Tính cấp thiết của đề tài
Để hệ thống chính trị hoạt động hiệu quả, đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất chính trị và trình độ chuyên môn cao là yếu tố quyết định Họ là những người trực tiếp triển khai đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước tới người dân, đồng thời tổ chức thực hiện các chủ trương đó Công chức, là công dân Việt Nam được tuyển dụng, giữ chức danh chuyên môn tại Ủy ban nhân dân và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, có trách nhiệm tham mưu cho việc quản lý nhà nước Do đó, chất lượng đội ngũ công chức ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thực thi pháp luật của chính quyền.
Chính quyền các cấp và đội ngũ công chức đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam từ năm 1945 đến nay Đảng và Nhà nước luôn chú trọng đến việc ban hành pháp luật điều chỉnh công chức, nhằm tạo hành lang pháp lý cho tuyển dụng, quản lý và sử dụng đội ngũ này Tuy nhiên, pháp luật hiện hành còn nhiều hạn chế, như quy định về tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, tiền lương và chế độ nghỉ hưu chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, dẫn đến chất lượng công chức và hiệu quả hoạt động chưa cao Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, việc cải cách hành chính quốc gia cần đổi mới pháp luật về công chức Do đó, nghiên cứu đề tài “Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức - từ thực tiễn huyện Thanh Oai, Hà Nội” không chỉ có ý nghĩa lý luận mà còn mang tính thực tiễn cấp thiết để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức cơ sở.
Tình hình nghiên cứu đề tài
Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức là một vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm Tuy nhiên, việc nghiên cứu trực tiếp về tổ chức thực hiện pháp luật này tại huyện Thanh Oai vẫn còn là một khoảng trống trong lĩnh vực nghiên cứu Một số công trình nghiên cứu liên quan đến nội dung đề tài cũng đã được thực hiện.
Sách chuyên khảo "Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" do PGS.TS Nguyễn Phú Trọng và PGS.TS Trần Xuân Sầm đồng chủ biên, nghiên cứu các vấn đề lý luận và phương pháp luận nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa Tác phẩm cũng phân tích thực trạng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ hiện nay, đồng thời đưa ra quan điểm và phương hướng cụ thể để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn phát triển này.
Đề tài khoa học cấp nhà nước KX.04.09 (2002-2004) do Bộ Nội vụ chủ trì tập trung vào việc "Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa" Nghiên cứu đã phân tích tính tất yếu của việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu này, đồng thời đánh giá thực trạng đội ngũ và thể chế quản lý hiện tại Bài viết cũng đưa ra phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm phát triển đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2001 tập trung nghiên cứu về việc "Đổi mới chính sách đối với cán bộ chính quyền cơ sở" nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cải cách chính sách để nâng cao hiệu quả hoạt động của cán bộ tại các cơ sở chính quyền, từ đó góp phần vào sự phát triển bền vững của hệ thống hành chính.
Bộ Nội vụ đã thực hiện dự án năm 2004 nhằm "Điều tra thực trạng và đề xuất phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng cán bộ Hội đồng nhân dân các cấp và cán bộ chuyên trách cơ sở" Dự án này đã đánh giá chất lượng cán bộ HĐND và công chức cơ sở, chỉ ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng công tác và từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của họ.
Hệ thống chính trị cơ sở ở nông thôn Việt Nam hiện nay đang được nghiên cứu sâu sắc từ nhiều góc độ lý luận và thực tiễn, với các tác phẩm tiêu biểu như của GS.TS Hoàng Chí Bảo, người đã đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, đồng thời đưa ra giải pháp cải cách đội ngũ cán bộ Các bài viết của Lê Tư Duyến, TS Vũ Đức Đán, TS Nguyễn Hữu Đức, ThS Vũ Hữu Kháng và TS Lê Chi Mai cũng góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng cán bộ chính quyền cơ sở, từ việc bầu trực tiếp Chủ tịch Ủy ban nhân dân đến đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân và xây dựng chế độ chính sách phù hợp.
Bài viết "Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh cán bộ, công chức cấp xã" đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 10, 2003, nêu rõ tầm quan trọng của việc xác định tiêu chuẩn cho cán bộ cấp xã Đồng thời, TS Thang Văn Phúc trong bài viết "Những định hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nhà nước theo yêu cầu cải cách hành chính tổng thể (2001-2010)" đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 9, 2003, đã chỉ ra những định hướng cần thiết để nâng cao chất lượng đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính trong giai đoạn này.
Sách chuyên khảo "Công vụ, công chức nhà nước" của GS.TS Phạm Hồng Thái cung cấp quan niệm sâu sắc về pháp luật công vụ và công chức, đồng thời phân tích và đánh giá nội dung của pháp luật công vụ, công chức hiện hành tại Việt Nam.
Luận án của Nguyễn Văn Tâm (1997) về "Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về công chức ở nước ta" đã phân tích lý luận và thực trạng pháp luật liên quan đến công chức nhà nước Tác giả nhấn mạnh sự cần thiết phải cải cách và hoàn thiện hệ thống pháp luật này, đồng thời đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm tiếp tục đổi mới và nâng cao hiệu quả pháp luật về công chức tại Việt Nam.
Mạc Minh Sản (2003) trong luận văn thạc sĩ Luật học của mình đã nghiên cứu về việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến cán bộ chính quyền cấp cơ sở, nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam hiện nay Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về những thách thức và cơ hội trong việc cải cách pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước ở cấp địa phương.
- Lê Thị Lý (2003), Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức xã trước yêu cầu đổi mới, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia, Hà Nội
- TS Nguyễn Minh Phương (2003), “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 7)
Nguyễn Hữu Đức (2003) trong bài viết “Từ đặc điểm, tính chất đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở để xây dựng chế độ, chính sách phù hợp” đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước, số 8, đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu rõ đặc điểm và tính chất của đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở để phát triển các chế độ và chính sách phù hợp Điều này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả công việc mà còn đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn và nhu cầu của xã hội.
- Nguyễn Hữu Lộc (2003), “Tăng cường cán bộ cơ sở”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 8)
- Hữu Phan (2003), “Xây dựng tiêu chuẩn cụ thể đối với các chức danh cán bộ, công chức cấp xã”, Tạp chí Tổ chức nhà nước, (số 10)
Dương Hương Sơn (2004) đã nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã tại tỉnh Quảng Trị trong luận văn thạc sĩ Luật học của mình, được thực hiện tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội Nghiên cứu này tập trung vào các giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, từ đó góp phần nâng cao chất lượng quản lý nhà nước tại địa phương.
Trần Tấn Tài (2004) đã thực hiện nghiên cứu về tình hình đào tạo nguồn cán bộ quản lý hành chính nhà nước cấp xã tại thành phố Cần Thơ, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm cải thiện chất lượng đào tạo Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả được thực hiện tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng và những thách thức trong việc phát triển nguồn nhân lực cho quản lý hành chính cấp xã.
- Hiền Lương (2004),“Chính sách của Đảng và Chính phủ nhằm nâng cao chất lượng cán bộ xã vùng cao”, Tạp chí Lý luận chính trị, (số 5)
Lê Đình Vĩ (2005) đã thực hiện nghiên cứu về việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chính quyền cấp xã tại các khu vực miền núi đặc biệt khó khăn ở tỉnh Bắc Giang Luận văn thạc sĩ Luật học của ông được trình bày tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, nhằm tìm ra các giải pháp cải thiện hiệu quả công tác quản lý nhà nước tại địa phương.
- Nguyễn Thị Thanh (2006), Hoàn thiện pháp luật về cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật
TP Hồ Chí Minh, Hà Nội
- Ths Nguyễn Thế Vịnh (2007), Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở theo Nghị quyết Trung ương 5 (khoá X), Hà Nội
TS Nguyễn Minh Sản (2009) trong cuốn sách "Pháp luật về cán bộ, công chức chính quyền cấp xã ở Việt Nam hiện nay – những vấn đề lý luận và thực tiễn" đã phân tích sâu sắc các khía cạnh lý luận và thực tiễn liên quan đến pháp luật điều chỉnh cán bộ, công chức tại cấp xã Tác phẩm được xuất bản bởi Nxb Chính trị - Hành chính tại Hà Nội, cung cấp cái nhìn toàn diện về những thách thức và giải pháp trong việc quản lý đội ngũ cán bộ công chức ở địa phương.
Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu:Tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
Bài nghiên cứu này tập trung vào việc tổ chức thực hiện pháp luật đối với công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước, cụ thể là Ủy ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân xã tại huyện Thanh Oai, Hà Nội Thời gian nghiên cứu được xác định từ năm 2013 đến năm 2016.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Mục tiêu nghiên cứu của luận văn
Bài viết phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến tổ chức thực hiện pháp luật về công chức, đồng thời đánh giá thực trạng việc tổ chức thực hiện pháp luật này tại huyện Thanh Oai, Hà Nội Luận văn cũng đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm đảm bảo hiệu quả trong tổ chức thực hiện pháp luật về công chức dựa trên thực tiễn tại huyện Thanh Oai, Hà Nội.
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn:
Bài viết phân tích các vấn đề lý luận liên quan đến công chức và tổ chức thực hiện pháp luật về công chức, bao gồm khái niệm, đặc điểm và nội dung của công chức Đồng thời, bài viết cũng nêu rõ các nguyên tắc quan trọng trong việc tổ chức thực hiện pháp luật, cùng với các yếu tố bảo đảm hiệu quả trong quá trình này.
Bài viết đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội, nhằm xác định các ưu điểm và hạn chế trong việc áp dụng các quy định pháp luật này Qua đó, bài viết sẽ chỉ ra những điểm mạnh trong công tác tổ chức và thực hiện pháp luật, đồng thời nêu rõ những khó khăn, thách thức mà huyện đang gặp phải trong quá trình này.
- Đề xuất một số quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội trong thời gian tới.
Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với quan điểm và đường lối của Đảng về nhà nước và pháp luật.
Luận văn này được xây dựng dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, áp dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, cùng với phương pháp lịch sử và logic để đảm bảo tính chính xác và sâu sắc trong nội dung nghiên cứu.
Đóng góp của luận văn
- Góp phần bổ sung những vấn đề lý luận về công chức và tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
- Làm rõ thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại Thanh Oai, Hà Nội
Để đảm bảo tổ chức thực hiện pháp luật về công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, cần có một số giải pháp khả thi như tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức; nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong quản lý nhà nước; đồng thời, xây dựng cơ chế giám sát hiệu quả nhằm phát hiện và xử lý kịp thời các vi phạm Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý công chức, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các quy định pháp luật.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật của tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
Chương 2: Thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật về công chức ở huyện
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức - từ thực tiễn huyện Thanh Oai, Hà Nội
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÔNG CHỨC
Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
1.1.1 Khái niệm pháp luật về công chức và tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
1.1.1.1 Khái niệm công chức và pháp luật về công chức
Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và Nghị định 95/1998/NĐ-CP ngày 17-11-1998 của Chính phủ đã kế thừa và phát triển khái niệm công chức từ Nghị định 169/HĐBT ngày 25-5-1991 Các văn bản này quy định rõ ràng hơn về đối tượng công chức nhà nước, đồng thời quy định các tiêu chí về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức.
Theo Nghị định 95/1998/NĐ-CP, công chức bao gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo và ngành chuyên môn, xếp vào ngạch hành chính, sự nghiệp, làm việc trong các cơ quan nhà nước như Văn phòng Chủ tịch nước, Quốc hội, và các cơ quan hành chính ở các cấp Ngoài ra, công chức cũng bao gồm những người làm việc trong các đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân nhưng không phải là sĩ quan hay quân nhân chuyên nghiệp Các đặc điểm của công chức nhà nước bao gồm: là công dân Việt Nam, được tuyển dụng hoặc bổ nhiệm cho công vụ thường xuyên, phân loại theo trình độ đào tạo và ngành chuyên môn, xếp vào ngạch hành chính và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Theo các quy định của Pháp lệnh Cán bộ, công chức năm 1998 và các văn bản liên quan, khái niệm cán bộ, công chức hiện nay còn quá rộng, không phân biệt rõ đặc thù của từng loại Việc quản lý, sử dụng và đãi ngộ cán bộ, công chức trong khu vực hành chính và sự nghiệp chưa có cơ chế, chính sách phù hợp, dẫn đến sự bất hợp lý trong quy định pháp luật Đặc biệt, việc thiếu quy định về cán bộ, công chức cấp xã đã làm giảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương Cần có những điều chỉnh để khắc phục những hạn chế này nhằm nâng cao hiệu quả quản lý cán bộ, công chức.
Năm 1998, Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh cán bộ, công chức năm 2003 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh đối tượng công chức, bao gồm những người được bầu cử vào chức vụ theo nhiệm kỳ (cán bộ chuyên trách cấp xã) và những người được tuyển dụng để giữ chức danh chuyên môn tại UBND cấp xã (công chức cấp xã) Đồng thời, pháp lệnh cũng phân biệt rõ giữa các đối tượng công chức ngạch hành chính và ngạch sự nghiệp.
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 117/2003/NĐ-CP ngày 10-10-2003 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước Theo Điều 2, công chức là công dân Việt Nam, làm việc trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước, bao gồm cả công chức trong các tổ chức chính trị và tổ chức chính trị - xã hội Nghị định này không chỉ điều chỉnh công chức nhà nước mà còn cả công chức thuộc các tổ chức chính trị, điều này hợp lý từ góc độ chính trị - pháp lý Tuy nhiên, về mặt kỹ thuật ban hành văn bản, Nghị định có mâu thuẫn về hình thức tên gọi và nội dung.
Pháp lệnh Cán bộ, công chức và các Nghị định, Thông tư của Bộ Nội vụ đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, góp phần vào cải cách hành chính và phát triển nền kinh tế thị trường Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong quy định, như thiếu sót trong quản lý cán bộ, nguyên tắc hoạt động công vụ, và trách nhiệm của cán bộ công chức Để khắc phục những hạn chế này và đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền, Quốc hội đã thông qua Luật Cán bộ, công chức vào ngày 13/11/2008, nhằm thể chế hóa các quan điểm của Đảng và tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc hiện đại hóa nền hành chính.
Luật Cán bộ, công chức quy định rõ về các đối tượng cán bộ và công chức ở các cấp Trung ương, tỉnh, huyện và xã Một bước phát triển mới của Luật là phân định rõ ràng giữa cán bộ và công chức, trong đó cán bộ gắn liền với cơ chế bầu cử, phê chuẩn và bổ nhiệm theo nhiệm kỳ, còn công chức liên quan đến cơ chế tuyển dụng và bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ Luật Viên chức năm 2010 cũng xác định viên chức là công dân Việt Nam làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập theo hợp đồng và hưởng lương từ quỹ lương của đơn vị Đây là lần đầu tiên pháp luật Việt Nam phân biệt cụ thể các nhóm đối tượng làm việc trong khu vực nhà nước, nhằm xác định cơ chế quản lý phù hợp để nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ, công chức và viên chức.
Khái niệm và phạm vi công chức khác nhau giữa các quốc gia Tại Pháp, công chức được hiểu rộng rãi, bao gồm tất cả nhân viên trong bộ máy hành chính nhà nước và những người tham gia dịch vụ công Ngược lại, ở Anh, công chức chỉ là những người đại diện cho nhà nước để giải quyết công việc công, đặc biệt là ở cấp trung ương, dẫn đến phạm vi công chức hẹp hơn nhiều.
Theo TS Chu Văn Thành, công chức được định nghĩa là những cá nhân được tuyển dụng và bổ nhiệm vào vị trí công vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước Họ được phân loại dựa trên trình độ đào tạo và ngành chuyên môn, được xếp vào các ngạch hành chính, nằm trong biên chế nhà nước và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008, tại Khoản 2, Điều 4 quy định:
Công chức Việt Nam là công dân được tuyển dụng và bổ nhiệm vào các vị trí trong cơ quan của Đảng Cộng sản, Nhà nước, và tổ chức chính trị - xã hội ở các cấp khác nhau Họ làm việc trong các cơ quan thuộc Quân đội và Công an nhân dân, không bao gồm sĩ quan và quân nhân chuyên nghiệp Công chức cũng có thể làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập, nhận lương từ ngân sách nhà nước Đối với những công chức trong bộ máy lãnh đạo của các đơn vị này, mức lương được đảm bảo từ quỹ lương theo quy định pháp luật.
Công chức cấp xã là công dân Việt Nam được tuyển dụng vào các chức danh chuyên môn, nghiệp vụ tại Ủy ban nhân dân cấp xã, thuộc biên chế nhà nước và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Theo GS.TS Phạm Hồng Thái và PGS.TS Đinh Văn Mậu, hệ thống pháp luật được định nghĩa là tổng thể các quy phạm pháp luật khách quan, phản ánh các điều kiện kinh tế-xã hội Hệ thống này được chia thành các bộ phận cấu thành khác nhau như ngành luật, phân ngành luật và chế định pháp luật, phù hợp với đặc điểm và tính chất của các quan hệ xã hội mà nó điều chỉnh Mặc dù có sự phân chia, các bộ phận này vẫn có mối quan hệ tác động qua lại chặt chẽ và thống nhất với nhau.
Trong nghiên cứu này, luận văn định nghĩa pháp luật là các quy phạm pháp luật, cụ thể là hệ thống văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến công chức Pháp luật về công chức được hiểu là các quy tắc do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động công vụ của những người được tuyển dụng và bổ nhiệm vào các chức vụ trong cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, những người hưởng lương từ ngân sách nhà nước, cũng như những người đứng đầu trong các đơn vị hành chính sự nghiệp công lập.
Pháp luật về công chức bao gồm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành, với nhiều văn bản có thứ bậc khác nhau như Hiến pháp, Luật Cán bộ, công chức 2008 cùng các nghị định, thông tư và quyết định liên quan Ngoài ra, pháp luật về công chức còn bị ảnh hưởng bởi nhiều ngành luật khác như Luật Lao động, Luật Hình sự, và Luật Dân sự, quy định về tiền lương, thời gian làm việc và xử lý hình sự khi công chức vi phạm Đội ngũ công chức cũng chịu sự quản lý của Ủy ban nhân dân về tổ chức, biên chế và sự hướng dẫn nghiệp vụ từ cơ quan chuyên môn cấp trên.
Pháp luật về công chức là một lĩnh vực pháp lý liên ngành, được quy định bởi nhiều văn bản pháp luật do các cơ quan khác nhau ban hành, chủ yếu tập trung vào các quy phạm trong ngành Luật hành chính.
Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật về công chức
1.2.1 Tổ chức phổ biến, tuyên truyền pháp luật về công chức
Tổ chức tuyên truyền pháp luật công chức là một nhiệm vụ quan trọng trong việc thực hiện và phổ biến các quy định pháp luật liên quan đến công chức Hoạt động này không chỉ giúp công chức tránh những hành vi vi phạm pháp luật mà còn nâng cao nhận thức về các nghĩa vụ pháp lý mà họ cần tuân thủ theo quy định của pháp luật công chức.
Công tác tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho công chức có thể được thực hiện qua nhiều hình thức đa dạng như tuyên truyền miệng, tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, phát tờ rơi, và sử dụng hệ thống thông tin đại chúng.
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một phương thức phổ biến, trong đó người nói trực tiếp truyền đạt thông tin pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và niềm tin của người nghe vào pháp luật Phương pháp này linh hoạt, có thể thực hiện ở nhiều địa điểm và hoàn cảnh khác nhau, cho phép người nói giải thích và phân tích nội dung một cách rõ ràng Bên cạnh đó, việc hỏi đáp trực tiếp giữa người nói và người nghe giúp tăng cường hiệu quả truyền đạt thông tin Trong công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật, hình thức tuyên truyền miệng đã được sử dụng rộng rãi và có mối liên hệ chặt chẽ với các hình thức khác.
Tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho công chức có thể được thực hiện qua việc biên soạn và phát hành các tài liệu pháp luật đa dạng như đề cương tuyên truyền, văn bản pháp luật, sách hướng dẫn, sách hỏi đáp, tờ rơi, và bản tin Những tài liệu này không chỉ hỗ trợ trong giảng dạy và học tập tại các trường đào tạo cán bộ, công chức mà còn nâng cao hiệu quả của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật Chất lượng của các tài liệu pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền, do đó, việc chú trọng đến cả hình thức và nội dung của các tài liệu này là rất cần thiết.
Để pháp luật công chức trở nên dễ tiếp cận và được nhận thức trong quản lý nhà nước, cần tăng cường tuyên truyền pháp luật thông qua tổ chức các cuộc thi tìm hiểu, thực thi pháp luật và ký cam kết không vi phạm pháp luật.
1.2.2 Bảo đảm công chức thực thi đúng các quyền và nghĩa vụ đối với công chức
Theo Điều 8 Luật Cán bộ, Công chức, nghĩa vụ của công chức đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân bao gồm sự trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như việc bảo vệ danh dự của tổ chức và cá nhân.
Tổ quốc và lợi ích quốc gia là ưu tiên hàng đầu, cần tôn trọng và phục vụ nhân dân tận tụy Người công chức phải lắng nghe ý kiến, chịu sự giám sát của nhân dân, và chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng cùng pháp luật Nhà nước Theo Điều 9 của Luật, công chức phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao, có ý thức tổ chức kỷ luật, và tuân thủ nội quy, quy chế của cơ quan Họ cần báo cáo vi phạm pháp luật, bảo vệ bí mật nhà nước, và phối hợp chặt chẽ trong công vụ Ngoài ra, công chức phải giữ gìn đoàn kết, quản lý và sử dụng hiệu quả tài sản nhà nước, đồng thời chấp hành quyết định của cấp trên và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
Về quyền, việc thực hiện pháp luật công chức phải đảm bảo đầy đủ quyền của công chức được luật định gồm:
Quyền được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ theo Điều 11 bao gồm việc được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ, được cung cấp trang thiết bị và các điều kiện làm việc theo quy định pháp luật, nhận thông tin liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn, được đào tạo và bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, cùng với việc được pháp luật bảo vệ trong quá trình thi hành công vụ.
Công chức có quyền hưởng lương và các chế độ liên quan đến tiền lương theo Điều 12, với mức lương được Nhà nước đảm bảo tương xứng với nhiệm vụ và quyền hạn, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Những công chức làm việc ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, và các khu vực có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, cũng như trong các ngành nghề độc hại, sẽ được hưởng phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định Họ còn có quyền nhận tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo quy định của pháp luật.
Công chức có quyền nghỉ ngơi theo Điều 13, bao gồm nghỉ hàng năm, nghỉ lễ và nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định của pháp luật lao động Nếu cán bộ, công chức không sử dụng hết số ngày nghỉ hàng năm do yêu cầu nhiệm vụ, họ sẽ được thanh toán thêm một khoản tiền tương đương với tiền lương cho những ngày không nghỉ, bên cạnh tiền lương cơ bản.
Công chức có quyền học tập và nghiên cứu khoa học, tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội Họ được hưởng chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, cũng như chế độ bảo hiểm xã hội và y tế theo quy định pháp luật Trong trường hợp bị thương hoặc hy sinh khi thi hành công vụ, công chức sẽ được xem xét hưởng chế độ như thương binh hoặc được công nhận là liệt sĩ, cùng với các quyền lợi khác theo quy định.
Công chức có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các trách nhiệm theo quy định của pháp luật, đảm bảo tuân thủ các điều khoản luật định về nghĩa vụ của mình.
Cán bộ công chức có nghĩa vụ tuân thủ các chuẩn mực về đạo đức công vụ, bao gồm đạo đức công chức và văn hóa giao tiếp trong công sở cũng như với nhân dân Điều này thể hiện qua các nguyên tắc cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong hoạt động công vụ (Điều 15), văn hóa giao tiếp tại công sở (Điều 16) và văn hóa giao tiếp với nhân dân (Điều 17).
Cán bộ, công chức có nghĩa vụ tuân thủ các quy định pháp luật, không được thực hiện những hành vi trái với đạo đức công vụ (Điều 18), vi phạm bí mật nhà nước (Điều 19), và các hành vi khác liên quan đến sản xuất, kinh doanh, nhân sự theo Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cũng như các quy định khác của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền.
1.2.3 Bảo đảm hoạt động quản lý công chức
Theo Điều 5 Luật CBCC, quản lý công chức cần đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước, kết hợp tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm với chỉ tiêu biên chế Nguyên tắc tập trung dân chủ và chế độ trách nhiệm cá nhân phải được thực hiện rõ ràng Việc đánh giá và phân loại cán bộ, công chức dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thực thi công vụ, đồng thời thực hiện bình đẳng giới Hoạt động quản lý công chức bao gồm tuyển dụng, phân công công tác và đánh giá, phân loại công chức.
Các yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật về công chức 24 1 Yếu tố pháp luật
1.3.1 Yếu tố pháp luật Đây là yếu tố đầu tiên tác động rất lớn đến tổ chức thực hiện pháp luật về công chức, bởi các quy định của pháp luật về công chức là cơ sở pháp lý cho quá trình tổ chức thực hiện pháp luật về công chức, để các cơ quan nhà nước và công chức tuân thủ trong quá trình thực thi công vụ
Pháp luật về công chức đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và quản lý nhà nước, yêu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, đơn vị Để bộ máy hoạt động hiệu quả, cần thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa các thành phần, áp dụng các phương pháp tổ chức phù hợp nhằm hình thành cơ chế đồng bộ trong thực thi quyền lực nhà nước Tuy nhiên, thực tế tại Việt Nam cho thấy sự thiếu hụt hệ thống pháp luật về công chức đầy đủ và đồng bộ đã dẫn đến tình trạng trùng lặp, chồng chéo trong chức năng và thẩm quyền của các cấp chính quyền, gây ra sự cồng kềnh và kém hiệu quả trong quản lý công chức, cũng như chưa tạo động lực hiệu quả cho họ trong quá trình thực thi công vụ.
Quản lý nhà nước là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều mối quan hệ cần được điều chỉnh, đặc biệt là trong quản lý nhân sự.
Một trong những vấn đề quan trọng của nền hành chính quốc gia là pháp luật về công chức, bao gồm hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với thứ bậc khác nhau Những quy định này điều chỉnh các tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của công chức, quy trình tuyển dụng, điều động, tiếp nhận, đánh giá, cũng như thủ tục thôi việc và nghỉ hưu Ngoài ra, pháp luật còn quy định về xử lý kỷ luật và các chế độ chính sách đối với công chức.
1.3.2 Yếu tố kinh tế - xã hội Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất lớn tới việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật công chức nói riêng Mức độ hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật về công chức phản chiếu tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.Trong bất kỳ một xã hội, một quốc gia nào, thể chế quản lý công chức cấp cũng phải phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Kinh tế - xã hội càng phát triển, sẽ thúc đẩy công chức phát triển và ngược lại Pháp luật công chức suy cho cùng chính là hệ thống văn bản pháp luật quản lý công chức.Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật thì điều kiện kinh tế, các quan hệ kinh tế quyết định trực tiếp đến sự ra đời của pháp luật, đồng thời quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó Các Mác đã viết: "Trong thời đại nào cũng thế, chính là vua chúa phải phục tùng những điều kiện kinh tế, chứ không bao giờ vua chúa ra lệnh cho những điều kiện kinh tế được Chẳng qua chế độ pháp luật về chính trị, cũng như về dân sự chỉ là cái việc nói lên, ghi chép lại quyền lực của những quan hệ kinh tế"
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam đang đổi mới, nhận thức về tác động của nền kinh tế thị trường ngày càng trở nên rõ rệt trong đời sống xã hội Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, một bộ máy Nhà nước năng động và hiệu quả là điều cấp bách Tuy nhiên, sự hiệu quả của bộ máy này phụ thuộc vào con người cụ thể, từ công chức cấp Trung ương đến cán bộ cấp xã Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về công chức là cần thiết để xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, từ đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn đến chế độ chính sách, nhằm phát triển đội ngũ công chức vững mạnh, nâng cao hiệu lực quản lý của chính quyền địa phương trong thời kỳ mới.
1.3.3 Yếu tố năng lực của công chức
Năng lực của cán bộ, công chức gắn liền với mục tiêu phát triển của tổ chức và các điều kiện cụ thể trong lĩnh vực công tác Nó liên quan chặt chẽ đến phương pháp làm việc hiệu quả và ứng dụng khoa học công nghệ Yêu cầu về năng lực sẽ thay đổi theo tình hình công việc và nhiệm vụ Do đó, năng lực thực thi trong quản lý hành chính nhà nước của cán bộ, công chức được định nghĩa là khả năng hoàn thành nhiệm vụ trong các điều kiện nhất định.
Trong quản lý nhà nước, năng lực của công chức được định nghĩa là khả năng thực hiện hiệu quả các hoạt động tổ chức và điều chỉnh thông qua quyền lực nhà nước đối với các đối tượng quản lý Điều này phải tuân thủ trật tự hành chính đã được quy định và phản ánh ý chí của nhà quản lý một cách hiệu quả.
Năng lực thực thi công vụ là khả năng của công chức trong việc vận dụng kiến thức, kỹ năng, trình độ và thái độ để hoàn thành nhiệm vụ được giao Thuật ngữ này không chỉ đề cập đến trình độ và kỹ năng mà còn bao gồm khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố này trong các tình huống cụ thể, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công việc.
Con người là trung tâm của mọi vấn đề và là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự tồn tại của mọi tổ chức Trong quá trình tổ chức thực hiện, cần hướng đến yếu tố con người, tránh áp đặt cứng nhắc, điều này đặc biệt quan trọng trong một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Pháp luật về công chức cần được ban hành dựa trên trình độ năng lực và nhận thức của đội ngũ công chức, vì sự phù hợp là yếu tố then chốt Hơn nữa, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm trong việc xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quản lý công chức đóng vai trò quan trọng, và mức độ thực hiện pháp luật phụ thuộc vào năng lực của các cơ quan và cá nhân tham gia.
1.3.4 Truyền thống, văn hóa, phong tục, tập quán
Văn hóa truyền thống dân tộc có ảnh hưởng lớn đến cách thức hoạt động của các tổ chức, trong đó lối suy nghĩ của người Việt Nam chủ yếu bị chi phối bởi sản xuất nông nghiệp và văn hóa cộng đồng Điều này tạo ra ý thức tập thể cao nhưng cũng khiến vai trò cá nhân bị xem nhẹ, dẫn đến tình trạng nhân viên thiếu chủ động và thường chờ đợi chỉ đạo từ cấp trên Hệ quả là chất lượng công việc của công chức bị ảnh hưởng, với việc sử dụng nguồn lực của tổ chức một cách tùy tiện, lãng phí và thiếu trách nhiệm, thể hiện qua thói quen chi tiêu như "của chùa".
Văn hóa hành chính Việt Nam thường né tránh mâu thuẫn và ngần ngại trước thay đổi, phản ánh sự tế nhị, kín đáo và tâm lý ngại va chạm, với triết lý “dĩ hòa vi quý” Những đặc điểm này đã hình thành cơ sở cho các kỹ thuật hành chính như bỏ phiếu kín tín nhiệm, nhưng cũng gây khó khăn cho các nhà quản lý trong việc nhận được thông tin phản hồi thực chất về các vấn đề trong tổ chức.
Việc khôi phục một trật tự đã tồn tại lâu đời và ăn sâu vào tiềm thức của con người là một thách thức không nhỏ Chính vì lý do này, cải cách hành chính trở thành cần thiết để tái thiết và thúc đẩy những thay đổi tích cực trong xã hội.
Việc đưa “thói quen” vào khuôn khổ đã định là cần thiết để cải thiện hiệu quả hoạt động của nền hành chính Mặc dù ảnh hưởng của yếu tố truyền thống và văn hóa dân tộc đã hình thành từ lâu, chúng ta vẫn phải nỗ lực để thích ứng với xu thế phát triển toàn cầu hiện nay.
Luận văn đã làm rõ các vấn đề lý luận về pháp luật công chức, bao gồm quan niệm và đặc điểm của pháp luật này Nó cũng đề cập đến nội dung tổ chức thực hiện pháp luật công chức và các yếu tố đảm bảo cho quá trình này Chương 2 sẽ phân tích thực trạng và đánh giá quá trình tổ chức thực hiện pháp luật công chức tại huyện Thanh Oai, Hà Nội.