1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Luận án tiến sĩ vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ ở việt nam

202 29 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ ở việt nam
Tác giả Dương Quỳnh Hoa
Người hướng dẫn PGS.TS Phạm Văn Dũng
Trường học Đại học quốc gia hà nội
Chuyên ngành Kinh tế chính trị
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 202
Dung lượng 1,99 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN (20)
    • 1.1. Những nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực (20)
    • 1.2. Những nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực KH-CN và phát triển nguồn nhân lực KH-CN trong KTTT (25)
    • 1.3. Những nghiên cứu liên quan đến vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN (34)
    • 1.4. Đánh giá chung (38)
  • CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ……………………………………………. 32 2.1. Phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong cơ chế thị trường (41)
    • 2.1.1. Đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực khoa học – công nghệ (41)
    • 2.1.2. Những ưu việt, khuyết tật của cơ chế thị trường trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN (0)
    • 2.2. Vai trò Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ (59)
      • 2.2.1. Tính tất yếu can thiệp của nhà nước (59)
      • 2.2.2. Nội dung thực hiện vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN (0)
      • 2.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN (69)
      • 2.2.4. Tiêu chí đánh giá vai trò nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH- CN…………………………………………………………………………..… 63 2.3. Kinh nghiệm thực hiện vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN ở một số nước trên thế (72)
      • 2.3.1. Kinh nghiệm tạo lập môi trường phát triển nguồn nhân lực KH-CN (73)
      • 2.3.2. Kinh nghiệm xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực KH-CN… 64 2.3.3. Kinh nghiệm xây dựng các chính sách phát triển nguồn nhân lực KH- (73)
      • 2.3.4. Những bài học rút ra cho Việt Nam (86)
  • CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM (88)
    • 3.1. Tình hình nguồn nhân lực KH- CN ở Việt Nam trong những năm qua… (88)
      • 3.1.1. Số lượng cán bộ KH-CN (88)
      • 3.1.2. Chất lượng nhân lực KH-CN (93)
      • 3.1.3. Cơ cấu nhân lực KH-CN (96)
    • 3.2. Tình hình thực hiện vai trò Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực (99)
      • 3.2.1. Tạo lập môi trường phát triển nguồn nhân lực KH-CN (99)
      • 3.2.2. Xây dựng và thực thi chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực KH-CN (101)
      • 3.2.3. Các chính sách hỗ trợ, phát triển nguồn nhân lực KH-CN (105)
      • 3.2.4. Kiểm tra, giám sát và xử lý vi phạm (112)
    • 3.3. Đánh giá vai trò nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN ở nước ta (113)
      • 3.3.1. Mức độ hoàn thiện của môi trường phát triển nguồn nhân lực KH-CN (0)
      • 3.3.2. Sự phù hợp của chiến lược, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực KH- (116)
      • 3.3.3. Đánh giá các chính sách phát triển và việc tổ chức thực hiện (118)
      • 3.3.4. Hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm (127)
      • 3.3.5. Kết quả phát triển của nguồn nhân lực KH-CN (129)
  • CHƯƠNG 4: NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC HIỆN ĐÚNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC (137)
    • 4.1. Bối cảnh mới ảnh hưởng đến vai trò nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (137)
      • 4.1.1. Bối cảnh quốc tế (137)
      • 4.1.2. Những nhân tố trong nước (139)
      • 4.1.3. Định hướng phát triển khoa học – công nghệ và nguồn nhân lực KH- (141)
    • 4.2. Những quan điểm cơ bản thực hiện đúng vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN (142)
      • 4.2.1. Phát triển nguồn nhân lực KH-CN phải kết hợp sức mạnh nhà nước với sức mạnh của thị trường (142)
      • 4.2.2. Tạo lập những điều kiện phát triển nguồn nhân lực KH-CN là nhiệm vụ căn bản, lâu dài (143)
      • 4.2.3. Khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò Nhà nước đối với nguồn nhân lực Kh-CN là yêu cầu cấp thiết trước mắt (143)
      • 4.2.4. Thực hiện vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH - (144)
    • 4.3. Những giải pháp thực hiện đúng vai trò Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ (145)
      • 4.3.1. Nhóm giải pháp định vị vai trò Nhà nước và vai trò của thị trường (145)
      • 4.3.2. Nhóm các giải pháp tạo lập nền tảng kinh tế - xã hội cho phát triển nguồn nhân lực KH-CN (0)
      • 4.3.3. Nhóm giải pháp khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện vai trò nhà nước đối với nguồn nhân lực KH-CN hiện nay (156)
  • KẾT LUẬN (168)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (0)
  • PHỤ LỤC (183)

Nội dung

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Những nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực

Từ cuối thế kỷ 18, A Dam Smith trong tác phẩm “Sự giàu có của dân tộc” (1776) đã nghiên cứu sâu sắc các khía cạnh kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản Ông nhấn mạnh rằng giáo dục và đào tạo con người là yếu tố quyết định trong việc gia tăng sự giàu có của quốc gia Do đó, “năng lực hữu ích và khả năng học hỏi của tất cả các thành viên trong xã hội” trở thành một phần quan trọng trong khái niệm này.

Nhóm tác giả Edward F Denison (1985) [144] với công trình “Trends in

American Economic Growth, 1929 - 1982” (Xu hướng tăng trưởng kinh tế Mỹ,

Theo quan điểm của các nhà kinh tế học như (1929 - 1982), "vốn con người" được xem là yếu tố quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế Thống kê cho thấy, lao động đóng góp tới 47% vào tăng trưởng, trong đó tăng cường trình độ giáo dục của nguồn nhân lực chiếm 13% Những bằng chứng đáng tin cậy đã chỉ ra rằng sự tăng trưởng của nền kinh tế Mỹ trong hơn 50 năm qua chủ yếu phụ thuộc vào nguồn nhân lực Do đó, các quốc gia cần xây dựng chính sách phù hợp để phát triển nguồn nhân lực.

Tác giả Kaufman Daniel (1998)[148] với “A mode of Human Capital

Bài viết "Phát triển sản xuất từ nguồn nhân lực và bằng chứng từ các nước kém phát triển" đã giới thiệu khái niệm về nguồn nhân lực và sự phát triển của nó Theo nghiên cứu này, phát triển nguồn nhân lực là một phần quan trọng trong quá trình phát triển con người Do đó, Nhà nước cần thiết lập các cơ chế và chính sách toàn diện nhằm thúc đẩy sự phát triển con người một cách đồng bộ và hiệu quả.

Nhóm tác giả Kristine Sydhagen và Peter Cunningham (2007) cùng với Abdullsh Haslinda (2009) đã làm rõ khái niệm, mục đích và chức năng của phát triển nguồn nhân lực trong các bối cảnh quốc gia và quốc tế N M Habib (2012) trong nghiên cứu về vai trò của chính phủ các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là Ai Cập, đã chỉ ra rằng nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng kinh tế và nâng cao mức sống Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải phát triển lực lượng khoa học công nghệ và vai trò không thể thiếu của Nhà nước trong quá trình này Habib khuyến nghị chính phủ Ai Cập và các nước đang phát triển cần đầu tư vào đào tạo nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu về tính linh hoạt và chuyên nghiệp trong xã hội hiện đại Sự hiểu biết về yêu cầu và hạn chế của từng quốc gia là yếu tố quyết định cho thành công của các chương trình phát triển nguồn nhân lực, cùng với sự quản lý hiệu quả của Nhà nước và sự phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức trong bộ máy nhà nước.

Junko Imanishi trong bài viết “Công dân toàn cầu” đã đề cập đến tầm quan trọng của việc nghiên cứu văn hóa, con người và nguồn nhân lực trong bối cảnh thế kỷ XXI Bài viết được trình bày trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế tại Hà Nội, nhấn mạnh vai trò của công dân toàn cầu trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và hòa nhập văn hóa Imanishi khuyến khích việc xây dựng nhận thức toàn cầu và trách nhiệm xã hội, nhằm đáp ứng những thách thức hiện đại.

Toàn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ đến số lượng và chất lượng nguồn nhân lực, như đã được nhấn mạnh trong nghiên cứu năm 2003 Các quốc gia cần xây dựng chính sách nguồn nhân lực với sự chú ý đặc biệt đến đặc điểm này, nhằm đào tạo nguồn nhân lực có khả năng thích nghi với sự thay đổi và cạnh tranh trong môi trường đa văn hóa Bài tham luận "Tăng cường phát triển nguồn nhân lực thông qua kinh nghiệm cộng tác học tập ở bậc giáo dục đại học" cũng đề cập đến tầm quan trọng của việc phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh hiện đại.

Leona Little Soldier nhấn mạnh rằng giáo dục đại học là yếu tố quyết định cho chất lượng nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu hội nhập toàn cầu Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu đáng chú ý về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.

Trần Văn Tùng và Lê Ái Lâm (1996) trong cuốn sách của họ đã trình bày vai trò quan trọng của nguồn nhân lực trong nền kinh tế thị trường, đồng thời chia sẻ kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực từ một số quốc gia trên thế giới Những kinh nghiệm này sẽ là tài liệu quý giá cho Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng các chính sách phát triển nguồn nhân lực, nhằm tạo động lực thúc đẩy kinh tế.

Nguyễn Hữu Dũng (2003) đã phân tích thực trạng phát triển và phân bố nguồn lực con người ở Việt Nam dựa trên các tiêu chí nhất định Ông đánh giá hiệu quả khai thác nguồn lực con người qua các chỉ tiêu như số người làm việc trong nền kinh tế, hệ số co giãn việc làm, mức tiền công bình quân theo trình độ chuyên môn, tỷ lệ thất nghiệp thành thị, và mối quan hệ giữa tiền lương với doanh thu và lợi nhuận Tác giả đề xuất các giải pháp hợp lý để phân bố và sử dụng nguồn lực con người, đồng thời nhấn mạnh các chính sách Nhà nước cần xây dựng để định hướng sử dụng hiệu quả nguồn lực này đến năm 2010 Tuy nhiên, các chính sách hiện tại chưa được điều chỉnh theo đặc trưng của từng ngành.

Lê Du Phong (2006) đã làm rõ khái niệm về các nguồn lực và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, nhấn mạnh vai trò và vị trí của chúng đối với sự phát triển Tác giả cũng đề cập đến các yêu cầu cần thiết trong việc huy động, phân bố và sử dụng nguồn lực, đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Bài viết phân tích thực trạng nguồn lực hiện nay, cùng với việc xem xét kỹ lưỡng thực trạng phân bổ và sử dụng các nguồn lực phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ đổi mới Tác giả nêu bật những ưu điểm và hạn chế của Việt Nam trong việc huy động và sử dụng nguồn lực, đồng thời đề xuất cơ chế và chính sách cho mô hình kinh tế mới Dựa trên dự báo xu hướng phát triển kinh tế thế giới và Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020, tác giả đưa ra nhiều giải pháp mạnh mẽ, khoa học nhằm huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực, đồng thời tạo ra động lực mạnh mẽ hơn để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.

Phạm Thành Nghị và Vũ Hoàng Ngân (2004) đã nghiên cứu quản lý nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường ở Việt Nam, phân tích các yếu tố như toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế và khoa học - công nghệ Họ đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực và các chính sách của Nhà nước, cũng như tình hình quản lý nguồn nhân lực trong các loại hình tổ chức khác nhau Từ đó, tác giả đề xuất các mô hình và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nguồn nhân lực, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa Mặc dù chưa đi sâu vào nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, nghiên cứu này vẫn có thể làm nền tảng để tìm kiếm giải pháp phát triển cho lĩnh vực này tại Việt Nam.

Nguyễn Duy Dũng (2008) đã làm rõ các lý luận về phát triển nguồn nhân lực doanh nghiệp, trình bày các mô hình quản lý như quản lý Taylo và quản lý linh hoạt, cùng với kinh nghiệm đào tạo và quản lý nguồn nhân lực tại Nhật Bản và Hàn Quốc Tác giả đưa ra gợi ý cho Việt Nam về cải cách hệ thống giáo dục, nâng cao kỹ năng và thể lực cho người lao động, phát huy tiềm năng và năng lực của đội ngũ lao động chất xám, đồng thời khuyến khích các mô hình quản lý nguồn nhân lực hiệu quả Mặc dù chưa nghiên cứu sâu về nguồn nhân lực KH - CN và vai trò của Nhà nước trong phát triển lĩnh vực này, tác giả vẫn cung cấp cơ sở cho các giải pháp chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực KH - CN ở Việt Nam.

Cuốn sách của Vũ Văn Phúc và Nguyễn Duy Hùng (2012) nghiên cứu lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực, phân tích kinh nghiệm từ các ngành trong nước và quốc tế Tác giả đề xuất giải pháp cho phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trong doanh nghiệp nhà nước, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của đào tạo theo nhu cầu doanh nghiệp và phát triển nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa quan hệ lao động Tài liệu này là nguồn tham khảo quý giá cho lý luận và thực tiễn phát triển nguồn nhân lực, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Những nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực KH-CN và phát triển nguồn nhân lực KH-CN trong KTTT

Các công trình và báo cáo tiêu biểu mà tác giả luận án đã nghiên cứu phản ánh bức tranh tổng quát về nguồn nhân lực và vai trò quan trọng của nó trong phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra là nguồn nhân lực sẽ ra sao nếu thiếu lực lượng khoa học - công nghệ, mặc dù lực lượng này có thể nhỏ bé nhưng lại là "chất xám" của xã hội và trung tâm sáng tạo Edgar Morin (2008) đã nghiên cứu cách thức để đạt được sự sáng tạo, nhấn mạnh vai trò trung tâm của giáo dục trong xã hội hiện đại Ông đề xuất bảy tri thức cần thiết để xây dựng nền tảng giáo dục tương lai, bao gồm: (1) Sự đui mù của nhận thức: Sai lầm và ảo tưởng; (2) Những nguyên tắc nhận thức đúng đắn; (3) Về hoàn cảnh con người; (4) Căn cước địa cầu; (5) Đương đầu với những bất xác định.

Bảy tri thức bao gồm sự thông cảm và đạo lý của nhân loại, cho phép kết nối tất cả các lĩnh vực hiện có Chúng thúc đẩy sự phát triển tri thức, giúp con người đáp ứng hiệu quả các thách thức trong cuộc sống cá nhân, văn hóa và xã hội trong tương lai.

Alvin Toffler và Heidi Toffler (1996)[1], Tạo dựng một nền văn minh mới

Chính trị của làn sóng thứ ba, theo tác giả, phản ánh sự phát triển của xã hội loài người qua các "làn sóng" văn minh: làn sóng nông nghiệp, làn sóng công nghiệp và làn sóng hậu văn minh công nghiệp Alvin Toffler nhấn mạnh rằng tri thức, bao gồm dữ liệu, thông tin, văn hóa và giá trị mới, đã trở thành nguồn lực trung tâm của nền kinh tế làn sóng thứ ba, không giống như các nguồn lực hữu hạn khác Giá trị của các công ty trong làn sóng thứ ba được đo lường qua khả năng thu thập, sáng tạo và ứng dụng tri thức, thay vì chỉ dựa vào tài sản hữu hình Trong bối cảnh này, lao động cũng phải thay đổi, yêu cầu một lực lượng lao động được đào tạo bài bản, ham thích suy nghĩ và dám chấp nhận rủi ro Theo Toffler, nhân lực trong làn sóng thứ ba chính là người lao động trí tuệ (Intellectual Worker).

Trong báo cáo “Chính sách cơ bản về khoa học - công nghệ Nhật Bản năm 2010”, các tác giả đã phân tích kết quả và vấn đề tồn đọng của kế hoạch khoa học công nghệ lần thứ ba, đồng thời đề xuất các phương hướng cho kế hoạch lần thứ tư Báo cáo nhấn mạnh vai trò quan trọng của chính phủ Nhật Bản trong việc đầu tư phát triển nguồn lực lao động để đạt được sự phát triển bền vững Trước tình trạng dân số già hóa và giảm tỷ lệ lao động trong lĩnh vực khoa học công nghệ, chính phủ cần xây dựng chiến lược phát triển “tài sản trí tuệ”, khuyến khích niềm đam mê nghiên cứu ở học sinh, thu hút nhân tài và nâng cao cơ sở vật chất Đặc biệt, chính phủ có chính sách hỗ trợ nghiên cứu cho nữ giới và yêu cầu các trường đại học thiết lập hệ thống đánh giá chất lượng công bằng Để đạt được các mục tiêu này, cần sự hợp tác chặt chẽ giữa chính phủ, các trường đại học, trung tâm nghiên cứu và ngành công nghiệp.

In his 2004 report presented at the seminar titled "Increasing Human Resources for Science and Technology in Europe" held in Brussels, José Mariano Gago emphasized the need for growth in human resources dedicated to science and technology across Europe.

Theo báo cáo của Hội đồng Châu Âu, chủ tịch về nguồn nhân lực khoa học và kỹ thuật, nghiên cứu cho thấy rằng việc tăng cường nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học công nghệ ở các nước thành viên cộng đồng chung Châu Âu đang gặp nhiều thách thức Các số liệu chỉ ra rằng mức quỹ hỗ trợ cho nguồn nhân lực khoa học và kỹ thuật tại Châu Âu còn thấp hơn nhiều so với mức hỗ trợ ở các khu vực khác.

Cộng đồng châu Âu cần xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học công nghệ, để nâng cao sức cạnh tranh và hướng tới thịnh vượng tương lai Chính phủ và các tổ chức phải đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra việc làm phù hợp nhằm thu hút nhân lực vào các khu vực công Đào tạo nghiên cứu hiện nay chủ yếu tập trung vào các chương trình tiến sĩ và sau tiến sĩ, do đó cần mở rộng mô hình đào tạo này cho sinh viên để tăng cường nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ Ngoài ra, nữ giới là một nguồn lực quan trọng nhưng chưa được khai thác đúng mức Để cải thiện tình trạng thiếu hụt nhân lực nghiên cứu ở châu Âu, cần có sự hỗ trợ từ các chính sách khoa học, xã hội và kinh tế.

Nghiên cứu toàn cầu cho thấy, hầu hết các quốc gia đã nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) Nguồn nhân lực KH - CN đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy phát triển khoa học - công nghệ và kinh tế quốc gia, do đó cần được Nhà nước hỗ trợ và phát triển thông qua các chính sách phù hợp Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu vẫn chưa đi sâu vào phân tích cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc tăng cường mối liên hệ giữa “sự giàu có của quốc gia” và sự phát triển của KH - CN.

CN và mối quan hệ của những yếu tố này với những người làm công tác KH -

Các công trình nghiên cứu hiện nay chưa đề cập trực tiếp đến vai trò của Nhà nước trong việc phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ Do đó, cần thiết phải xác định những yêu cầu và biện pháp mà Nhà nước cần thực hiện để xây dựng các cơ chế, chính sách tổng thể nhằm thúc đẩy sự phát triển của nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.

Tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu độc lập nào về vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu đã đề cập đến vấn đề này với các mức độ khác nhau.

Phạm Tất Dong (1999) đã phân tích những yêu cầu cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đối với phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam, nêu ra các định hướng chính sách lớn trong đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ trí thức Mục tiêu là nhằm phát huy vai trò đóng góp của trí thức trong công cuộc CNH, HĐH đất nước Các chính sách mà tác giả đề xuất cũng hướng tới việc phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ tại Việt Nam Tuy nhiên, các chính sách này vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu phát triển nguồn nhân lực khoa học.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, với sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, việc nghiên cứu và phát triển CN (công nghệ) là điều cần thiết và cấp bách.

Trần Văn Tùng (2005) đã chia sẻ kinh nghiệm về phát hiện, đào tạo và sử dụng tài năng trong lĩnh vực khoa học - công nghệ từ Mỹ và một số quốc gia châu Âu như Đức, Pháp, Anh, cũng như các nước châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc Tác giả nhấn mạnh rằng Nhà nước Việt Nam cần cải cách chính sách đào tạo và sử dụng nguồn tài năng hiện có Nghiên cứu của ông có ý nghĩa thực tiễn quan trọng cho Việt Nam trong việc phát hiện và phát triển tài năng khoa học - công nghệ, phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình đổi mới đất nước.

Lê Kim Việt (2006) đã chỉ ra những bất cập trong việc thực hiện chính sách đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực khoa học - công nghệ tại Việt Nam, đồng thời phân tích nguyên nhân của những vấn đề này Tác giả đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm phát triển nguồn nhân lực KH - CN, nhấn mạnh vai trò của việc hoàn thiện cơ chế và chính sách của Nhà nước trong quá trình này.

Ngô Thị Phượng (2007) đã phân tích khái niệm trí thức KHXH&NV và vai trò của họ trong sự phát triển xã hội, đồng thời chỉ ra các đặc điểm và xu hướng phát triển của đội ngũ trí thức này tại Việt Nam Bài viết cũng xác định những thách thức mà đội ngũ trí thức KHXH&NV đang đối mặt trong bối cảnh đổi mới đất nước, đánh giá thành tựu và hạn chế, cùng với nguyên nhân và mâu thuẫn trong việc thực hiện vai trò của họ Tác giả đề xuất các quan điểm và giải pháp mà Nhà nước cần thực hiện để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức KHXH&NV, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.

Những nghiên cứu liên quan đến vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH-CN

Lê Đăng Doanh (chủ biên - 2003) đã đánh giá thực trạng cơ chế quản lý hoạt động khoa học - công nghệ tại Việt Nam, bao gồm kế hoạch hoá, phân công và phân cấp quản lý nhà nước, cũng như quản lý các tổ chức khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực trong lĩnh vực này Tác giả chỉ ra nguyên nhân của những vấn đề hiện tại và đề xuất một số kiến nghị nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong giai đoạn tới Những lý luận và giải pháp mà tác giả đưa ra là tài liệu quý giá, góp phần định hướng phân tích cho luận án trong việc thực hiện đề tài này.

Nguyễn Thị Anh Thu (2000) nghiên cứu nguồn nhân lực khoa học - công nghệ tại các cơ quan nghiên cứu và phát triển, đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc đổi mới chính sách sử dụng nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.

- CN trong cơ quan nghiên cứu và phát triển; hiện trạng sử dụng nguồn nhân lực

Nghiên cứu về nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) trong các cơ quan nghiên cứu và phát triển đã phân tích các luận cứ và đề xuất chính sách liên quan đến việc sử dụng nguồn nhân lực này Mặc dù phạm vi nghiên cứu không mở rộng sang các khâu đào tạo, bồi dưỡng và quản lý, tài liệu này vẫn có giá trị tham khảo lớn cho các chính sách của Nhà nước Tác giả Phạm Văn Quý (2005) trong luận án tiến sĩ kinh tế đã trình bày các giải pháp phát triển nguồn nhân lực KH - CN phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bao gồm lý luận và thực tiễn, thực trạng hiện tại và các đề xuất giải pháp cho giai đoạn 2004 - 2010, hướng tới tầm nhìn 2020 Những nội dung này được trình bày chi tiết trong ba chương của luận án.

Luận án tập trung vào một số vấn đề liên quan đến nhân lực KH - CN, đặc biệt ở chương 1 và chương 3 Mặc dù khái niệm nhân lực KH - CN được đề cập, nhưng luận án chưa phân tích các yếu tố cấu thành và vai trò phát triển của nó cũng như các nhân tố tác động đến sự phát triển này Chương 2 đã đánh giá thực trạng nhân lực KH - CN tại Việt Nam, nhưng sự đánh giá này chưa được thực hiện một cách thỏa đáng Chương 3 đề xuất phương hướng và giải pháp phát triển nguồn nhân lực KH - CN, tuy nhiên, với chủ đề "vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH - CN", các giải pháp cần tập trung vào việc tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước hơn là chỉ dừng lại ở phát triển nguồn nhân lực.

Hoàng Xuân Long (2006, 2008) chỉ ra rằng trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến việc đổi mới quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học, đặc biệt là trong việc cải cách quản lý đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ Tuy nhiên, do đặc thù của hoạt động nghiên cứu khoa học trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phương thức quản lý của Nhà nước đối với đội ngũ cán bộ khoa học vẫn cần được xem xét và điều chỉnh.

Bài viết chỉ ra rằng hệ thống quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH-CN) hiện nay còn nhiều bất cập, gây rối loạn trong hoạt động nghiên cứu Tác giả đề xuất cần đổi mới cơ chế quản lý nhân lực KH-CN theo hướng “cơ chế mềm”, giúp các nhà khoa học có không gian sáng tạo tự do hơn, thay vì bị ràng buộc bởi các quy định hành chính hiện tại Ngoài ra, tác giả cũng đưa ra một số chính sách cần thiết để phát triển nguồn nhân lực KH-CN trong thời kỳ mới.

Báo cáo “Khoa học, công nghệ và đổi mới cho phát triển bền vững trong hợp tác toàn cầu sau năm 2015” nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển năng lực lao động, đặc biệt ở các nước đang phát triển Nó kêu gọi tích hợp đổi mới khoa học - công nghệ vào các mục tiêu chính sách công cộng, với sự chú trọng vào mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ, văn hóa, giáo dục và phát triển Để đạt được điều này, sự tham gia của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế là cần thiết, cùng với sự ổn định chính trị, tổ chức hoạt động hiệu quả, lực lượng lao động được đào tạo, cơ sở hạ tầng giáo dục, và sự hợp tác giữa các đối tác công và tư Nghiên cứu cho thấy rằng khoa học - công nghệ không chỉ cung cấp hàng hóa công cộng mà còn thúc đẩy tăng trưởng và nâng cao khả năng cạnh tranh của quốc gia, do đó, các quốc gia cần xây dựng chính sách đồng bộ để phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.

Cuốn sách của Thẩm Vĩnh Hoa và Ngô Quốc Diện (2008) phân tích tư tưởng Đặng Tiểu Bình về trí thức và nhân tài, nhấn mạnh vai trò quan trọng của nhân tài trong phát triển quốc gia Tác phẩm trình bày các vấn đề cơ bản như xây dựng đội ngũ cán bộ, chiến lược bồi dưỡng và giáo dục nhân tài, cũng như quy trình tuyển chọn và sử dụng nhân tài Ngoài ra, cuốn sách còn đề cập đến việc tạo môi trường thuận lợi cho nhân tài phát triển và cải cách chế độ nhân sự, từ đó làm cơ sở cho Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.

Cuốn Tuyển 40 năm chính luận của Lý Quang Diệu (1994) đã nêu bật tư tưởng của ông về việc trọng dụng nhân tài và tầm quan trọng của giáo dục trong phát triển nguồn nhân lực Ông nhấn mạnh rằng chế độ Singapore thực hành là chế độ trọng dụng nhân tài, và việc đào tạo, sử dụng người tài chính là bí quyết thành công của Singapore trong phát triển nhân lực bậc cao.

Vũ Văn Hà, Phan Tùng Mậu (2009) và Nguyễn Thành Lợi (2010) nhấn mạnh tầm quan trọng của các chính sách của Nhà nước trong việc khuyến khích phát huy nguồn lực trí tuệ, tạo sự đồng thuận xã hội vì mục tiêu chung Chính sách cần hiệu quả để xây dựng nguồn lực trí tuệ, cải thiện sức khỏe và tầm vóc người Việt, đồng thời chú trọng đến giáo dục và đào tạo Nguyễn Thành Lợi đặc biệt nhấn mạnh vai trò của giáo dục trong việc phát triển nhân tài, cho thấy rằng quốc gia nào đi đầu trong khoa học và giáo dục sẽ dẫn đầu trong phát triển kinh tế Trong bối cảnh kinh tế tri thức, cuộc cạnh tranh về nguồn lực nhân tài giữa các quốc gia ngày càng gay gắt, do đó Chính phủ cần thiết lập cơ chế và chính sách khuyến khích nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Văn Tất Thu (2011) đã nhấn mạnh rằng nhân tài là bộ phận tinh túy nhất trong nguồn nhân lực chất lượng cao, đồng thời đưa ra khái niệm, đặc điểm, vị trí và vai trò của nhân tài Ông cũng đề cập đến những vấn đề cơ bản trong việc phát hiện, sử dụng và tôn vinh nhân tài, cùng với những kinh nghiệm lịch sử trong việc đào tạo và bồi dưỡng nhân tài Trong khi đó, Đỗ Phú Hải (2014) cũng tập trung vào các chính sách phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng những chính sách hiệu quả để phát triển đội ngũ nhân lực này.

Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với nhiều bất cập trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH - CN), đặc biệt là sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ KH - CN chất lượng cao Điều này trở thành rào cản cho việc đạt được các mục tiêu tăng trưởng kinh tế bền vững Bài viết này phân tích các nội dung chính của chính sách phát triển nguồn nhân lực KH - CN, bao gồm cấu trúc, mục tiêu, giải pháp và công cụ chính sách, cũng như vai trò của các bên tham gia Đặc biệt, Nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh và thúc đẩy các chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực KH - CN.

KH - CN cho phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế.

Đánh giá chung

1.4.1 Những giá trị của các công trình luận án cần tham khảo

Các nghiên cứu đã đóng góp quan trọng cho khoa học, làm rõ nhiều khía cạnh về nguồn lực con người, nhân tài và đội ngũ trí thức Chúng phân tích vai trò quyết định của nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, trong quá trình đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.

Các tác giả đã phân tích các chính sách của Nhà nước liên quan đến phát triển nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) nói riêng, nêu rõ những mặt tích cực và hạn chế trong quản lý và phát triển nguồn lực con người Họ cũng chỉ ra nguyên nhân cơ bản của những hạn chế này Một số nhà khoa học đã đề xuất các phương hướng và giải pháp chính sách nhằm cải thiện tình hình phát triển nguồn nhân lực KH - CN Đặc biệt, một số tác giả đã làm rõ vai trò của Nhà nước trong việc thực thi các chính sách và cơ chế quản lý nguồn nhân lực KH - CN, đồng thời đưa ra dự báo về nhu cầu và xu hướng phát triển nguồn lực này trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Những nghiên cứu về nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học - công nghệ, cùng với vai trò của Nhà nước trong việc hoạch định chính sách phát triển nguồn nhân lực, đã đóng góp quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế Các tác giả đã cung cấp nhiều tài liệu quý giá cho luận án, giúp tác giả tiếp cận và nghiên cứu sâu hơn về đề tài này.

1.4.2 Những vấn đề các công trình nghiên cứu chưa hoặc ít đề cập

Mặc dù các công trình nghiên cứu đã mang lại nhiều giá trị khoa học to lớn, vẫn còn tồn tại một số vấn đề chưa được đề cập hoặc chỉ được nhắc đến ít.

Các nghiên cứu về nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (KH - CN) đã tiếp cận từ nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm nguồn lực con người và tiêu chí đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Mặc dù các công trình này chủ yếu tập trung vào các khía cạnh như trí thức và nguồn lực trí tuệ, vẫn còn nhiều góc độ khác cần được khai thác để hiểu rõ hơn về nguồn nhân lực KH - CN.

CN song chưa thành hệ thống Vấn đề này cần được tiếp tục nghiên cứu sâu hơn

Nhà nước đang rất quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế Nghị quyết Trung ương 6 khóa XI đã nhấn mạnh vai trò của khoa học - công nghệ trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Luật Khoa học và Công nghệ 2013 đã thay thế Luật năm 2000, với chính sách nổi bật về đãi ngộ cán bộ khoa học - công nghệ Tác giả luận án cho rằng cần có các chiến lược, mục tiêu cụ thể và cơ chế quản lý rõ ràng hơn để phát triển nguồn nhân lực này, cho thấy vấn đề này cần được làm rõ hơn trong thời gian tới.

Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học - công nghệ Tuy nhiên, các tác giả thường chỉ tập trung vào một khía cạnh hẹp, chủ yếu phân tích vai trò của Nhà nước thông qua các chính sách cụ thể như chính sách đào tạo và quản lý, sử dụng nguồn nhân lực.

Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về khoa học và công nghệ (KH - CN), nhưng vẫn chưa có công trình nào đi sâu vào việc đánh giá vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH - CN Do đó, vấn đề này vẫn còn bỏ ngỏ và cần được tiếp tục nghiên cứu.

Bốn là, nhiều công trình khoa học đã đề xuất, đưa ra được nhiều giải pháp để

Nhà nước cần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH - CN) Theo tác giả, các giải pháp phải được xây dựng thành hệ thống để áp dụng hiệu quả, nhằm khắc phục tình trạng khan hiếm nguồn nhân lực KH - CN ở nhiều ngành nghề Hiện nay, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng "nhập khẩu" nguồn nhân lực KH - CN và "xuất khẩu" nguồn nhân lực trình độ thấp, dẫn đến lãng phí ngân sách nhà nước do phải trả lương cao cho lao động nước ngoài Trong khi đó, tiềm năng của nguồn nhân lực trong nước trong giai đoạn "dân số vàng" chưa được phát huy đúng mức.

1.4.3 Một số vấn đề cơ bản luận án cần tiếp tục nghiên cứu làm sáng tỏ

Chưa có nghiên cứu chuyên sâu nào làm rõ vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN), đặc biệt là tại Việt Nam Các khía cạnh liên quan đến nội dung, tiêu chí đánh giá và các yếu tố ảnh hưởng của vai trò này vẫn chưa được đề cập đầy đủ.

- Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu phát triển nguồn nhân lực KH

Trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, luận án tập trung phân tích vai trò quan trọng của thị trường và nhà nước đối với nguồn nhân lực khoa học Sự tương tác giữa hai yếu tố này ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển và quản lý nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học, từ đó thúc đẩy sự đổi mới và phát triển kinh tế Việc hiểu rõ vai trò của nhà nước và thị trường sẽ giúp tối ưu hóa chính sách phát triển nguồn nhân lực, đảm bảo sự hài hòa và hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động.

Luận án này tiếp cận nghiên cứu từ ba lĩnh vực chính: khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng và triển khai công nghệ, mang đến một phương pháp mới mẻ và sáng tạo trong việc phát triển kiến thức và ứng dụng thực tiễn.

VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ…………………………………………… 32 2.1 Phát triển nguồn nhân lực KH&CN trong cơ chế thị trường

Đặc điểm, vai trò của nguồn nhân lực khoa học – công nghệ

2.1.1.1 Một số khái niệm cơ bản

Con người đóng vai trò vừa là mục tiêu vừa là động lực quan trọng nhất trong sự phát triển kinh tế - xã hội Do đó, phát triển nguồn nhân lực là ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia Tuy nhiên, vẫn còn những khác biệt trong nhận thức về nguồn nhân lực (Human Resources).

Nguồn nhân lực (NNL) là tổng thể tiềm năng lao động của con người trong một quốc gia hoặc địa phương, có khả năng tham gia vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội NNL được coi là một phần quan trọng trong các nguồn lực của quốc gia, bao gồm vật chất, tài chính, văn hóa và khoa học - công nghệ Việc huy động tối ưu các nguồn lực này sẽ tạo động lực cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế và xã hội.

Giáo sư Phạm Minh Hạc định nghĩa nguồn nhân lực con người là tổng thể số lượng và chất lượng của dân cư, bao gồm các yếu tố thể chất, tinh thần, sức khỏe, trí tuệ, năng lực và phẩm chất.

Nguyễn Hữu Dũng định nghĩa nguồn lực con người là sự tổng hòa giữa năng lực xã hội, bao gồm thể lực, trí lực và nhân cách, cùng với tính năng động của con người Sự thống nhất này thể hiện qua quá trình chuyển đổi nguồn lực con người thành vốn con người.

Khái niệm nguồn nhân lực không chỉ bao gồm số lượng và chất lượng con người mà còn cần chú trọng đến cơ cấu nguồn nhân lực hợp lý để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Theo tác giả Đoàn Văn Khái, nguồn nhân lực phản ánh đặc điểm và sức mạnh của dân số, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội.

Nguồn nhân lực (NNL) là yếu tố then chốt cung cấp sức lao động cho xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra giá trị vật chất và tinh thần Việc xem xét NNL dưới dạng tiềm năng giúp định hướng phát triển, nâng cao năng lực xã hội thông qua giáo dục, đào tạo và chăm sóc sức khỏe Con người sở hữu tiềm năng vô tận, và khi được tự do phát triển, sáng tạo và cống hiến, cùng với việc được trả công xứng đáng, tiềm năng này sẽ được khai thác và trở thành nguồn vốn quý giá cho xã hội.

Nguồn nhân lực (NNL) được hiểu là nguồn lao động, bao gồm nam từ 15 đến 60 tuổi và nữ từ 15 đến 55 tuổi theo quy định của Bộ luật Lao động Việt Nam NNL không chỉ bao gồm những người đang làm việc mà còn cả những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng chưa tham gia thị trường lao động, như học sinh, người thất nghiệp, người nội trợ hoặc những người không có nhu cầu làm việc.

Nguồn nhân lực được hiểu là tổng thể lực lượng lao động trong xã hội, bao gồm thể lực, trí lực và kỹ năng nghề nghiệp, những yếu tố này đang và sẽ tham gia vào quá trình lao động nhằm tạo ra của cải vật chất và thúc đẩy sự phát triển xã hội.

Nguồn nhân lực (NNL) được xác định bởi ba yếu tố chính: số lượng, chất lượng và cơ cấu Về số lượng, NNL bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng làm việc, không phân biệt tình trạng việc làm Chất lượng NNL thể hiện qua năng lực thể chất, tinh thần, trình độ tri thức, kỹ năng nghề nghiệp và khả năng thực tế Cơ cấu nhân lực bao gồm các yếu tố như cơ cấu ngành nghề đào tạo, cơ cấu chất lượng, giới tính và độ tuổi.

 Nguồn nhân lực khoa học - công nghệ

Nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (HRST) được xây dựng dựa trên nền tảng nguồn nhân lực hiện có Nhân lực KH - CN đóng vai trò quan trọng, thể hiện trình độ và chất lượng của nguồn nhân lực quốc gia, đồng thời là lực lượng nòng cốt trong việc phát triển các lĩnh vực khoa học và công nghệ.

Hiện nay, khái niệm nguồn nhân lực KH - CN được tiếp cận qua nhiều phương diện khác nhau, trong đó hai cách tiếp cận phổ biến nhất là của OECD và UNESCO.

Theo cuốn "Cẩm nang về đo lường nguồn nhân lực KH - CN" của OECD, nguồn nhân lực KH - CN bao gồm những cá nhân đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chí đã được xác định.

1) Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng và làm việc trong một ngành KH - CN;

2) Đã tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng không làm việc trong một ngành KH - CN nào;

3) Chưa tốt nghiệp đại học và cao đẳng, nhưng làm một công việc trong một lĩnh vực KH - CN đòi hỏi trình độ tương đương

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) định nghĩa nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (KH - CN) là những cá nhân tham gia trực tiếp vào hoạt động và dịch vụ KH - CN trong các cơ quan, tổ chức Nhóm này bao gồm các nhà khoa học, kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực hỗ trợ, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và ứng dụng KH - CN.

Khái niệm nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) giữa OECD và UNESCO có sự khác biệt rõ rệt Theo UNESCO, nguồn nhân lực KH - CN không chỉ bao gồm đội ngũ chính mà còn cả lực lượng phụ trợ, trong khi OECD chỉ công nhận những cá nhân có bằng cấp trong lĩnh vực này là nguồn nhân lực KH - CN.

Theo OECD, nguồn nhân lực khoa học và công nghệ không nhất thiết phải làm việc trong lĩnh vực này, trong khi UNESCO khẳng định rằng nguồn nhân lực khoa học và công nghệ phải hoạt động trong lĩnh vực khoa học và công nghệ UNESCO đưa ra định nghĩa rõ ràng về nguồn nhân lực này.

Vai trò Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học – công nghệ

2.2.1 Tính tất yếu can thiệp của Nhà nước

Vai trò của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ trong kinh tế thị trường thể hiện qua việc can thiệp bằng các công cụ quản lý kinh tế - xã hội để tạo ra điều kiện cần thiết, định hướng và điều tiết các hoạt động xã hội Mặc dù có nhiều mô hình về vai trò của nhà nước trong nền kinh tế, mức độ và hình thức can thiệp khác nhau ở mỗi quốc gia, điều này cho thấy tầm quan trọng của nhà nước trong phát triển kinh tế - xã hội ở mọi quốc gia.

Tính tất yếu của vai trò nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ xuất phát từ những lý do sau:

Thứ nhất, sự can thiệp của nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực KH -

CN nhằm phát huy những ưu điểm và khắc phục nhược điểm của KTTT, đặc biệt trong việc phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ KTTT không đáp ứng đủ yêu cầu phát triển nhân lực, nhất là trong lĩnh vực khoa học cơ bản.

Định hướng phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) cần phù hợp với mục tiêu phát triển quốc gia Mỗi quốc gia có những điều kiện cụ thể khác nhau, do đó, mô hình và lộ trình phát triển KH - CN phải phản ánh những yêu cầu và thách thức của từng quốc gia Để đạt được điều này, sự can thiệp và hỗ trợ từ Nhà nước là điều cần thiết nhằm đảm bảo nguồn nhân lực KH - CN đáp ứng được các vấn đề do định hướng phát triển quốc gia đặt ra.

Các nước đi sau hiện đang chậm hơn đáng kể so với các nước phát triển về quy mô và trình độ đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ Do đó, việc hội nhập quốc tế về nhân lực khoa học - công nghệ trở thành một giải pháp quan trọng để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này.

Để nâng cao trình độ chuyên môn và chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ, cần có sự đầu tư và chiến lược cụ thể Nếu để quá trình này diễn ra tự phát, sẽ tốn nhiều thời gian và chưa chắc đạt được thành công Do đó, việc phát triển nguồn nhân lực KH - CN cần được thực hiện một cách bài bản và có kế hoạch rõ ràng để đạt được tiêu chuẩn khu vực và thế giới.

CN rút ngắn, tiếp cận trình độ KH - CN thế giới, nhà nước phải can thiệp

Trong thực tế, sự can thiệp của Nhà nước nhằm phát triển nguồn nhân lực

Nhà nước trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH - CN) có thể gặp phải nhiều hạn chế như quyền lực lớn dẫn đến quan liêu và sách nhiễu, cơ chế và chính sách thiếu khách quan, và bộ máy nhà nước không hiệu quả Bên cạnh đó, nguồn lực của Nhà nước không vô hạn, trong khi nhu cầu thực hiện các chức năng của nhà nước lại rất lớn Do đó, việc phát triển nguồn nhân lực KH - CN cần dựa vào sức mạnh của cơ chế kinh tế thị trường.

2.2.2 Nội dung thực hiện vai trò nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực

Thứ nhất, tạo lập môi trường phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ

Để phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN), cần thiết phải có một môi trường thuận lợi, bao gồm các yếu tố như môi trường kinh tế, hệ thống pháp luật, giáo dục, hạ tầng khoa học - công nghệ, cũng như các chính sách và cơ chế hỗ trợ cho KH - CN và nhân lực trong lĩnh vực này Môi trường làm việc cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực KH - CN.

Môi trường phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) không hình thành tự phát mà chủ yếu phụ thuộc vào sự kiến tạo của Nhà nước Vai trò của Nhà nước trong việc thiết lập và tạo dựng môi trường này là rất quan trọng, thể hiện qua việc cung cấp một khung pháp lý đầy đủ, đồng bộ, minh bạch và vững chắc Khung pháp lý không chỉ bao gồm hệ thống luật lệ và quy định mà còn các định chế cần thiết cho việc thực hiện, cưỡng chế thi hành pháp luật và giải quyết tranh chấp, như toà án và các cơ quan thực thi luật, nhằm phát triển nguồn nhân lực KH - CN.

Trong nền kinh tế đa dạng, Nhà nước xây dựng hành lang pháp lý nhằm khuyến khích các thành phần kinh tế hợp tác phát triển đội ngũ nhân lực khoa học - công nghệ (KH - CN) về cả số lượng và chất lượng Điều này tạo ra cơ chế nội sinh cho nhân lực KH - CN tự đổi mới và tiếp thu tiến bộ khoa học - công nghệ toàn cầu Đồng thời, Nhà nước cũng thiết lập hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho các tác nhân hoạt động KH - CN và người tiêu dùng sản phẩm KH - CN có môi trường thuận lợi để trao đổi, đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho cả bên mua và bên bán.

Hệ thống pháp luật đồng bộ tạo điều kiện thuận lợi cho quản lý Nhà nước hiệu quả hơn Khung pháp lý về phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ đang được chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện thông qua các bộ luật và văn bản dưới luật.

Luật bảo hộ sản phẩm trí tuệ tại CN cùng với các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đã thiết lập cơ chế và chính sách nhằm phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ Hệ thống văn bản này không chỉ tạo ra môi trường pháp lý thuận lợi mà còn thúc đẩy sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng nguồn nhân lực trong lĩnh vực khoa học - công nghệ.

Nhà nước đã chuyển đổi cơ chế đầu tư nguồn nhân lực từ độc quyền sang xã hội hóa, nhằm thu hút vốn đầu tư từ tư nhân và các tổ chức kinh tế xã hội trong và ngoài nước Hiện nay, Nhà nước ưu tiên đầu tư vào các lĩnh vực trọng điểm để nâng cao hiệu quả phát triển xã hội, đồng thời thay đổi tư duy về vai trò của mình trong phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực khoa học - công nghệ Tuy nhiên, Nhà nước vẫn cần cải thiện chức năng quản lý và tạo ra khung pháp lý cũng như môi trường chính sách thuận lợi để khuyến khích mọi thành phần kinh tế đóng góp vào sự phát triển nguồn nhân lực này.

Tuy nhiên, "xã hội hóa" không đồng nghĩa với việc Nhà nước chuyển giao trách nhiệm hiến định cho cá nhân, tổ chức hay doanh nghiệp, mà là tạo điều kiện cho toàn xã hội tham gia vào phát triển nguồn nhân lực khoa học - công nghệ Điều này nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội và phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.

Thứ hai, hoạch định chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực KH - CN

Khái niệm "chiến lược" được hiểu là việc xác định mục tiêu và cách giải quyết nhiệm vụ một cách toàn diện và lâu dài Chiến lược không chỉ là công cụ tác động đến bản chất và quá trình phát triển của đối tượng, mà còn phải tạo ra những thay đổi từ lượng đến chất trong hệ thống, bao gồm sự thay đổi về mục tiêu, cơ cấu và cơ chế hoạt động.

Chiến lược phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ (KH - CN) cần được xây dựng dựa trên cơ sở khoa học vững chắc, xác định rõ mục tiêu và giải pháp thực hiện Nó phải phù hợp với điều kiện của đất nước và đáp ứng nhu cầu nhân lực KH - CN về số lượng, chất lượng và cơ cấu Đặc biệt, cần chú trọng đến sự cân bằng giữa nhân lực khoa học cơ bản, nhân lực khoa học ứng dụng và nhân lực triển khai công nghệ để đạt được tầm nhìn phát triển bền vững trong 20 - 30 năm tới.

THỰC TRẠNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Ở VIỆT NAM

NHỮNG QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN THỰC HIỆN ĐÚNG VAI TRÒ NHÀ NƯỚC TRONG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC

Ngày đăng: 20/07/2021, 10:05

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w