)
Bảng 4.3 Thành phần các loài, họ trong bộ côn trùng thiên địch
STT Tên khoa học Tên Việt Nam Số họ % họ Số loài % loài
II Coleoptera Bộ cánh cứng 2 28,57 4 21,05
III Hemiptera Bộ cánh nửa cứng 1 14,29 3 15,79
IV Hymenoptera Bộ cánh màng 2 28,57 9 47,37
Mantodea Coleoptera Hemiptera Hymenoptera Bộ
Hình 4.3: Tỷ lệ % số họ, loài côn trùng có ích của các bộ côn trùng
Theo bảng 4.2, 4.3 và Hình 4.3, bộ Cánh màng (Hymenoptera) dẫn đầu về số loài côn trùng thiên địch được phát hiện trên các loài cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La, chiếm 47,37% Bộ Cánh nửa cứng (Hemiptera) chỉ có một họ duy nhất, chiếm 15,79% loài và 14,29% họ Các bộ Bọ ngựa (Mantodea), Cánh cứng (Coleoptera) cũng có 2 họ và tổng cộng chiếm 28,58% họ.
Dựa vào phương thức sống và đặc tính sinh học của từng loài, chúng tôi đã phân loại 19 loài côn trùng thiên địch đã được phát hiện thành các nhóm khác nhau.
Trong nghiên cứu về côn trùng thiên địch, có hai nhóm chính được xác định: côn trùng ăn thịt chiếm 84,21% với 16 loài và côn trùng ký sinh chiếm 15,79% với 3 loài Hầu hết các loài côn trùng thiên địch được phát hiện ở pha trưởng thành, tuy nhiên, một số loài như Bọ ngựa bụng rộng, Bọ ngựa Trung Quốc, Bọ ngựa vằn và Bọ xít ăn sâu róm thông còn xuất hiện ở cả ba pha sinh trưởng: trứng, sâu non và sâu trưởng thành Đặc biệt, Bọ rùa đỏ và Bọ rùa đen 4 chấm vàng không chỉ được phát hiện ở pha sâu non và pha trưởng thành mà còn ở cả pha nhộng.
Thiên địch là kẻ thù tự nhiên của sâu hại, giúp kiểm soát chúng qua biện pháp sinh học thay vì sử dụng hóa chất như thuốc trừ sâu Việc sử dụng côn trùng hữu ích để kiểm soát côn trùng gây hại không chỉ giảm số lượng sâu hại mà còn phòng ngừa dịch bệnh trước khi chúng lan rộng Biện pháp này có tác động đến môi trường thấp hơn so với các phương pháp khác, vì thiên địch không gây ô nhiễm đất hoặc nước, và không để lại dư lượng hay mùi vị Hơn nữa, sâu hại cũng không phát triển kháng thuốc đối với thiên địch như với thuốc trừ sâu.
Trong kiểm soát sinh học, có bốn tác nhân chính bao gồm loài ăn thịt, vật ký sinh, mầm bệnh và côn trùng ăn cỏ dại Trong đó, hai tác nhân quan trọng nhất được nhấn mạnh là các loài ăn thịt và vật ký sinh.
Các loài ăn thịt, bao gồm bọ ngựa Trung Quốc, bọ ngựa vằn, bọ xít ăn sâu, bọ rùa đỏ và các loài kiến, thường săn mồi những sinh vật yếu hơn hoặc chậm chạp hơn Những loài này, với phạm vi vật chủ hẹp, được xem là hiệu quả nhất trong việc kiểm soát sâu hại cây trồng.
Vật ký sinh thường là các loài ong như ong vằn đen, ong vằn vàng và ong vàng chấm đen nhỏ, chúng tiêu diệt sâu hại bằng cách đẻ trứng bên trong hoặc trên vật chủ như trứng, ấu trùng, nhộng hoặc con trưởng thành Khi trứng nở, con non sẽ ăn và tiêu diệt vật chủ, làm cho vật ký sinh trở thành thiên địch hiệu quả, vì một con cái có thể ký sinh trên nhiều sâu hại trong thời gian ngắn.
4.2.2 Thành phần các loài côn trùng có hại
Trên 05 loài cây bản địa (Chò chỉ, Giổi xanh, Lim xanh, Nghiến, Vù hương) tại Lâm viên Sơn La, chúng tôi đã thống kê được 21 loài côn trùng hại, thuộc 15 họ, 4 bộ, kết quả được tổng hợp trong bảng 4.4 sau:
Bảng 4.4 Danh lục các loài côn trùng có hại
TT Tên khoa học Tên Việt Nam Loại gây hại Pha sâu
1 Macrotermes barneyi Mối đất barney Hại rễ, thân - +
II ORTHOPTERA BỘ CÁNH THẲNG
2 Atractomorpha sinensis Bolivar Cào cào xanh Ăn lá - +
3 Oxya chinensis Thunberg Châu chấu lúa Ăn lá - +
4 Brachytrupes portentosus L Dế mèn nâu lớn Ăn lá, hại thân - +
5 Gryllus testaceus Walker Dế mèn nâu nhỏ Ăn lá, hại thân - +
6 Gryllotalpa orientalis Burmeister Dế dũi Hại rễ, thân
7 Tettigonia chinensis Willemse Sát sành xanh Ăn lá, hại thân - +
III HEMIPTERA BỘ CÁNH NỬA CỨNG
H5 Pentatomidae Họ Bọ xít 5 cạnh
8 Nezara viridula Linnaeus Bọ xít xanh Hút dịch ● - +
9 Cletus sp Bọ 2 gai nhọn Hút dịch - +
TT Tên khoa học Tên Việt Nam Loại gây hại Pha sâu
H6 Coreidae Họ Bọ xít mép
10 Leptocorisa varicornis Fabricius Bọ xít dài Hút dịch ● - +
IV HOMOPTERA BỘ CÁNH ĐỀU
11 Aphis citricola Rệp chanh Hút dịch - +
12 Pseudococcus sp Rệp sáp trắng Hút dịch - +
13 Hypomeces squamosus Fabricius Câu cấu xanh Hại rễ, ăn lá
14 Holotrichia sauteri Mauser Bọ hung nâu lớn Hại rễ, ăn lá - 0 +
15 Maladera orientalis Motschulsky Bọ hung nâu nhỏ Hại rễ, ăn lá +
VI LEPIDOPTERA BỘ CÁNH VẨY
16 Lymantria sp Ngài độc Ăn lá - +
17 Parasa consonia Walker Bọ nẹt xanh Ăn lá
18 Darna trima Ajavana Bọ nẹt nâu Ăn lá
19 Buzara suppressaria Guenees Sâu đo ăn lá lim Ăn lá - 0 +
20 Acanthopsyche sp Sâu kèn nhỏ Ăn lá
H15 Sesiidae Họ Ngài cánh trong
21 Synanthedon spheciformis Gerning Ngài cánh trong Đục thân cành + (Ghi chú: (●): Trứng; (-): Sâu non; (0): Nhộng; (+): Sâu trưởng thành)
Bảng 4.5 Thành phần các loài, họ trong bộ côn trùng có hại
STT Tên khoa học Tên Việt Nam Số họ % họ Số loài % loài
II Orthoptera Bộ Cánh thẳng 3 20,00 6 28,57 III Hemiptera Bộ Cánh nửa cứng 2 13,33 3 14,29
IV Homoptera Bộ Cánh đều 2 13,33 2 9,52
VI Lepidoptera Bộ Cánh vẩy 5 33,33 6 28,57
Isoptera Orthoptera Hemiptera Homoptera Coleoptera Lepidoptera
Hình 4.4 Tỷ lệ % số họ, loài côn trùng có hại của các bộ côn trùng
Theo bảng 4.4, 4.5 và Hình 4.4, bộ cánh vẩy (Lepidoptera) dẫn đầu về số lượng loài côn trùng có hại phát hiện trên các loài cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La, với tỷ lệ 33,33% họ và 28,57% loài Trong khi đó, bộ cánh bằng (Isoptera) chỉ xuất hiện với 01 họ và 01 loài duy nhất.
Các loài sâu hại được phân loại thành ba nhóm chính: hại lá, hại rễ và hại thân cành Nhiều loài sâu thuộc bộ Cánh vẩy một mặt không chỉ gây hại cho lá và thân cây mà còn có khả năng thụ phấn cho cây Hầu hết các loài sâu hại được phát hiện ở giai đoạn sâu non và trưởng thành, trong khi một số ít như bọ xít xanh và bọ xít dài còn được ghi nhận ở giai đoạn trứng.
Sâu hại có mối quan hệ chặt chẽ với cây bản địa trong hệ sinh thái rừng, đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh sự phát triển của cây rừng Chúng không chỉ là vật tiêu thụ và phân giải, mà còn ảnh hưởng đáng kể đến sự sống của cây, làm giảm khả năng sinh trưởng và có thể gây chết hàng loạt cây con trong trường hợp dịch bệnh xảy ra.
Sự biến động về thành phần, mật độ các loài côn trùng
Trong quá trình điều tra, sự thay đổi thành phần và mật độ của các loài côn trùng phụ thuộc vào tình hình sinh trưởng của cây, thời gian, độ sâu lớp đất, thực bì, số lượng ký chủ và đặc tính sinh vật học của từng loài Để bảo vệ các loài côn trùng thiên địch và đề ra biện pháp phòng trừ côn trùng có hại, cần phân tích để xác định loài chủ yếu đại diện cho từng loài cây và phương thức sống Việc xác định này dựa vào tần suất xuất hiện, mật độ và sự biến động của các loài côn trùng.
Vì vậy các loài có số lần xuất hiện ít và mật độ thấp sẽ không được xem xét trong các phân tích dưới đây
4.3.1 Biến động của các loài côn trùng thiên địch trên cây bản địa
Bảng 4.6 Biến động về thành phần, mật độ của côn trùng thiên địch trên cây bản địa
Mật độ TB (con/cây) 0,25 0,04 0,21 0,28 0,38 0,26
Tỷ lệ có sâu (% cây) 8,58 3,78 5,87 9,42 19,34 9,44
SLXH (lần) 10 10 10 10 10 10 Để hiểu rõ hơn ta dùng Hình 4.5 sau biểu diễn mật độ tuyệt đối của các loài thiên địch qua các đợt điều tra
Mật độ (con/cây) Bọ ngựa Trung Quốc
Bọ rùa đỏ Kiến vống Kiến cong bụng Kiến hai màu
Bọ rùa đen 4 chấm vàng
Hình 4.5 Diễn biến mật độ của côn trùng thiên địch trên cây bản địa
Kết quả từ bảng 4.6 và Hình 4.5 cho thấy, sau 10 lần điều tra về thành phần và mật độ các loài côn trùng có ích trên cây bản địa, đã phát hiện 06 loài với tần suất xuất hiện cao, có mặt ở hầu hết các cây bản địa tại Lâm viên Điều này khẳng định rằng chúng là những thiên địch chủ yếu đối với 05 loài cây bản địa (Chò chỉ, Giổi xanh, Lim xanh, Nghiến, Vù hương) được điều tra tại Lâm Viên Sơn.
Xét về hệ số biến động thì 05 trong 06 loài thiên địch trên đều có hệ số biến động nhiều (25% ≤ S% ≤ 50% ), điều đó chứng tỏ Bọ ngựa Trung Quốc,
Bọ rùa đen 4 chấm vàng, Bọ rùa đỏ, Kiến cong bụng và Kiến vống có sự xuất hiện không đồng đều trong các đợt điều tra Trong khi đó, Kiến hai màu lại là loài ổn định hơn với hệ số biến động chỉ 23,15%, cho thấy sự ít biến động của chúng (S% < 25%).
Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ sâu trên cây bản địa của 06 loài sâu đều nhỏ hơn 25%, chứng tỏ chúng là những loài sâu hiếm gặp và có phân bố ngẫu nhiên Mật độ các loài sâu này nhìn chung rất thấp, với loài Bọ rùa đen 4 chấm vàng có mật độ thấp nhất là 0,04 con/cây, trong khi loài Kiến vống có mật độ cao nhất là 0,38 con/cây.
Qua điều tra thực địa, một số loài thiên địch chỉ xuất hiện trên những cây có côn trùng gây hại mà chúng ưa thích làm thức ăn, chẳng hạn như bọ ngựa săn mồi các loài châu chấu, cào cào và dế mèn nâu lớn; hay bọ rùa ăn các loài rệp hại.
Trên 05 loài cây bản địa được lựa chọn để điều tra không chỉ xuất hiện duy nhất 06 loài thiên địch kể trên mà còn có nhiều loài thiên địch khác cũng có mặt tuy nhiên không phổ rộng Kết quả ở bảng 4.7 sau sẽ cho chúng ta thấy rõ được nhận định đó
Bảng 4.7 Khái quát tình hình côn trùng thiên địch (CTTĐ) trên một số cây bản địa
Loài cây Thiên địch Mật độ
Chò chỉ Bọ ngựa bụng rộng 0,01 1,33 178,54 3
Bọ xít ăn sâu róm thông 0,22 3,00 75,52 9
Ong vàng chấm đen nhỏ 0,01 0,67 230,94 2
Bọ xit ăn sâu vằn đỏ 0,02 1,33 181,05 3
Bọ rùa vàng 12 chấm đen 0,13 5,33 79,81 8
Bọ xít ăn sâu nâu đỏ 0,02 1,67 145,3 4
Vù hương Bọ ngựa vằn 0,03 2,33 108,17 6
Trong 12 loài côn trùng xuất hiện trên các loài cây bản địa nghiên cứu thì hầu hết các loài đều có số lần xuất hiện ít, có loài chỉ bắt gặp 2, 3 lần trong các đợt điều tra như: Bọ ngựa bụng rộng, Bọ xít ăn sâu vằn đỏ, Ong vàng chấm đen nhỏ… Còn Bọ xít ăn sâu róm thông bắt gặp nhiều lần (9/10 lần) trên cây Giổi xanh một phần do Giổi xanh được trồng gần lâm phần Thông, trong khi đó Thông đang bị sâu róm (Dendrolimus punctatus Walker) với mật độ tương đối cao phá hại
Các loài thiên địch được khảo sát đều có mật độ trung bình thấp, không có loài nào đạt mật độ vượt quá 0,22 con/cây Điều này cho thấy số lượng thiên địch không chỉ ít mà tỷ lệ cây có thiên địch cũng thấp, với P% dưới 25% Cụ thể, tỷ lệ cây Nghiến có Bọ ngựa vằn cao nhất chỉ đạt 5,67%, trong khi Bọ rùa vàng 12 chấm đen là 5,33%.
Hệ số biến động cho thấy các loài có mật độ tuyệt đối biến động cao (S% > 75%), điều này khẳng định rằng sự xuất hiện của các loài không đồng đều.
Dựa trên kết quả từ bảng 4.6, 4.7 và Hình 4.5, chúng ta xác định rằng loài thiên địch chính trên các cây bản địa bao gồm Kiến vống, Kiến hai màu, Kiến cong bụng, Bọ ngựa Trung Quốc và Bọ rùa đỏ Trong số đó, Kiến vống nổi bật với mật độ trung bình cao nhất và tỷ lệ cây có Kiến vống lớn nhất, đồng thời mật độ của chúng ít biến động hơn so với các loài khác Kiến vống không chỉ là thiên địch chính tiêu diệt sâu hại cây bản địa mà còn đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái.
4.3.2 Biến động về thành phần, mật độ côn trùng thiên địch dưới đất trồng cây bản địa Đất là hoàn cảnh sinh sống của nhiều loài côn trùng Theo M.X.Ghi-la- rốp có đến 95% côn trùng ít nhiều đều có liên quan đến đất Đất ảnh hưởng đến côn trùng thông qua nhiệt độ, độ ẩm, độ Ph của đất và đặc biệt là lớp thảm mục rừng Để có tác động hợp lý vào đất rừng chúng ta cùng nghiên cứu về sự biến động của côn trùng trong đất trồng cây bản địa
Các loài cây bản địa như Chò chỉ, Giổi xanh, Lim xanh, Nghiến và Vù hương được trồng trong điều kiện địa hình, đất đai và khí hậu tương đồng, dẫn đến sự tương đồng về thành phần, mật độ và số lần xuất hiện của các thành phần sâu dưới đất Do đó, chúng tôi đã tập hợp và phân tích số liệu để đánh giá diễn biến sâu dưới đất chung cho cả 05 loài cây này.
Bảng 4.8 Biến động về thành phần, mật độ côn trùng thiên địch dưới đất
Bọ rùa đen 4 chấn vàng
Tỷ lệ có sâu (%ODB) 6,00 10,00 4,00 38,00 28,00 16,00 26,00 8,00 S% 181,92 149,91 211,87 116,14 118,29 130,84 109,88 131,05
Kiến đen Kiến đỏ Kiến hai màu Kiến lửa
Hình 4.6 Diễn biến mật độ côn trùng thiên địch dưới đất
Theo bảng 4.8 và Hình 4.6, có 8 loài côn trùng thiên địch dưới đất trồng cây bản địa được ghi nhận Qua 10 đợt điều tra, Kiến đen và Kiến đỏ có số lần xuất hiện cao nhất với 10 lần, trong khi Kiến hai màu và Kiến lửa xuất hiện 8 lần Bọ cánh cộc và Bọ rùa đỏ đều ghi nhận 4 lần xuất hiện, Kiến cong bụng xuất hiện 7 lần, và Bọ rùa đen 4 chấm ghi nhận ít nhất với 3 lần.
Cả 8 loài côn trùng trên đều có mật độ biến động rất nhiều (S% > 75%) Loài có mật độ biến động nhiều nhất là Bọ rùa đen 4 chấm vàng 211,87%, thấp nhất là Kiến lửa 109,88% Điều này chứng tỏ các loài thiên địch dưới đất xuất hiện không đều
Loài có mật độ trung bình cao nhất là Kiến đen 8,10 con/m 2 , thấp nhất là Bọ rùa đen 4 chấm vàng 0,10 con/m 2
Tỷ lệ ô dạng bản chứa các loài Kiến đen, Kiến đỏ và Kiến lửa dao động từ 25% đến 50%, cho thấy đây là những loài ít gặp và có phân bố không đồng đều Trong khi đó, tỷ lệ ô dạng bản có các loài thiên địch khác đều nhỏ hơn 25%, với Bọ rùa đen 4 chấm vàng chỉ chiếm 4,00%, chứng tỏ những loài này có sự phân bố ngẫu nhiên và rất hiếm gặp.
Mô tả loài côn trùng chủ yếu đã phát hiện trong thời gian nghiên cứu
1) Bọ hung nâu lớn (Holotrichia sauteria Mauser)
Thuộc họ Bọ hung (Scarabaeidae), bộ cánh cứng (Coleoptera)
Sâu trưởng thành có thân dài từ 22 ÷ 24mm, chiều rộng ngang ngực từ
11 ÷ 13mm, bụng tròn to hơn ngực Toàn thân màu nâu sẫm hoặc màu nâu nhạt
Râu đầu hình đầu gối lá lợp có 11 đốt với miệng gặm nhai phát triển Mặt bụng của đốt ngực giữa và đốt ngực sau có nhiều lông màu trắng xám Cánh cứng không phủ hết bụng và có 4 đường vân nổi rõ Đốt chày chân trước bè rộng với 3 gai ở mép ngoài và 1 cựa ở mép trong Trong khi đó, đốt chày chân giữa và chân sau chỉ có 1 gai ở giữa Bụng có 8 đốt nhìn từ mặt bụng.
Trứng dài khoảng 1,5mm màu trắng xám
Sâu non 3 tuổi mới nở có màu trắng, sau đó chuyển sang trắng xám với các đốt cuối thân màu đen Thân hình cong chữ C với 3 đôi chân ngực phát triển Đặc biệt, mảnh bụng của đốt thứ 10 có nhiều lông cứng và vòng lông nằm ngang hình trăng khuyết.
Nhộng trần dài từ 23 ÷ 25mm, màu nâu vàng Mặt lưng của nhộngcó một ngấn dọc màu nhạt hơn, phía cuối bụng có gai hình sao
Sâu trưởng thành xuất hiện vào giữa tháng 3 và đầu tháng 4, ban ngày ẩn mình dưới đất và vào chập tối bay ra để ăn lá Chúng có thể sống từ 6 đến 7 tháng và đẻ trứng trong đất, đặc biệt là ở những nơi có cỏ hoai mục Sâu non sống trong đất và chủ yếu ăn rễ của cây non.
2) Bọ nẹt nâu (Darna trima)
Thuộc họ Ngài gai (Limacodidae), bộ cánh vẩy (Lepidoptera)
Sâu non có chiều dài 9mm khi nghỉ, với màu sắc chủ yếu là đen xám ở lưng Đầu và ngực hai bên có 8 đôi u gai màu nâu đen, trong khi ở gần cuối bụng (đốt 5) cũng có một đôi u gai tương tự Trên 3 đốt ngực, có 3 đôi u lớn hơn so với các u ở đốt ngực sau Thân sâu non có màu trắng xám, nổi bật với 6 đôi gai lông trắng, trong đó hai đôi ở cuối bụng là dài nhất.
Nhộng dài 8mm, màu nâu, hình cầu, nhộng nằm trong kém mỏng
Sâu trưởng thành có chiều dài từ 10 đến 12mm, màu sắc chủ yếu là xám đen với râu hình sợi chỉ dài Mặt trên của hai cánh trước có màu nâu đen, trong khi đó, dọc theo mép ngoài có một dải màu đen rộng khoảng 1,5mm Mép ngoài cánh được phủ lông hình tua cờ màu đen nhạt Đặc biệt, râu môi dưới phát triển mạnh, với đốt thứ ba có nhiều lông màu nâu đen nhô ra phía trước đầu.
Sâu non ăn lá rất mạnh, chúng ăn từ mép lá vào, sâu non thường nằm mặt sau lá Khi vũ hoá thường cắt kén thành đường ngang
3) Bọ nẹt xanh ( Parasa consonia )
Thuộc họ Ngài gai (Limacodidae), bộ cánh vẩy (Lepidoptera)
Sâu trưởng thành có kích thước khác nhau, con cái dài từ 14 đến 18mm và con đực dài từ 10 đến 13mm Chúng có màu sắc nổi bật với toàn thân màu xanh vàng, râu đầu hình răng lược, cánh trước màu xanh với gốc cánh màu nâu vàng, và dải gân ở mép cánh màu nâu xám Cánh sau của chúng có màu nâu vàng.
Trứng có hình bầu dục, lúc mới đẻ có màu hơi vàng và khi gần nở sẽ chuyển sang màu sẫm hơn Sâu non trưởng thành có chiều dài từ 22 đến 26 mm, với màu sắc phía lưng là xanh vàng và phía bụng là màu xám trong Trên thân sâu có 10 đôi u gai, trong đó đôi u gai thứ ba từ đầu xuống là lớn nhất và có màu đỏ, cùng với 9 đôi u gai khác hai đôi cuối có màu đen Trên các u gai còn có nhiều lông ngứa.
Nhộng có hình dạng chuỳ, ban đầu màu trắng xám và chuyển sang màu nâu vàng khi gần đến giai đoạn vũ hoá Kén có hình trứng với mặt dưới hơi lõm, kích thước dài từ 22 đến 25mm và có màu nâu sẫm.
Loài này một năm có 2 – 3 thế hệ, thời gian của mỗi thế hệ như sau:
Thế hệ 1 xuất hiện vào tháng 4, tháng 5
Thế hệ 2 xuất hiện vào tháng 7, tháng 8 và lá thế hệ phá hại mạnh nhất
Thế hệ 3 xuất hiện từ tháng 10 đến tháng 3 năm sau
Sâu trưởng thành đẻ trứng ở mặt dưới lá, mỗi lá có từ 30 – 80 trứng xếp thành hình vẩy cá
Sâu non mới nở thường bắt đầu bằng việc ăn vỏ trứng trước khi chuyển sang ăn lá Ban đầu, chúng sống tập trung và chỉ gặm phần biểu bì phía dưới lá, sau đó mới bắt đầu ăn thủng lá Khi đạt đến tuổi 5, sâu non sẽ có những thay đổi trong hành vi ăn uống.
Từ tuổi 6 trở đi, sâu non sống phân tán và ăn hết lá cây Vào tháng 7, sâu non ở độ tuổi 8-9 gây hại mạnh mẽ, chúng làm kén ở gốc cây gần mặt đất hoặc ở các cành cao, vì vậy rất dễ phát hiện.
4) Bọ xít dài ( Leptocorisa varicornis F.)
Thuộc họ bọ xít mép (Coreidae), bộ cánh nửa cứng (Hemiptera)
- Sâu trưởng thành thân thể dài từ 15 – 18mm, chỗ rộng nhất của thân từ
Loài côn trùng này có kích thước từ 2 đến 2,6mm, toàn thân mang màu xanh vàng, với đầu hình tam giác và hai mắt kép tròn màu nâu đỏ Các đốt khác có màu trắng ở phía trong và đỏ ở nửa ngoài, miệng có khả năng trích hút Mảnh lưng ngực trước có hình thang, trong khi mảnh thuẫn có hình tam giác màu xanh ngà Cánh trên có phần màng màu nâu vàng, và loài này sở hữu ba đôi chân dài, mảnh, với các đốt đùi màu xanh và các đốt chày màu nâu đỏ.
Sâu non có màu xanh lá mạ toàn thân, với các đốt chày màu nâu đỏ Thân sâu phình ra ở giữa và hẹp ở hai bên Đặc biệt, đốt thứ 4 và thứ 5 trên lưng có hai tuyến hôi màu nâu vàng.
- Trứng dài 1,5mm, rộng 1mm, màu nâu sẫm, đẻ thành hàng trên lá, khoảng 12–14 trứng
Bọ xít dài là loài đa thực, xuất hiện đều trong năm và có vòng đời một năm Thời gian ủ trứng kéo dài từ 9-10 ngày Sâu non mới nở thường tập trung từ 4-5 con trên mỗi cành, và khi bị quấy rầy, chúng sẽ tản ra nhanh chóng Sâu trưởng thành có tính xu quang yếu và chủ yếu gây hại cho cây họ hòa thảo.
5) Bọ xít xanh (Nezera viridula L.)
Thuộc họ Bọ xít năm cạnh (Pentatomidae), bộ cánh nửa cứng (Hemiptera)
Sâu trưởng thành có kích thước dài từ 10 đến 15mm và rộng từ 9 đến 12mm, với toàn thân màu xanh lá mạ Đốt bàn chân có màu nâu đen, mắt kép lớn màu nâu đen cùng với hai mắt đơn ở đỉnh đầu Râu đầu hình sợi chỉ gồm 5 đốt, trong đó hai đốt cuối có màu vàng nhạt, miệng chích hút và có cấu trúc đốt.
Mảnh lưng ngực trước có hình lục giác dài và phẳng, với ba chấm trắng nằm ở mép sau Mảnh thuẫn có hình tam giác, kéo dài hơn 2/3 chiều dài của thân.
+ Cánh trên phủ hết chiều dài bụng nhưng để lại hai bên rìa bụng từ trên xuống nhìn rõ 4 đốt
Bọ xít xanh là loài đa thực, phá hại chủ yếu loài cây hoà thảo, một năm có một vòng đời, xu quang yếu
6) Châu chấu lúa ( Oxya chinensis Thunberg)
Thuộc họ châu chấu (Acrididae), bộ cánh thẳng (Orthoptera)
Quản lý côn trùng thiên địch
Kết quả điều tra cho thấy khu vực nghiên cứu có 19 loài côn trùng thiên địch, bao gồm 16 loài ăn thịt và 3 loài ký sinh, tất cả đều có ý nghĩa quan trọng Để quản lý hiệu quả các loài côn trùng thiên địch này, cần chú ý đến những điểm chung quan trọng.
- Người quản lý cần có các biện pháp hợp lý để tạo điều kiện cho thiên địch có mặt đúng nơi, đúng lúc với một số lượng đủ lớn
Việc áp dụng côn trùng thiên địch vào nông nghiệp chỉ đạt hiệu quả khi người nông dân nắm vững đặc điểm sinh học của cả thiên địch và ký chủ hoặc con mồi, đồng thời cần có các điều kiện kinh tế - xã hội phù hợp để đảm bảo thành công.
Để bảo vệ thiên địch, cần chú trọng vào việc nhận diện và bảo vệ các loài côn trùng ký sinh, đặc biệt là nhóm Ong Hình thức tuyên truyền qua tranh ảnh và tờ rơi là cách hiệu quả để khuyến khích cộng đồng tham gia Các loài côn trùng này thường cần nguồn thức ăn như mật hoa trước khi đẻ trứng, vì vậy việc bảo vệ cây bụi và thảm thực vật là rất quan trọng Có thể trồng xen các loại cây có mật hoa ưa thích hoặc phun nước đường vào rừng khi cần thiết Đồng thời, cần ngăn chặn việc chặt phá cây bụi, đặc biệt là những cây có nhiều mật, và bảo vệ lớp thảm mục để tạo môi trường sống cho côn trùng ký sinh Trong quá trình phòng trừ sâu hại bằng hóa chất, cần tránh phun thuốc lên các khu vực mà ký sinh ưa thích, chỉ phun tại những nơi có sâu hại tập trung và lựa chọn khu vực an toàn cho sự phát triển của chúng.
- Áp dụng biện pháp “Tập trung thiên địch”
Quản lý côn trùng gây hại
4.6.1 Các biện pháp quản lý sâu hại rừng
Quản lý sâu hại hiệu quả thông qua biện pháp hành chính bao gồm việc ban hành quy định về phòng trừ sâu hại và quản lý, sử dụng thuốc trừ sâu Các quy định này cũng thiết lập chế độ xử phạt đối với những vi phạm trong công tác phòng trừ sâu hại, đồng thời quy định chế độ đãi ngộ cho những người làm công tác quản lý sâu hại.
- Quản lý công tác bảo vệ rừng bao gồm: Việc dự tính, dự báo sâu hại; kiểm dịch phòng trừ và thuốc phòng trừ
Quản lý kỹ thuật bảo vệ rừng bao gồm các hoạt động phòng trừ sâu hại, sử dụng thuốc diệt trừ sâu hại, cả sinh học và hóa học Ngoài ra, các biện pháp kỹ thuật phòng trừ sinh thái như sử dụng giống cây chống chịu sâu hại và bảo vệ các nhóm thiên địch đặc thù trong từng hệ sinh thái cũng rất quan trọng.
- Quản lý sâu hại rừng thông qua biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân và chính quyền các cấp
4.6.2 Xu hướng và nhu cầu quản lý sâu bệnh hại rừng hiện nay
Quản lý sâu hại rừng hiện nay đang theo xu thế quản lý tổng hợp, vì các biện pháp đơn lẻ có ưu và nhược điểm riêng Mối quan hệ giữa cây rừng và sâu hại rất phức tạp, bao gồm cả cạnh tranh, hỗ trợ, ức chế và tiêu thụ Đặc biệt, giữa các nhóm sâu hại và rừng cũng tồn tại những mối quan hệ không đơn giản Để bảo vệ cây trồng, cần xác định các loài gây hại chủ yếu và thứ yếu trên từng loại cây rừng, ở các giai đoạn sinh trưởng khác nhau và trong từng vùng sinh thái cụ thể, từ đó áp dụng nhiều biện pháp khác nhau Phương pháp phòng trừ tổng hợp đang và sẽ là chiến lược phòng trừ dịch hại dựa trên cơ sở sinh thái học, góp phần phát triển một nền lâm nghiệp bền vững.
Trong quản lý dịch hại tổng hợp, các biện pháp không chỉ tập trung vào việc tiêu diệt sâu, bệnh, cỏ dại mà còn nhằm tác động đến các yếu tố của hệ sinh thái để kiểm soát sự phát triển của dịch hại Ví dụ, làm đất kỹ lưỡng giúp tiêu diệt mầm bệnh, bón phân hợp lý giúp cây phát triển khỏe mạnh và tăng khả năng kháng sâu bệnh, đồng thời phát huy vai trò của thiên địch để kiểm soát sâu hại Hiệu quả của biện pháp phòng trừ tổng hợp không chỉ được đánh giá qua mức độ sâu hại tại một thời điểm mà còn dựa vào hiệu quả kinh tế, sự ổn định của hệ sinh thái trong nhiều năm, cân bằng sinh học giữa thiên địch và sâu hại, cũng như sự an toàn cho môi trường.
J.E Funderburk (1993) trong bài “những chiến lược phòng trừ tổng hợp dịch hại tương lai” trình bày tại Hội nghị khoa học cây trồng thế giới tại Iowa (Mỹ) tháng 7/1992 đã quan niệm: Phòng trừ tổng hợp là một phương pháp phòng trừ dịch hại theo kiểu sinh thái Đường Hồng Dật (1981) nêu tinh thần cơ bản của phòng trừ tổng hợp là
Điều khiển các hệ sinh thái và quản lý mối quan hệ đa dạng giữa các thành phần sinh vật là rất quan trọng để đảm bảo hoạt động bình thường và phát triển bền vững của hệ sinh thái, từ đó đạt được năng suất kinh tế cao.
BA.Croft (1993) định nghĩa phòng trừ tổng hợp là một triết lý trong quản lý dịch hại, nhấn mạnh rằng đây là một nhiệm vụ không bao giờ kết thúc Ông khẳng định rằng không ai có thể tuyên bố rằng phòng trừ tổng hợp đã được thực hiện hoàn toàn, vì mục tiêu của nó luôn thay đổi và tiến hóa theo thời gian.
Xu hướng nghiên cứu phòng trừ sâu bệnh trong tương lai sẽ tập trung vào chiến lược phòng trừ tổng hợp, bao gồm việc tăng cường kiểm dịch thực vật và thực hiện quy trình kỹ thuật trong sản xuất lâm nghiệp Biện pháp này nhấn mạnh việc sử dụng giống cây chống chịu sâu bệnh và bảo vệ các thiên địch tự nhiên, phát triển mối quan hệ ký sinh - ký chủ trong hệ sinh thái Nghiên cứu cũng sẽ chú trọng bảo vệ các nhóm thiên địch đặc thù, nuôi nhân giống và áp dụng chế phẩm sinh học như Boverin, cùng với các biện pháp vật lý, cơ giới và hóa học có chọn lọc, nhằm giảm thiểu độc hại cho cây trồng, con người, gia súc và môi trường.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1 Thành phần, tình hình sinh trưởng của một số loài cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La
Lâm viên Sơn La là nơi có sự đa dạng sinh học phong phú với 21 loài cây bản địa thuộc 19 họ Trong số đó, có 8 loài được ghi trong danh lục đỏ của IUCN và 12 loài được công nhận trong Sách đỏ Việt Nam năm 1996 Đặc biệt, 11 loài cũng nằm trong Sách đỏ Việt Nam, thể hiện tầm quan trọng của việc bảo tồn các loài cây quý hiếm này.
1997 và 5 loài có tên trong Nghị định 32/NĐ-CP
- Các loài cây bản địa đều sinh trưởng và phát triển khá đồng đều về chiều cao và đường kính Tỷ lệ cây sinh trưởng tốt khá cao
- Tỷ lệ cây bị sâu bệnh không cao và mức độ gây hại cũng không lớn
- Tỷ lệ sống cao (> 80% cây)
2 Thành phần, mật độ các loài côn trùng trên một số cây bản địa mới trồng tại Lâm viên Sơn La
- Trên 05 loài cây bản địa: Chò chỉ, Giổi xanh, Lim xanh, Nghiến, Vù hương đã thống kê được 19 loài côn trùng thiên địch thuộc 07 họ, 4 bộ
- Đã thống kê được 21 loài côn trùng hại, thuộc 15 họ, 4 bộ, trên 05 loài cây bản địa được lựa chọn nghiên cứu
Kết quả điều tra cho thấy rằng côn trùng trên cây và dưới đất trồng cây bản địa thường xuất hiện với tần suất thấp, hệ số biến động cao và mật độ sâu thấp Tỷ lệ cây có sâu không cao, cho thấy các loài này thường là ít gặp hoặc rất ít gặp, với mức độ gây hại không đáng kể Do đó, chúng không ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và phát triển của cây.
3 Xác định các loài côn trùng có hại, côn trùng thiên địch chủ yếu
Các loài thiên địch chủ yếu trên cây bao gồm Kiến vống, Kiến hai màu, Kiến cong bụng, Bọ ngựa Trung Quốc và Bọ rùa đỏ, trong đó Kiến vống được coi là loài thiên địch chính.
Thiên địch chủ yếu dưới đất trong các khu vực trồng cây bản địa bao gồm các loài kiến như Kiến đen, Kiến đỏ, Kiến hai màu và Kiến lửa, trong đó Kiến đen đóng vai trò là thiên địch chính.
Trên cây, các loại sâu hại chủ yếu bao gồm bọ xít dài, bọ xít xanh, châu chấu, sâu kèn nhỏ, ngài độc, rệp sáp trắng, rệp chanh, bọ nẹt xanh, bọ nẹt nâu và sâu đo ăn lá Lim, trong đó bọ xít dài và rệp sáp trắng là những loài gây hại chính.
+ Trên cây Chò chỉ là Sâu kèn nhỏ
+ Trên cây Giổi xanh là Bọ xít dài
+ Trên cây Lim xanh là Sâu đo ăn lá Lim
+ Trên cây Nghiến là Rệp sáp trắng
+ Trên cây Vù hương là Bọ xít xanh
Bọ hung nâu lớn, Dế mèn nâu lớn, Dế dũi và Mối đất Barney là những sâu hại chủ yếu dưới đất trong các khu vực trồng cây bản địa, trong đó Mối đất Barney được xác định là loài gây hại chính.
4 Một số đặc điểm sinh vật học và sinh thái học của các loài côn trùng chủ yếu
5 Một số giải pháp quản lý côn trùng trên cây bản địa khu Lâm viên Sơn La
- Quản lý côn trùng thiên địch
+ Người quản lý cần có các biện pháp quản lý hợp lý để làm tốt công tác bảo vệ thiên địch
+ Cần có hiểu biết về đặc điểm sinh học của thiên địch, ký chủ hoặc con mồi và có các điều kiện về kinh tế xã hội phù hợp
+ Áp dụng biện pháp “Tập trung thiên địch”
- Quản lý côn trùng gây hại rừng gồm:
+ Quản lý sâu bệnh hại bằng biện pháp hành chính
+ Quản lý công tác bảo vệ rừng
+ Quản lý kỹ thuật bảo vệ rừng
+ Quản lý sâu, hại rừng thông qua biện pháp tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân và chính quyền các cấp
+ Xu hướng và nhu cầu quản lý sâu bệnh hại rừng hiện nay là tiến hành theo xu thế quản lý tổng hợp
Trong thời gian tới, cần tiến hành nghiên cứu sâu và toàn diện về sự phát triển của các loài côn trùng trên cây bản địa, đặc biệt là trên các loài cây như Chò chỉ, Giổi xanh, Lim xanh, Nghiến và Vù hương.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn cứu về mức độ gây hại của các loài sâu trên 05 loài cây bản địa đã chọn
- Nuôi các loài thiên địch, sâu hại chủ yếu trong phòng để thấy rõ hơn ảnh hưởng của chúng với cây rừng