CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Khái niệm, đặc điểm, chủ thể tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
1.1.1 Khái niệm công chức và tổ chức thực hiện pháp luật về cán bộ, công chức
Vào ngày 13 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Cán bộ, công chức, và luật này đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2019 Theo Khoản 1 Điều 1 của Luật sửa đổi năm 2019, công chức được định nghĩa là công dân.
Việt Nam tuyển dụng và bổ nhiệm vào các vị trí công việc trong biên chế, hưởng lương từ ngân sách Nhà nước tại các cơ quan của Đảng Cộng sản, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, tỉnh, huyện; cùng với các đơn vị thuộc Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, không bao gồm sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, và công an nhân dân phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp.
Công chức được phân loại dựa trên trình độ đào tạo và vị trí công tác Theo trình độ đào tạo, công chức được chia thành các loại A, B, C và D Về vị trí công tác, có hai nhóm chính là công chức lãnh đạo (chỉ huy và điều hành) và công chức chuyên môn nghiệp vụ.
Công chức có ba đặc điểm chính: được tuyển dụng và bổ nhiệm vào vị trí công vụ ổn định trong cơ quan nhà nước; được phân loại vào một ngạch, thể hiện tính ổn định nghề nghiệp; và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức là những cá nhân được Nhà nước tuyển dụng và bổ nhiệm để thực hiện các công vụ thường xuyên trong cơ quan nhà nước hoặc các đơn vị thuộc quân đội và công an nhân dân Họ được phân loại theo trình độ đào tạo và ngành chuyên môn, được xếp vào các ngạch hành chính và đơn vị sự nghiệp, làm việc trong biên chế và nhận lương từ ngân sách nhà nước.
1.1.1.2 Khái niệm tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
Khái niệm thực hiện pháp luật:
Thực hiện pháp luật là một yêu cầu thiết yếu của xã hội, Nhà nước, cá nhân và tổ chức Theo các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác – Lênin, quá trình thực hiện pháp luật thể hiện ý chí của Nhà nước và là một phần quan trọng của pháp chế xã hội chủ nghĩa Nội dung cốt lõi của pháp chế chính là sự tuân thủ pháp luật một cách nghiêm ngặt Hiện nay, có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm thực hiện pháp luật.
Thực hiện pháp luật được hiểu là hành vi của con người hoặc tổ chức tuân thủ các quy định của pháp luật Theo quan điểm này, mọi hoạt động phù hợp với luật pháp đều được coi là thực hiện pháp luật Hành vi thực hiện pháp luật phản ánh sự tuân thủ các quy định pháp lý.
Quan điểm thứ hai nhấn mạnh rằng thực hiện pháp luật là một hoạt động có mục đích, nhằm hiện thực hóa các quy định của pháp luật và đưa chúng vào cuộc sống.
Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã xuất bản Giáo trình xây dựng đảng cho hệ cử nhân chính trị vào năm 2006 Tài liệu này, do Viện Xây dựng đảng biên soạn, được phát hành bởi Nxb Lý luận chính trị tại Hà Nội, cung cấp những kiến thức quan trọng về xây dựng đảng, trang 230.
Theo Giáo trình Lý luận chung Nhà nước và Pháp luật của Đại học Quốc gia Hà Nội – Khoa Luật (2006), việc thực hiện pháp luật không chỉ là hành vi của cá nhân mà còn là hoạt động của tổ chức, cơ quan nhà nước nhằm tuân thủ các quy định pháp luật Để đưa các quy định này trở thành hành vi thực tế hợp pháp, cần có công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật Tuy nhiên, tác giả Nguyễn Minh Đoan có những quan điểm riêng về vấn đề này.
Việc thực hiện pháp luật là cần thiết để đảm bảo các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước Mọi quốc gia đều phải xây dựng và ban hành các quy phạm pháp luật nhằm tổ chức và quản lý xã hội Nhà nước sử dụng pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội, phục vụ lợi ích và mục đích chung của xã hội.
Để thực hiện vai trò quản lý xã hội, Nhà nước cần đồng thời tiến hành xây dựng, hoàn thiện và thực hiện pháp luật Thực hiện pháp luật là một trong những hình thức quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng của mình Tóm lại, có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau về thực hiện pháp luật, nhưng từ những quan điểm này, chúng ta có thể đưa ra một cách hiểu chung nhất về vấn đề này.
Thực hiện pháp luật là quá trình có mục đích nhằm biến các quy định pháp luật thành hiện thực trong đời sống, phục vụ cho mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Nhà nước Việt Nam là một thể chế pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phục vụ lợi ích của nhân dân Các cán bộ và công chức Nhà nước được coi là "công bộc", thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của họ đối với cộng đồng.
17 Phạm Hồng Thái (2008), Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, Nxb Giao thông vận tải, Hà Nội, tr.463.
Pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm bảo vệ quyền lợi của nhân dân và điều chỉnh hành vi của cán bộ, công chức trong hoạt động công vụ Tuy nhiên, sự thành công trong việc thực thi pháp luật phụ thuộc vào hiệu quả tổ chức và thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức Do đó, việc hiểu rõ khái niệm thực hiện pháp luật và thực hiện pháp luật của cán bộ, công chức là rất quan trọng để đảm bảo pháp luật được áp dụng một cách hiệu quả trong thực tế.
Nội dung tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
1.2.1 Tổ chức, phổ biến, tuyên truyền pháp luật cán bộ, công chức
Tổ chức tuyên truyền pháp luật cho cán bộ, công chức là nhiệm vụ quan trọng nhằm ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này Qua việc tuyên truyền, cán bộ, công chức sẽ hiểu rõ các nghĩa vụ pháp lý và hành vi phù hợp với quy định của pháp luật Hoạt động tuyên truyền có thể được thực hiện qua nhiều hình thức như tuyên truyền miệng, tổ chức cuộc thi tìm hiểu, phát tờ rơi, và sử dụng hệ thống thông tin đại chúng.
Tuyên truyền miệng về pháp luật là một phương thức phổ biến, trong đó người nói trực tiếp truyền đạt thông tin pháp luật nhằm nâng cao nhận thức và niềm tin vào pháp luật cho người nghe Phương pháp này có ưu điểm linh hoạt, có thể thực hiện ở bất kỳ nơi nào và trong mọi hoàn cảnh, cho phép người nói giải thích và phân tích nội dung một cách chi tiết Tuyên truyền miệng cũng tạo điều kiện cho việc hỏi đáp trực tiếp, đáp ứng nhu cầu thông tin của cả hai bên Hình thức này đã được sử dụng rộng rãi trong công tác tuyên truyền, phổ biến và giáo dục pháp luật, đồng thời có mối quan hệ chặt chẽ với các hình thức giáo dục pháp luật khác.
Tuyên truyền và phổ biến pháp luật cho cán bộ, công chức có thể được thực hiện qua việc biên soạn và phát hành các tài liệu pháp luật đa dạng như đề cương tuyên truyền, văn bản pháp luật, sách hướng dẫn, giải thích pháp luật, sách bỏ túi, sách hỏi đáp, tờ rơi, tờ gấp, bản tin, tranh áp phích và lịch Trong các hoạt động giảng dạy và học tập pháp luật tại các trường đào tạo nâng cao nghiệp vụ, tài liệu pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc tuyên truyền và giáo dục Hiệu quả của công tác này phụ thuộc vào chất lượng của các tài liệu pháp luật, do đó, việc chú trọng đến cả hình thức và nội dung của các tài liệu này là rất cần thiết.
Để pháp luật về cán bộ, công chức trở nên gần gũi và được nhận thức trong quản lý nhà nước, cần tăng cường tuyên truyền và phổ biến pháp luật qua các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, hoạt động thực thi pháp luật và thực hiện cam kết không vi phạm pháp luật.
1.2.2 Bảo đảm cán bộ, công chức thực thi đúng các quyền và nghĩa vụ đối với cán bộ, công chức
Theo Điều 8 Luật cán bộ, công chức, công chức có nghĩa vụ trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo vệ danh dự Tổ quốc và lợi ích quốc gia, tôn trọng và phục vụ nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, cũng như chấp hành nghiêm chỉnh đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước Ngoài ra, theo Điều 9, công chức phải thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, có ý thức tổ chức kỷ luật, chấp hành nội quy của cơ quan, báo cáo vi phạm pháp luật, bảo vệ bí mật nhà nước, phối hợp trong công vụ, giữ gìn đoàn kết, quản lý tài sản nhà nước hiệu quả và chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Cán bộ, công chức cần thực hiện pháp luật một cách đầy đủ, bảo đảm quyền lợi của mình theo quy định pháp luật hiện hành.
Theo Điều 11, công chức có quyền được bảo đảm các điều kiện thi hành công vụ, bao gồm việc được giao quyền tương xứng với nhiệm vụ, được cung cấp trang thiết bị và điều kiện làm việc theo quy định pháp luật Họ cũng được cung cấp thông tin liên quan đến nhiệm vụ và quyền hạn, đồng thời có quyền được đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ chính trị và chuyên môn Đặc biệt, pháp luật sẽ bảo vệ công chức khi họ thực hiện nhiệm vụ công vụ.
Công chức có quyền được hưởng lương và các chế độ liên quan đến tiền lương theo Điều 12, trong đó Nhà nước đảm bảo mức lương phù hợp với nhiệm vụ và quyền hạn, đồng thời phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội Những công chức làm việc ở vùng miền núi, biên giới, hải đảo, hoặc các khu vực đặc biệt khó khăn sẽ nhận được phụ cấp và chính sách ưu đãi theo quy định Họ cũng được hưởng tiền làm thêm giờ, tiền làm đêm, công tác phí và các chế độ khác theo luật pháp hiện hành.
Công chức có quyền nghỉ ngơi theo Điều 13, bao gồm nghỉ hàng năm, nghỉ lễ và nghỉ để giải quyết việc riêng theo quy định pháp luật lao động Nếu do yêu cầu nhiệm vụ mà công chức không sử dụng hết số ngày nghỉ hàng năm, họ sẽ được thanh toán thêm một khoản tiền tương đương với lương cho những ngày chưa nghỉ, ngoài tiền lương cơ bản.
Công chức được đảm bảo nhiều quyền lợi theo Điều 14, bao gồm quyền học tập, nghiên cứu khoa học và tham gia các hoạt động kinh tế, xã hội Họ còn được hưởng các chính sách ưu đãi về nhà ở, phương tiện đi lại, cũng như chế độ bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế theo quy định pháp luật Trong trường hợp công chức bị thương hoặc hy sinh khi thi hành công vụ, họ sẽ được xem xét hưởng chế độ, chính sách tương tự như thương binh hoặc được công nhận là liệt sĩ, cùng với các quyền lợi khác theo quy định của pháp luật.
Cán bộ, công chức có trách nhiệm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ theo quy định của pháp luật, đảm bảo tuân thủ các quy định và yêu cầu trong công việc của mình.
Nghĩa vụ thực hiện các chuẩn mực về đạo đức công vụ là rất quan trọng, bao gồm đạo đức công chức và văn hóa giao tiếp trong công sở cũng như với nhân dân Điều 15 nhấn mạnh các giá trị cần, kiệm, liêm, chính và chí công vô tư trong hoạt động công vụ Điều 16 quy định về văn hóa giao tiếp trong công sở, trong khi Điều 17 đề cập đến văn hóa giao tiếp với nhân dân Các chuẩn mực này góp phần nâng cao chất lượng phục vụ và xây dựng niềm tin của người dân đối với cơ quan nhà nước.
Nghĩa vụ không được làm những việc pháp luật cấm bao gồm các hành vi vi phạm đạo đức công vụ (Điều 18), xâm phạm bí mật nhà nước (Điều 19), và các hành vi khác liên quan đến sản xuất, kinh doanh, và công tác nhân sự theo quy định của Luật phòng, chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, cùng các quy định khác của pháp luật và cơ quan có thẩm quyền.
1.2.3 Bảo đảm hoạt động quản lý cán bộ, công chức
Theo Điều 5 Luật cán bộ, công chức, việc quản lý cán bộ, công chức cần tuân thủ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự quản lý của Nhà nước, kết hợp giữa tiêu chuẩn chức danh, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế Hoạt động này phải thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, có trách nhiệm cá nhân và phân công, phân cấp rõ ràng Việc đánh giá và phân loại cán bộ, công chức phải dựa trên phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực thi hành công vụ, đồng thời đảm bảo bình đẳng giới Nội dung quản lý cán bộ, công chức bao gồm tuyển dụng, phân công công tác, sử dụng, đánh giá và phân loại công chức.
Tuyển dụng công chức đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng thực thi công vụ Quy trình tuyển dụng cần dựa trên yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế Theo Điều 36, mọi công dân Việt Nam đủ điều kiện đều có cơ hội tham gia dự tuyển, không phân biệt dân tộc, giới tính, thành phần xã hội hay tín ngưỡng Đồng thời, phương thức tuyển dụng cũng cần thực hiện theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương.
Các yếu tố bảo đảm tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức
Yếu tố pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực hiện pháp luật đối với cán bộ, công chức Các quy định pháp lý này cung cấp cơ sở cho việc tổ chức và đảm bảo rằng các cơ quan nhà nước cùng công chức thực hiện đúng nghĩa vụ trong quá trình thi hành công vụ.
Pháp luật về cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, yêu cầu xác định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, đơn vị Để bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu quả, cần thiết lập mối quan hệ hợp lý giữa các cơ quan và áp dụng phương pháp tổ chức phù hợp, tạo ra cơ chế đồng bộ trong thực hiện quyền lực nhà nước Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy sự thiếu hụt hệ thống pháp luật đầy đủ và thống nhất về công chức dẫn đến tình trạng chồng chéo, không đúng chức năng, gây cồng kềnh và kém hiệu quả trong quản lý công chức, đồng thời chưa tạo động lực cho họ trong thực thi công vụ.
Quản lý nhà nước là lĩnh vực rộng lớn, bao gồm nhiều mối quan hệ cần điều chỉnh, trong đó quản lý nhân sự là vấn đề trọng yếu của nền hành chính Nhà nước Pháp luật cán bộ, công chức được quy định bởi hệ thống văn bản quy phạm pháp luật với thứ bậc khác nhau, điều chỉnh các tiêu chuẩn, quyền và nghĩa vụ của cán bộ, công chức, cũng như quy trình tuyển dụng, điều động, tiếp nhận, đánh giá, thôi việc, nghỉ hưu, khen thưởng, xử lý kỷ luật và các chế độ chính sách như chế độ thai sản.
1.3.2 Yếu tố kinh tế - xã hội Điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước có ảnh hưởng rất lớn tới việc hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật cán bộ, công chức nói riêng Mức độ hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức phản chiếu tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Trong bất kỳ một xã hội, một quốc gia nào, thể chế quản lý cán bộ, công chức thường phản ánh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Kinh tế - xã hội càng phát triển, sẽ thúc đẩy cán bộ, công chức phát triển và ngược lại Pháp luật cán bộ, công chức chính là hệ thống văn bản pháp luật quản lý cán bộ, công chức Đứng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lênin, trong mối quan hệ giữa kinh tế và pháp luật thì điều kiện kinh tế, các quan hệ kinh tế quyết định trực tiếp đến sự ra đời của pháp luật, đồng thời quyết định toàn bộ nội dung, hình thức, cơ cấu và sự phát triển của nó Các Mác đã viết:
Trong mọi thời đại, vua chúa luôn phải tuân theo các điều kiện kinh tế, thay vì ra lệnh cho chúng Hệ thống pháp luật về chính trị và dân sự chỉ phản ánh và ghi nhận quyền lực từ các mối quan hệ kinh tế.
Trong bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam hiện nay, nhận thức về tác động của nền kinh tế thị trường ngày càng rõ nét Để đáp ứng yêu cầu của người dân và các tổ chức kinh tế - xã hội, cần một bộ máy Nhà nước năng động và hiệu quả Tuy nhiên, hiệu quả của bộ máy này phụ thuộc vào quyết định của đội ngũ công chức từ Trung ương đến cấp xã Do đó, việc hoàn thiện pháp luật liên quan đến cán bộ, công chức là cần thiết, nhằm xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, ổn định, tạo cơ sở cho sự phát triển đội ngũ công chức chính quyền, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý của chính quyền địa phương trong thời kỳ mới.
1.3.3 Yếu tố năng lực của cán bộ, công chức
Năng lực của cán bộ, công chức gắn liền với mục tiêu phát triển của tổ chức và các điều kiện cụ thể Nó liên quan chặt chẽ đến phương pháp làm việc hiệu quả và ứng dụng khoa học công nghệ Yêu cầu về năng lực sẽ thay đổi theo tình hình công việc và nhiệm vụ Do đó, năng lực thực thi trong quản lý hành chính nhà nước của cán bộ, công chức là khả năng hoàn thành nhiệm vụ được giao trong những điều kiện nhất định.
Trong quản lý nhà nước, năng lực của công chức thể hiện khả năng thực hiện hiệu quả các hoạt động tổ chức và điều chỉnh thông qua quyền lực nhà nước, nhằm quản lý đối tượng một cách phù hợp với trật tự hành chính và theo ý chí của nhà quản lý.
Năng lực thực thi công vụ là khả năng thể chất và trí tuệ của công chức trong việc sử dụng kiến thức, kỹ năng, trình độ và thái độ để hoàn thành nhiệm vụ Nó không chỉ bao gồm các yếu tố như trình độ, kiến thức, kỹ năng, thái độ và hành vi mà còn yêu cầu khả năng kết hợp hài hòa các yếu tố này trong những điều kiện cụ thể để đạt hiệu quả cao nhất.
Con người là trung tâm của mọi vấn đề và là nguồn lực quan trọng nhất trong tổ chức, quyết định sự tồn tại của mọi hoạt động Trong quá trình thực hiện, cần phải chú trọng đến yếu tố con người, tránh áp đặt cứng nhắc, điều này đặc biệt quan trọng trong một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Pháp luật về công chức cần được ban hành và điều chỉnh dựa trên trình độ, năng lực và nhận thức của đội ngũ công chức Sự phù hợp giữa các yếu tố này là cần thiết để đảm bảo hiệu quả trong tổ chức thực hiện pháp luật, phụ thuộc vào năng lực của các cơ quan và cá nhân tham gia.
1.3.4 Truyền thống, văn hoá, phong tục, tập quán
Văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam có ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động của các tổ chức, với lối suy nghĩ chịu tác động từ sản xuất nông nghiệp và văn hóa cộng đồng Điều này tạo ra ý thức tập thể cao nhưng cũng làm giảm vai trò cá nhân, dẫn đến việc nhân viên thường chờ đợi chỉ đạo từ cấp trên, gây ra tình trạng trì trệ và thiếu trách nhiệm trong công việc Hiện tượng công chức ít quan tâm đến chất lượng công việc và sử dụng tài sản công một cách lãng phí cũng rất phổ biến Ngoài ra, văn hóa hành chính Việt Nam thường né tránh mâu thuẫn và ngần ngại trước thay đổi, điều này làm cho việc thu thập thông tin phản hồi trở nên khó khăn Việc cải cách hành chính nhằm tái thiết những thói quen đã ăn sâu vào tiềm thức là một thách thức lớn, nhưng cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động của nền hành chính, phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu.
Tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức đóng vai trò quan trọng trong cải cách hành chính tại Việt Nam, đặc biệt ở tỉnh Lạng Sơn Chương 1 của luận văn trình bày hệ thống lý luận về công chức và tổ chức thực hiện pháp luật, đồng thời nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng như kinh tế - xã hội, pháp luật, con người, và văn hoá Những lý luận này là nền tảng cho việc đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức trong Chương 2 của luận văn.
THỰC TRẠNG CỦA TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP TỈNH – TỪ THỰC TIỄN TỈNH LẠNG SƠN 33 2.1 Đặc điểm tình hình kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của tỉnh Lạng Sơn 33
Về vị tri địa lý, địa hình, đất đai
Lạng Sơn là một tỉnh miền núi biên giới thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có diện tích tự nhiên 8.310,09 km² Tỉnh nằm trên các tuyến quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B và 279, đóng vai trò quan trọng trong giao lưu kinh tế với các tỉnh lân cận như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, Quảng Ninh, Bắc Giang và khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, Trung Quốc Lạng Sơn sở hữu 2 cửa khẩu quốc tế (Hữu Nghị và Đồng Đăng), 1 cửa khẩu chính (Chi Ma) và 9 cửa khẩu phụ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động thương mại và giao thương.
Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên rừng của khu vực có diện tích đất lâm nghiệp lên tới 512.559 ha, chiếm 61,6% tổng diện tích đất tự nhiên Về tài nguyên khoáng sản, mặc dù không phong phú, nhưng khu vực có khoảng 40 mỏ đá vôi đang hoạt động, với tổng trữ lượng đạt 405 triệu m³, chủ yếu phục vụ cho ngành xây dựng.
Dân số, đơn vị hành chính
Năm 2019, tỉnh Lạng Sơn có dân số 782.811 người, trong đó 79,54% sinh sống ở khu vực nông thôn Tỉnh có 07 dân tộc chủ yếu, bao gồm Nùng (41,91%), Tày (35,43%), Kinh (16,99%), Dao (3,5%), Hoa (0,29%), Sán chay (0,6%), Mông (0,17%) và các dân tộc khác (0,11%).
Tỉnh Lạng Sơn có 11 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 10 huyện và 01 thành phố loại II; 200 đơn vị hành chính cấp xã (gồm 181 xã, 05 phường và
20 Nguồn: Cổng thông tin điện tử tỉnh Lạng Sơn,https://www.langson.gov.vn/index.php/en/node/68258, truy cập ngày 23 tháng 3 năm 2021.
Tính đến tháng 6/2020, tỉnh có 1.850 thôn và tổ dân phố, bao gồm 1.707 thôn và 143 tổ dân phố Trong đó, có 31 xã thuộc khu vực I, 57 xã khu vực II, và 112 xã khu vực III Đặc biệt, tỉnh có 107 xã đặc biệt khó khăn, 04 xã an toàn khu, 03 xã biên giới, cùng với 83 thôn đặc biệt khó khăn thuộc 24 xã khu vực II đang được đầu tư theo Chương trình 135.
Về kinh tế
Từ năm 2011 đến 2017, kinh tế Việt Nam ghi nhận tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm đạt từ 8 đến 9% Trong đó, ngành nông, lâm nghiệp tăng trưởng từ 3 đến 4%, ngành công nghiệp - xây dựng tăng từ 9 đến 11%, và ngành dịch vụ tăng từ 10 đến 12% Cơ cấu kinh tế đang chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông lâm nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp.
Ngành nông lâm nghiệp đóng góp 20,30% vào nền kinh tế, trong khi công nghiệp và xây dựng chiếm 19,68% Dịch vụ là lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn nhất với 49,78% Thuế sản phẩm, sau khi trừ trợ cấp, đạt 10,24% Năm 2018, thu nhập bình quân đầu người đạt 38,4 triệu đồng.
Về văn hoá – xã hội
- Tỷ lệ thôn, khối phố có nhà văn hóa đến năm 2018 đạt 96%.
- Số trường đạt chuẩn quốc gia đến năm 2018 là 192 trường trên tổng số 694 trường.
Đến cuối năm 2018, có 114 xã đạt Bộ tiêu chí quốc gia về y tế, chiếm 50,4% tổng số xã Mỗi 10.000 dân có 10,5 bác sĩ và 28,3 giường bệnh Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 95,5%.
- Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2018 đạt 50%, lao động được giải quyết việc làm hàng năm trên 14.600 người.
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo hàng năm đều giảm trên 3%, năm 2017 giảm 3,3%, năm
2018 giảm 3,24% Hiện còn 30.583 hộ nghèo, chiếm 15,83%;
Những thành tựu đạt được trong công tác tổ chức thực hiện pháp luật cán bộ, công chức của cấp tỉnh Lạng Sơn
2.2.1 Về kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy
Theo Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về việc đổi mới và sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị, UBND tỉnh Lạng Sơn đã triển khai 03 đợt sắp xếp tổ chức bộ máy trong các năm qua nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động.
2017, 2019 và 2020 Kết quả thực hiện đến nay cụ thể như sau:
Về tổ chức hành chính
- Cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh:
Thời gian Số lượng cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Từ ngày 30 tháng 4 năm 2015 đến ngày 30 tháng 6 năm 2020, số lượng Sở, ngành thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh Lạng Sơn vẫn giữ nguyên và không có sự thay đổi Điều này cho thấy tính ổn định của các Sở, ngành tại tỉnh Lạng Sơn, không xảy ra tình trạng chia tách hay sáp nhập các đơn vị tổ chức.
- Tổ chức hành chính khác ở cấp tỉnh (Văn phòng HĐND tỉnh, Ban Quản lý
KKTCK Đồng Đăng - Lạng Sơn):
Báo cáo của Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn năm 2020 cung cấp kết quả sắp xếp tổ chức bộ máy, quản lý và sử dụng biên chế công chức, cùng với số lượng người làm việc trong các đơn vị sự nghiệp công lập và hợp đồng lao động trong giai đoạn 2015-2020.
Thời gian Số lượng hành chính khác cấp tỉnh
Trong giai đoạn từ 30/4/2015 đến 30/6/2020, số lượng đơn vị hành chính cấp tỉnh không có sự thay đổi, cho thấy tính ổn định của các đơn vị hành chính này vẫn được duy trì.
- Các tổ chức và tương đương thuộc cơ cấu tổ chức của Sở, ngành:
Thời điểm Số lượng phòng và tương đương thuộc Sở, ngành
Tính đến ngày 30/4/2015, số lượng phòng và tương đương là 155, nhưng đến ngày 30/6/2020, con số này đã giảm xuống còn 102, tương ứng với mức giảm 53 phòng, tức giảm 34,19% Sự giảm sút này cho thấy cơ cấu tổ chức của Sở, ngành đã thực hiện hiệu quả chủ trương cắt giảm đầu mối.
- Chi cục và tương đương:
Thời điểm Số lượng Chi cục và tương đương
Từ ngày 30/4/2015 đến 30/6/2020, số lượng chi cục và tương đương đã giảm từ 15 xuống còn 12, tương ứng với việc cắt giảm 3 chi cục, đạt tỷ lệ giảm 20% Việc này thể hiện nỗ lực thực hiện chủ trương giảm bớt đầu mối các đơn vị, tổ chức.
Giải thể các Chi cục như Chi cục phát triển lâm nghiệp, Chi cục Phòng chống tệ nạn xã hội, và Chi cục Văn thư lưu trữ, đồng thời chuyển Chi cục Quản lý thị trường về Bộ Công Thương, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước Bên cạnh đó, việc thành lập Trung tâm Phục vụ hành chính công sẽ giúp cải thiện dịch vụ hành chính và đáp ứng nhu cầu của người dân một cách tốt nhất.
- Phòng thuộc cơ cấu tổ chức của chi cục và tương đương thuộc Sở:
Số lượng phòng thuộc cơ cấu tổ chức của chi cục và tương đương thuộc Sở
Tính đến ngày 30/4/2015, số lượng phòng là 66, nhưng đến ngày 30/6/2020, con số này đã giảm xuống còn 50 phòng, tương ứng với tỷ lệ giảm 24,24% Việc giảm số lượng phòng thuộc cơ cấu tổ chức của chi cục và các đơn vị tương đương thuộc Sở đã được thực hiện, phù hợp với kế hoạch và chủ trương giảm thiểu số lượng đơn vị, tổ chức.
- Văn phòng, phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức của tổ chức hành chính khác ở cấp tỉnh:
Thời điểm Số lượng văn phòng, phòng, ban thuộc cơ cấu tổ chức hành chính khác ở cấp tỉnh
- Nhận xét: Thời điểm 30/4/2015 có 09 phòng; thời điểm 30/6/2020 có 06 phòng, giảm 03 phòng, tỷ lệ giảm 33,33%.
Về biên chế và tinh giản biên chế
Về quản lý biên chế: a) Về biên chế trong cơ quan, tổ chức hành chính:
- Số biên chế công chức được giao:
Năm Số biên chế công chức được giao
Số biên chế công chức hành chính của tỉnh Lạng Sơn đã giảm 315/2.398 biên chế, tương đương 13,13% so với năm 2015, trong đó có 108 biên chế quản lý thị trường được chuyển về Tổng cục Quản lý thị trường thuộc Bộ Công Thương Việc cắt giảm này không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách Nhà nước trong việc chi trả lương cho công chức mà còn làm cho bộ máy hành chính địa phương trở nên gọn nhẹ hơn.
- Số công chức có mặt tại thời điểm 30/6/2020 là 1.891/2.083 biên chế; số biên chế công chức chưa sử dụng là 192/2.083 biên chế.
Số biên chế có mặt 1.891/2.083
Số biên chế công chức chưa sử dụng 192/2.083
Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn chưa sử dụng hết 192 biên chế công chức trong tổng số 2.083 chỉ tiêu được giao Tính đến ngày 30/6/2020, việc chưa sử dụng đầy đủ biên chế này đã giúp cắt giảm chi phí hành chính cho ngân sách Nhà nước.
- Số lượng người làm việc được giao:
Năm Số lượng người làm việc được giao
23 Nếu không tính 108 biên chế QLTT chuyển về Bộ Công Thương thì tỷ lệ giao giảm đạt
9%, (giảm 206/2.289 biên chế giao năm 2015) (2.289 = 2.398 - 109 biên chế Chi cục
QLTT thời điểm giao năm 2015).
Từ năm 2015 đến năm 2020, số lượng người làm việc được giao đã giảm từ 24.102 người xuống còn 22.438 người, tương ứng với sự giảm 1.876 người, tức là tỷ lệ giảm 7,72% Việc này giúp cắt giảm chi phí cho ngân sách Nhà nước.
- Số lượng người làm việc có mặt tại thời điểm 30/6/2020 là 21.231/22.438 người; số lượng người làm việc chưa thực hiện là 1.207 người.
Số lượng người làm việc có mặt 21.231
Số lượng người làm việc chưa thực hiện 1.207
Việc giảm số lượng người lao động xuống còn 1.207 đã giúp tiết kiệm chi phí hành chính cho ngân sách Nhà nước Hợp đồng lao động được thực hiện theo Nghị định số 68/2000/NĐ-CP, đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 161/2018/NĐ-CP.
* HĐLĐ 68 trong cơ quan hành chính:
- Số giao: Năm 2015 giao 258 hợp đồng lao động 68; Năm 2020 thực hiện giao
Năm Số lượng hợp đồng lao động
- Nhận xét: Số lượng lao động hợp đồng lao động 68 được tăng từ 258 (năm
2015) lên 281 (năm 2020) số lượng tăng lên là 23 người.
- Số có mặt tại thời điểm 30/6/2020 là 271/281 người; số hợp đồng lao động chưa sử dụng là 10 hợp đồng.
Số hợp đồng lao động chưa sử dụng 10
Việc chưa khai thác tối đa số hợp đồng lao động được giao là một phương thức giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn giảm thiểu chi phí hành chính, từ đó góp phần tiết kiệm ngân sách Nhà nước.
* HĐLĐ 68 trong các đơn vị sự nghiệp công lập:
Tính đến năm 2015, tỉnh Lạng Sơn chưa thực hiện việc giao hợp đồng lao động, với tổng số 1.100 hợp đồng lao động tại các đơn vị sự nghiệp công lập tính đến ngày 30/4/2015 Đến năm 2020, tỉnh đã thực hiện giao 2.048 hợp đồng lao động, cho thấy sự gia tăng đáng kể trong việc quản lý nhân sự tại các cơ quan công.
Số lượng lao động hợp đồng có mặt 2.015/2.048
Số người chưa thực hiện 33/2.048
Tính đến ngày 30/6/2020, tổng số hợp đồng lao động là 2.048 người, trong đó có 2.015 hợp đồng đang có hiệu lực và 33 hợp đồng chưa được thực hiện Nguyên nhân của việc chưa thực hiện hợp đồng là do một số nhân viên đã nghỉ việc nhưng chưa hoàn tất thủ tục, và một số đơn vị gặp khó khăn trong việc thực hiện hợp đồng do thiếu nhân lực.
Về tinh giản biên chế: a) Về xây dựng kế hoạch, đề án tinh giản biên chế: