PHẦN MỞ ĐẦU
Đặt vấn đề
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2018 tăng 7,08% so với năm trước, đây cũng là tốc độ tăng cao nhất trong vòng thập kỷ qua, bình quân giai đoạn 2016 –
Năm 2018, GDP Việt Nam tăng 6,7% (TCTK, 2018), phản ánh những tiến bộ trong việc đạt mục tiêu tăng trưởng giai đoạn 2016 – 2020 (Đảng Cộng sản Việt Nam, 2016) Mức tăng GDP không chỉ dựa vào vốn và lao động, mà còn phụ thuộc vào TFP, yếu tố quan trọng thể hiện sự phát triển khoa học công nghệ, môi trường đầu tư và trình độ nhân lực TFP bình quân giai đoạn 2016 – 2018 tăng 9,7% so với giai đoạn 2011 - 2015 (TCTK, 2019) Trong bối cảnh công nghệ 4.0, sự phát triển nhanh chóng của khoa học công nghệ yêu cầu chính quyền cần nỗ lực xây dựng cơ chế thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ trong nước.
Chính phủ và các tỉnh thành đã triển khai nhiều chương trình nhằm thúc đẩy khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là quốc sách hàng đầu cho sự phát triển kinh tế - xã hội Khu vực doanh nghiệp được chú trọng do đóng góp hơn 50% tổng giá trị GDP của Việt Nam.
DMST là một cải tiến trong sản xuất, mang lại giá trị gia tăng cho doanh nghiệp Nghiên cứu của Maradana và cộng sự (2017) cho rằng đổi mới công nghệ là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng kinh tế quốc gia Kannebley và cộng sự (2008), Crepon và cộng sự (1998) cũng khẳng định rằng cải tiến công nghệ có tác động tích cực đến kết quả hoạt động của doanh nghiệp Ngoài ra, các hình thức đổi mới khác như tổ chức, sản phẩm và quy trình cũng nâng cao giá trị sản xuất (Artz và cộng sự, 2010; Goedhuys và Veugeler, 2012; Griffith và cộng sự, 2006; Kim, 2018) Theo Kumar và cộng sự (2000), doanh nghiệp sẽ đối mặt với rủi ro nếu không đổi mới, và nghiên cứu chỉ ra rằng đổi mới là động lực quan trọng để duy trì vị thế cạnh tranh Tại Việt Nam, nghiên cứu về tác động của DMST lên hiệu quả doanh nghiệp còn hạn chế, chủ yếu dựa vào các chỉ tiêu đầu vào như R&D, chi tiêu cho đổi mới sản phẩm, tiếp thị và quy trình sản xuất Tuy nhiên, nguồn dữ liệu hiện tại chưa phản ánh đầy đủ các hình thức đổi mới mà doanh nghiệp đang áp dụng.
Phong trào đổi mới sáng tạo đã được triển khai trên toàn quốc với mục tiêu tăng cường số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) Chính phủ đặt ra mục tiêu hàng năm có từ 30-35% doanh nghiệp thực hiện DMST (Chính phủ, 2016) Việc xem xét tác động của DMST đến doanh nghiệp hiện nay là rất cần thiết, giúp chính quyền nắm bắt hiệu quả thực tế và có phương án hỗ trợ phù hợp cho khu vực doanh nghiệp.
Ngành chế biến, chế tạo đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế Việt Nam, với giá trị tăng thêm chiếm 16% GDP quốc gia vào năm 2018 Tốc độ tăng trưởng của ngành đạt 12,98% so với năm trước, thể hiện sự phát triển mạnh mẽ trong giai đoạn 2011 – 2018.
Năm 2018, ngành công nghiệp Việt Nam tăng trưởng 10,9%, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ và phù hợp với định hướng công nghiệp hóa của đất nước Ngành này cũng đã tạo ra hơn 7,1 triệu việc làm, chiếm 50% tổng lao động trong các doanh nghiệp (TCTK, 2019) Do đó, để nâng cao hiệu quả cho doanh nghiệp, cần triển khai rộng rãi chương trình đổi mới sáng tạo trong cộng đồng doanh nghiệp.
Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế hàng đầu của Việt Nam, đóng góp 22% GDP và gần 30% tổng thu ngân sách quốc gia vào năm 2018 Với hơn 203 ngàn doanh nghiệp hoạt động, thành phố chiếm 36% tổng số doanh nghiệp cả nước (Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, 2019) Sự tăng trưởng mạnh mẽ của Thành phố được ghi nhận trong Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ
Thành phố Hồ Chí Minh đặt mục tiêu trở thành trung tâm kinh tế của Đông Nam Á, vì vậy đã xây dựng các kế hoạch thúc đẩy đổi mới sáng tạo (DMST) và chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, với đóng góp 18,5% vào GRDP, được ưu tiên phát triển, đặc biệt là bốn nhóm ngành: cơ khí, chế biến lương thực và thực phẩm, hóa chất, nhựa, cao su, và điện tử Những ngành này không chỉ tạo ra giá trị gia tăng cao, chiếm 9,8% GRDP thành phố, mà còn đóng góp 50,7% giá trị gia tăng ngành công nghiệp Do đó, đề tài “đổi mới sáng tạo và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh” sẽ giúp các nhà quản lý nhận diện tác động của DMST và triển khai chính sách phù hợp cho khu vực này.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chính của nghiên cứu là đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) đối với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo, cùng với 4 nhóm ngành công nghiệp trọng điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2016.
Hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) có tác động đáng kể đến kết quả sản xuất của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh Đặc biệt, DMST ảnh hưởng tích cực đến bốn nhóm ngành trọng điểm, bao gồm chế biến lương thực, thực phẩm và đồ uống; hóa dược, cao su và plastic; sản xuất hàng điện tử; và ngành cơ khí Việc áp dụng các phương pháp và công nghệ mới giúp nâng cao hiệu quả sản xuất, cải thiện chất lượng sản phẩm và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Phân tích các yếu tố là đặc điểm của doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định triển khai DMST tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu đối tượng là các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp chế biến và chế tạo, cùng với 4 ngành công nghiệp trọng điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh trong năm 2016.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng dữ liệu gồm 2.317 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Luận văn áp dụng phương pháp PSM để đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) lên tỷ suất lợi nhuận, giá trị tăng thêm, giá trị sản xuất và năng suất nhân tố tổng hợp của doanh nghiệp Phương pháp này cho phép xác định các doanh nghiệp có xu hướng tương đồng, từ đó đánh giá mức độ ảnh hưởng của DMST Thêm vào đó, thông qua mô hình hồi quy logit, luận văn cũng phân tích các yếu tố tác động đến quyết định triển khai DMST của doanh nghiệp.
Ý nghĩa thực tiễn đề tài
Đầu tiên, luận văn sẽ hệ thống lại các lý thuyết có liên quan giữa DMST và hiệu quả doanh nghiệp
Bài viết này phân tích tác động của Đổi mới sáng tạo (DMST) đến các chỉ số hoạt động của doanh nghiệp, giúp nhà quản lý đánh giá tình hình DMST trong cộng đồng doanh nghiệp hiện nay Đồng thời, nghiên cứu cũng xác định những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định triển khai DMST trong doanh nghiệp Dựa trên các mục tiêu này, bài viết đề xuất những chính sách hỗ trợ phù hợp nhằm thúc đẩy DMST hiệu quả hơn.
Ba đề xuất một số giải pháp nhằm đánh giá hiệu quả của các chương trình hỗ trợ đổi mới sáng tạo đang triển khai tại địa phương Những giải pháp này bao gồm việc thiết lập các tiêu chí đánh giá rõ ràng, tiến hành khảo sát ý kiến của người tham gia và theo dõi kết quả thực hiện để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả của các chương trình.
Cấu trúc luận văn
Đề tài được tổ chức thành 5 chương, bắt đầu với Chương 1 - Phần mở đầu, nơi sẽ giới thiệu tổng quan về vấn đề nghiên cứu, mục tiêu, đối tượng và phương pháp nghiên cứu được áp dụng.
Chương 2 – Tổng quan lý thuyết, ở chương này nghiên cứu lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trong và ngoài nước để tổng hợp khái niệm, cách đo lường đầu ra và đầu vào của DMST, nguyên lý tác động DMST lên hiệu quả doanh nghiệp Đồng thời, chỉ ra được một số yếu tố đại diện cho đặc điểm doanh nghiệp quyết định đến việc doanh nghiệp triển khai DMST
Chương 3 – Trình bày về khung phân tích đánh giá tác động của DMST lên hiệu quả doanh nghiệp, phương pháp PSM và dữ liệu sử dụng cho đề tài này
Chương 4 – Trình bày về kết quả nghiên cứu luận văn
Chương 5 – Kết luận, hạn chế và hàm ý chính sách.
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
Khái niệm về đổi mới sáng tạo
Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 tại Việt Nam định nghĩa "đổi mới sáng tạo" là quá trình tạo ra và ứng dụng các thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ và quản lý nhằm nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội Khái niệm này không chỉ liên quan đến việc cải thiện năng suất và chất lượng mà còn tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm và hàng hóa Việc chuyển ngữ từ "innovation" sang "đổi mới sáng tạo" hay "cải tiến" trong tiếng Việt đều mang ý nghĩa tương đương, phản ánh sự thay đổi tích cực.
Schumpeter là một trong những nhà kinh tế học tiên phong trong việc định nghĩa rõ ràng về hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST), xem đây là một quá trình cách mạng hóa công nghiệp diễn ra liên tục từ bên trong doanh nghiệp Ông cho rằng sự thay đổi này không chỉ làm biến đổi cơ cấu kinh tế mà còn liên tục tạo ra giá trị mới Để tăng cường tính cạnh tranh và năng động, bất kỳ doanh nghiệp nào cũng cần phải thực hiện đổi mới.
Trong lĩnh vực kinh tế, đổi mới sáng tạo được định nghĩa là quá trình hiện thực hóa các ý tưởng và phát minh thành hàng hóa hoặc dịch vụ mà người tiêu dùng sẵn lòng chi trả Một ý tưởng chỉ được coi là đổi mới khi nó có khả năng tái sản xuất và đáp ứng nhu cầu cụ thể của cá nhân Đổi mới không chỉ liên quan đến việc ứng dụng thông tin và sáng kiến mà còn nhằm tạo ra giá trị cao hơn hoặc khác biệt từ nguồn lực hiện có Quá trình này bao gồm tất cả các bước cần thiết để biến ý tưởng mới thành những sản phẩm hữu ích.
Theo cẩm nang Olso (2018) của OECD, đổi mới chính là cải thiện các tiêu chuẩn sống có ảnh hưởng đến cá nhân, thể chế, ngành kinh tế và quốc gia Đổi mới sáng tạo (DMST) không chỉ là sự thay đổi về sản phẩm hay quy trình mà còn tạo ra giá trị mới cho người tiêu dùng Khái niệm này tương đồng với định nghĩa của hội đồng kinh tế Australia, nhấn mạnh rằng hoạt động cải tiến cần tạo ra giá trị gia tăng cho doanh nghiệp và khách hàng của họ.
DMST, theo định nghĩa của Therrien và cộng sự (2011), là một quá trình phức tạp liên quan đến các hoạt động thay đổi trong doanh nghiệp, bao gồm sản phẩm, quy trình sản xuất, quản lý và chức năng hoạt động Các ý tưởng về DMST được triển khai dựa trên năng lực đổi mới của doanh nghiệp Evangelista R và Baregheh (2009) chỉ ra rằng hoạt động này trải qua nhiều giai đoạn, trong đó các đơn vị chuyển đổi ý tưởng thành sản phẩm, quy trình và dịch vụ cải tiến Việc hiện thực hóa ý tưởng cải tiến tạo ra sự khác biệt giữa các đơn vị thực hiện và không thực hiện DMST, từ đó tăng tính cạnh tranh và dẫn đến thành công, lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Theo Afuah (2003), đổi mới sáng tạo (DMST) bao gồm phát minh và thương mại hóa, tức là việc áp dụng kiến thức để tạo ra sản phẩm đáp ứng nhu cầu khách hàng Fagerberg (2004) phân biệt giữa sáng chế và DMST, trong đó sáng chế là những ý tưởng hoặc quy trình mới để thiết kế và sản xuất sản phẩm, còn DMST là quá trình thương mại hóa những ý tưởng đó Hai khái niệm này có sự khác biệt về thời gian, phản ánh quá trình chuyển đổi từ ý tưởng đến thực tế Để chuyển đổi phát minh thành DMST, cần kết hợp kiến thức, kỹ năng và nguồn tài nguyên của doanh nghiệp Thực tế cho thấy, hoạt động đổi mới thường dẫn đến những thay đổi trong cuộc sống, mang lại lợi ích kinh tế lớn hơn so với lần phát minh đầu tiên.
Đổi mới sáng tạo (DMST) là quá trình mà doanh nghiệp thực hiện các thay đổi nhằm đạt được kết quả tích cực hơn so với trước khi triển khai DMST không chỉ dừng lại ở ý tưởng hay sáng chế mà cần được hiện thực hóa để đáp ứng nhu cầu thị trường và người tiêu dùng Hoạt động này có thể diễn ra dưới nhiều hình thức, bao gồm cả công nghệ và các lĩnh vực khác.
Ngành kinh tế trọng điểm
Theo lý thuyết tăng trưởng không cân đối của Hirchman (1958), để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế tại các quốc gia đang phát triển, cần đầu tư vào các ngành trọng điểm có khả năng lan tỏa mạnh mẽ Tại Việt Nam, bốn tiêu chí xác định ngành kinh tế trọng điểm bao gồm: độ lan tỏa kinh tế, thể hiện mối liên kết ngược với các ngành khác; độ nhạy, cho thấy tầm quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu đầu vào; độ phụ thuộc vào nhập khẩu, phản ánh mức độ phụ thuộc vào nguồn hàng từ nước ngoài; và độ lan tỏa về môi trường, nhằm hạn chế tác động tiêu cực đến môi trường trong quá trình phát triển kinh tế.
Phân loại về hoạt động đổi mới sáng tạo
Theo Schumpeter, đổi mới sáng tạo (DMST) bao gồm năm dạng chính Đầu tiên, là việc giới thiệu hàng hóa mới mà người tiêu dùng chưa quen thuộc hoặc có sự thay đổi đáng kể về chất lượng sản phẩm hiện có Thứ hai, là doanh nghiệp áp dụng quy trình sản xuất mới mà trước đây chưa từng thử nghiệm Tiếp theo, doanh nghiệp có thể gia nhập hoặc chuyển sang thị trường tiêu thụ mới Dạng thứ tư là việc thu nhận và phát triển nguồn cung cấp mới về nguyên liệu hoặc đầu vào, bất kể nguồn này đã tồn tại hay được doanh nghiệp phát hiện Cuối cùng, là việc thiết lập tổ chức mới trong bất kỳ ngành nghề nào nhằm tạo ra vị thế độc quyền hoặc phá vỡ vị thế độc quyền hiện có trên thị trường (Trích từ Alin, 2008).
Theo Schumper, đổi mới sáng tạo được phân loại thành hai dạng chính: đổi mới liên tục và đổi mới sáng tạo mang tính căn bản Đổi mới liên tục là việc cải tiến sản phẩm, dịch vụ hiện có bằng cách bổ sung ít nhất một tính năng mới, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh Ngược lại, đổi mới sáng tạo mang tính căn bản liên quan đến việc tạo ra sản phẩm, dịch vụ hoàn toàn mới hoặc thay đổi cấu trúc sản phẩm một cách đột phá Loại đổi mới này có thể được thực hiện thông qua ba cấp độ: đổi mới sản phẩm với ý tưởng và công nghệ mới, đổi mới quy trình trong sản xuất và giao vận, hoặc kết hợp cả hai hình thức.
Cẩm nang Oslo (2018) đã được tái bản lần thứ 4 với mục tiêu thiết lập tiêu chuẩn cho việc khảo sát và nghiên cứu đổi mới sáng tạo Phiên bản trước bao gồm 4 dạng DMST, bao gồm sản phẩm, quy trình, tổ chức và tiếp thị Tuy nhiên, trong lần xuất bản này, nội dung chỉ tập trung vào hai dạng chính là sản phẩm và quy trình kinh doanh nhằm thuận lợi cho việc xây dựng tiêu chuẩn đo lường DMST sản phẩm được định nghĩa là việc tạo ra một phiên bản mới hoặc cải tiến của hàng hóa, sản phẩm, dịch vụ và được giới thiệu ra thị trường.
Đổi mới quy trình kinh doanh liên quan đến việc thay đổi các phương pháp sản xuất, từ thiết kế đến phân phối sản phẩm Đổi mới sáng tạo trong tổ chức áp dụng các phương thức làm việc mới nhằm tăng hiệu quả kinh doanh và giảm chi phí quản lý Trong khi đó, đổi mới sáng tạo trong tiếp thị bao gồm việc sử dụng các phương pháp tiếp thị mới để cải thiện hình ảnh sản phẩm, phương thức bán hàng, vị trí sản phẩm và chính sách giá cả Mục tiêu của đổi mới tiếp thị là phục vụ nhu cầu người tiêu dùng tốt hơn, khám phá thị trường mới và tăng doanh số bán hàng cho doanh nghiệp.
Theo Abernathy và Clark (1985), đổi mới sáng tạo bao gồm bốn dạng chính Đầu tiên là đổi mới về kiến trúc, liên quan đến việc thiết kế và thay đổi quy trình quản lý hoặc sản xuất để hình thành một kiến trúc mới cho doanh nghiệp Thứ hai là đổi mới thích hợp trong từng giai đoạn thị trường, tạo ra thị trường mới bằng cách tận dụng công nghệ hiện có Tiếp theo là đổi mới thường xuyên, bao gồm những thay đổi liên tục có tác động tích cực đến chi phí và hiệu suất sản phẩm Cuối cùng, đổi mới cách mạng, là sự thay đổi lớn về công nghệ hoặc sản phẩm, tạo ra đột phá trong ngành hoặc hình thành ngành công nghiệp mới trên thị trường.
Đo lường hoạt động đổi mới sáng tạo
2.4.1 Đo lường đầu vào của đổi mới sáng tạo
Hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) có nhiều hình thức, dẫn đến việc xác định đầu vào trở nên đa dạng và phức tạp Cẩm nang Oslo (2018) đã phân loại tám loại hoạt động chính liên quan đến DMST của doanh nghiệp, bao gồm nghiên cứu và phát triển (R&D), kỹ thuật và thiết kế sáng tạo, tiếp thị, sở hữu trí tuệ, đào tạo lao động, phần mềm và cơ sở dữ liệu, mua và thuê tài sản hữu hình, cùng với đổi mới quản lý Mặc dù những hoạt động này có thể không luôn hướng tới mục tiêu DMST rõ ràng, chúng vẫn là cơ sở hữu ích để xây dựng khung đo lường cho đầu vào DMST.
R&D (Nghiên cứu và Phát triển) là những hoạt động sáng tạo và có hệ thống nhằm nâng cao kiến thức cho doanh nghiệp, bao gồm nghiên cứu cơ bản, ứng dụng và thực nghiệm Hoạt động này tạo ra kiến thức nội bộ, giúp đổi mới sản phẩm và thường được đánh giá qua chi tiêu cho R&D, một chỉ tiêu quan trọng thể hiện sự đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Tuy nhiên, không phải tất cả kết quả của R&D đều được ứng dụng thực tế, dẫn đến việc có thể đánh giá quá mức hoặc quá thấp về đổi mới sáng tạo R&D thường tập trung vào các doanh nghiệp quy mô lớn, vì vậy chỉ tiêu này phù hợp hơn với họ Kỹ thuật và thiết kế sáng tạo có mối liên hệ chặt chẽ với R&D, trong đó kỹ thuật liên quan đến lập kế hoạch, kiểm tra và lắp đặt, còn thiết kế sáng tạo liên quan đến phát triển chức năng mới và cải tiến hình thức sản phẩm hoặc quy trình quản lý.
Sở hữu trí tuệ là việc bảo vệ và khai thác kiến thức thông qua R&D và các hoạt động sáng tạo, bao gồm việc đăng ký pháp lý cho ý tưởng, phát minh, sản phẩm hoặc quy trình mới Các loại sở hữu trí tuệ bao gồm bằng sáng chế, thương hiệu, bản quyền và kiểu dáng công nghiệp Bằng sáng chế giúp các nhà phát minh thu hồi chi phí đầu tư sáng tạo và khuyến khích phát triển sản phẩm mới Tuy nhiên, không phải tất cả các sáng kiến đều được cấp bằng sáng chế, do yêu cầu tiết lộ thông tin đầy đủ khi xin cấp Nhiều doanh nghiệp chọn không đăng ký bằng sáng chế để bảo vệ bí mật công nghệ, dẫn đến việc dữ liệu không phản ánh đầy đủ hoạt động đổi mới sáng tạo của họ.
Các chỉ số đo lường đầu vào như R&D, sở hữu trí tuệ và bằng sáng chế có nhược điểm, vì vậy các chỉ số về chi phí đào tạo, tiếp thị và đầu tư vào phần mềm, cơ sở dữ liệu có thể khắc phục hạn chế và thể hiện nỗ lực của doanh nghiệp trong đổi mới sáng tạo (DMST) Chi phí đào tạo là khoản kinh phí doanh nghiệp chi trả để nhân viên cập nhật kiến thức và kỹ năng cần thiết cho sản phẩm và quy trình Đào tạo là yếu tố thiết yếu để tiến hành DMST Chi phí tiếp thị liên quan đến nghiên cứu thị trường, định giá sản phẩm, quảng cáo và xây dựng chiến lược để giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng, hỗ trợ doanh nghiệp xác định thị trường và đổi mới sản phẩm Ngoài ra, các chi phí khác như đổi mới quản lý, thay đổi tổ chức hoặc đầu tư vào tài sản hữu hình cũng góp phần tạo ra giá trị khác biệt cho quy trình kinh doanh và sản phẩm.
2.4.2 Đầu ra của đổi mới sáng tạo Đầu ra của DMST phụ thuộc vào giai đoạn lập kế hoạch và xác định mục tiêu để doanh nghiệp tiến hành đổi mới Các mục tiêu của doanh nghiệp khi tiến hành DMST thường liên quan đến kinh tế là việc tăng doanh số, tạo ra lợi nhuận, tiết kiệm chi phí hay cải thiện năng suất; hay mục tiêu khác như mức độ ảnh hưởng đến nền kinh tế, xã hội, môi trường, hay việc doanh nghiệp thay đổi thị trường, đối tượng khách hàng (OECD, 2018)
Nghiên cứu của Roger (1998) đã xác định các chỉ tiêu đo lường đầu ra của đổi mới sáng tạo (DMST), bao gồm hiệu quả hoạt động, sản xuất, tài chính, lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu thuần, hiệu suất cổ phần, thị trường vốn và năng suất Tuy nhiên, các chỉ số kinh tế này có thể không phản ánh chính xác hoạt động DMST do sự thay đổi không nhất quán Bosworth và Kells (1998) đã chỉ ra rằng lợi nhuận có thể bị thiên lệch bởi quy mô, dẫn đến việc các doanh nghiệp kém hiệu quả vẫn có thể đạt lợi nhuận dương Do đó, một giải pháp khả thi là sử dụng tỷ lệ lợi nhuận, so sánh lợi nhuận với các chỉ số quy mô như tổng tài sản, tài sản ròng hoặc doanh thu của doanh nghiệp.
Đầu ra đổi mới sáng tạo (DMST) có thể được đo lường qua số lượng sản phẩm mới hoặc cải tiến mà doanh nghiệp giới thiệu, tuy nhiên, việc phân loại này mang tính chủ quan và không phản ánh đúng giá trị của đổi mới Do đó, một cách chính xác hơn để đo lường là tỷ lệ phần trăm doanh thu từ sản phẩm mới và cải tiến Bên cạnh đó, DMST cũng có thể được đánh giá thông qua các chỉ tiêu sở hữu trí tuệ như bằng sáng chế, nhãn hiệu thương mại và thiết kế, bởi vì việc đăng ký quyền sở hữu trí tuệ chứng tỏ doanh nghiệp đã tạo ra kiến thức mới có giá trị (Roger, 1998; OECD, 2018).
Nguyên lý về đổi mới sáng tạo tác động lên hiệu quả doanh nghiệp
Trong mô hình truyền thống về hành vi doanh nghiệp, đổi mới sáng tạo (DMST) có thể tạm thời nâng cao khả năng cạnh tranh và kết quả kinh doanh Việc giới thiệu sản phẩm đổi mới tạo ra sức mạnh độc quyền tạm thời, giúp doanh nghiệp tăng thị phần cho đến khi các yếu tố như kiến thức và nghiên cứu phát triển (R&D) bị khuếch tán và bị sao chép Theo Schumpeter, sự đổi mới trong hàng hóa, quy trình sản xuất và tổ chức có khả năng phá vỡ cấu trúc kinh tế hiện tại, thay thế bằng những phương thức mới hiệu quả hơn Doanh nghiệp cần sở hữu năng lực công nghệ và tích lũy kiến thức để thích ứng với thay đổi thị trường, từ đó đảm bảo sự tồn tại và phát triển bền vững.
Geroski và Machin (1992) đưa ra hai quan điểm về ảnh hưởng của DMST lên doanh nghiệp Quan điểm đầu tiên cho rằng doanh nghiệp áp dụng DMST sẽ có tỷ suất lợi nhuận cao hơn so với những đơn vị không áp dụng Tuy nhiên, lợi thế độc quyền không thể duy trì lâu dài và cần phải đổi mới liên tục Quan điểm thứ hai nhấn mạnh rằng quá trình thực hiện DMST cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Đổi mới sáng tạo (DMST) bao gồm việc tổ chức các hoạt động nghiên cứu và tích hợp vào doanh nghiệp, giúp chuyển hóa các đột phá khoa học thành hàng hóa và dịch vụ mới Quá trình R&D không chỉ nâng cao năng lực nội bộ mà còn tạo ra sự linh hoạt, giúp doanh nghiệp thích ứng nhanh chóng với biến động thị trường Sự khác biệt trong năng lực nội bộ giữa các doanh nghiệp có và không áp dụng DMST là rất rõ ràng, dẫn đến lợi nhuận cao hơn và tăng trưởng nhanh hơn Trong mô hình tăng trưởng nội sinh, sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào mức độ công nghệ và đổi mới, với DMST trong khoa học và công nghệ là chìa khóa để vượt qua giới hạn tăng trưởng (Grossman và Helpman, 1994).
Mô hình tiến hóa của doanh nghiệp cho thấy rằng hành vi của các doanh nghiệp được hình thành từ việc tích lũy kiến thức qua học hỏi và thói quen Tuy nhiên, để duy trì ưu thế cạnh tranh, doanh nghiệp không thể chỉ dựa vào những kiến thức và thói quen cũ Đổi mới là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp phát triển và thúc đẩy hoạt động kinh tế bền vững Hơn nữa, đổi mới sáng tạo (DMST) còn đảm bảo sự tồn tại lâu dài của doanh nghiệp trong thị trường cạnh tranh.
Griliches (1979) đã chỉ ra rằng sự đóng góp của hoạt động nghiên cứu và đầu tư vào tăng trưởng TFP không chỉ phụ thuộc vào nỗ lực R&D mà còn vào mức độ vốn kiến thức mà doanh nghiệp sở hữu Đầu vào DMST có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến bộ công nghệ của doanh nghiệp, từ đó tác động đến TFP (Ngô Hoàng Thảo Trang, 2017; Griliches, 1979).
Hình 2 1: Cơ chế tác động của R&D đến TFP doanh nghiệp
Nguồn: tổng hợp từ các nghiên cứu trước Đầu vào đổi mới
Tiến bộ công nghệ TFP doanh nghiệp
Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm có liên quan
2.6.1 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm về đổi mới sáng tạo và hiệu quả hoạt động doanh nghiệp
Mô hình CDM, được phát triển từ nghiên cứu của Crepon – Duget – Mairesse (1998), là công cụ quan trọng để đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) lên tăng trưởng năng suất Mô hình này bao gồm bốn giai đoạn chính: đầu tiên là xác định quy mô đầu tư cho đổi mới, tiếp theo là phân tích quyết định DMST và cường độ đổi mới Giai đoạn thứ ba tập trung vào đầu ra của đổi mới sáng tạo, liên kết giữa nỗ lực và kết quả, và cuối cùng là nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu ra DMST và hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp Mô hình CDM đã được ứng dụng rộng rãi trong nhiều nghiên cứu thực nghiệm, khẳng định tính toàn diện và chặt chẽ của nó trong việc phân tích quá trình đổi mới.
Nhiều nghiên cứu thực nghiệm sử dụng phương pháp CDM đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa R&D, kiến thức mới và đổi mới sáng tạo (DMST) với kết quả kinh tế Theo Goedhuys và Veugeler (2012), đổi mới là yếu tố quan trọng cho tăng trưởng doanh số bán hàng tại Brazil, đặc biệt khi kết hợp DMST cả về sản phẩm và quy trình Griffith và cộng sự (2006) cho thấy việc tạo ra sản phẩm mới ảnh hưởng đáng kể đến năng suất doanh nghiệp ở Pháp, Đức và Anh, nhưng tại Đức, mối liên hệ này lại nghịch chiều Nghiên cứu của Duguet (2006) phân tích tác động của đổi mới liên tục và đổi mới căn bản lên tăng trưởng TFP doanh nghiệp ở Pháp, cho thấy chỉ đổi mới căn bản có tác động đáng kể đến tốc độ tăng TFP Các yếu tố quyết định DMST khác nhau, trong đó đổi mới căn bản phát sinh từ kiến thức phức tạp, trong khi đổi mới gia tăng dựa vào nghiên cứu không chính thức và ứng dụng công nghệ từ doanh nghiệp khác Nghiên cứu của Chudnovsky và cộng sự (2006) tại Argentina cho thấy doanh nghiệp thực hiện đổi mới có năng suất cao hơn Quy mô doanh nghiệp cũng là yếu tố ảnh hưởng đến khả năng triển khai hoạt động đổi mới Nghiên cứu khuyến nghị xây dựng chính sách thúc đẩy R&D và chuyển giao công nghệ, đồng thời loại bỏ rào cản cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để nâng cao năng lực cạnh tranh.
Một số nghiên cứu đã áp dụng kỹ thuật ghép đôi (PSM) để ước lượng hiệu quả trung bình của quyết định đổi mới sáng tạo (DMST) Phương pháp PSM không yêu cầu các thông số kỹ thuật phức tạp, mà chỉ dựa vào các đặc điểm của đơn vị không bị ảnh hưởng bởi đổi mới Tác động của DMST lên kết quả doanh nghiệp được ước lượng thông qua việc so sánh trọng số trung bình giữa nhóm đổi mới và không đổi mới, với trọng số được xác định từ việc bắt cặp các điểm số xu hướng đổi mới sáng tạo Phương pháp này phù hợp với mô hình nhân quả, yêu cầu ít thông tin dữ liệu hơn so với mô hình cấu trúc, và thích hợp với dữ liệu có sẵn trong luận văn.
Kannebley và cộng sự (2010) đã áp dụng kỹ thuật PSM để đánh giá tác động của đổi mới quy trình và sản phẩm lên kết quả hoạt động của doanh nghiệp trong ngành sản xuất tại Brazil, cho thấy đổi mới có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động, tăng cường lao động, doanh thu thuần và năng suất trong hai năm sau khi đổi mới Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đổi mới quy trình mang lại hiệu quả cao hơn so với đổi mới sản phẩm, và khuyến nghị doanh nghiệp nên kết hợp các hình thức đổi mới để nâng cao khả năng cạnh tranh và phát triển bền vững Trong khi đó, Cozza và cộng sự (2012) đã nghiên cứu mối liên hệ giữa đổi mới sáng tạo (DMST) và lợi nhuận, tăng trưởng của doanh nghiệp trong ngành công nghiệp sử dụng công nghệ trung bình và cao tại Italia, sử dụng mô hình logit để xác định rằng quy mô doanh nghiệp, cường độ xuất khẩu, trình độ lao động và tỷ lệ tài sản cố định đều có tác động tích cực đến khả năng đổi mới của doanh nghiệp Kết quả cho thấy, những doanh nghiệp có công nghệ trung bình và cao đạt được hiệu quả cao hơn so với những doanh nghiệp không thực hiện đổi mới.
Năm 2008, nghiên cứu tại Chile đã áp dụng nhiều kỹ thuật tham số và bán tham số như hồi quy phân vị, PSM với ước lượng cận gần nhất (NNM) và phân tích Quantile Treatment Effects (QTE) để đánh giá mối quan hệ giữa đổi mới sáng tạo trong quy trình và tốc độ tăng trưởng doanh số bán hàng Tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong việc đo lường đổi mới quy trình và khả năng nội sinh tiềm ẩn Hơn nữa, nghiên cứu đề xuất cho các nghiên cứu tiếp theo cần tập trung vào hành vi kiên trì đổi mới và sự kết hợp giữa các hình thức đổi mới để nâng cao hiệu quả hoạt động.
Tại Việt Nam, tác động của đổi mới sáng tạo (DMST) trong doanh nghiệp đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu Một số tác giả đã tập trung vào lý thuyết DMST và nghiên cứu thực nghiệm để chỉ ra tác động của nó đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp Nghiên cứu của Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân (2013) đã phân tích thực trạng DMST của doanh nghiệp Việt Nam, bao gồm nhận thức và khả năng đổi mới Nguyễn Mạnh Quân và Nguyễn Hồng Việt (2005) đã trình bày lý thuyết đổi mới và ứng dụng nó trong đánh giá công nghệ tại Việt Nam Một số nghiên cứu định lượng về DMST cũng đã được thực hiện, như nghiên cứu của Ngô Hoàng Thảo Trang (2017) cho thấy không có mối liên hệ giữa DMST chung và năng suất, nhưng đổi mới quy trình có tác động tích cực đến năng suất Phạm và Hồ (2017) chỉ ra rằng các doanh nghiệp đổi mới có năng suất cao hơn so với những đơn vị không đổi mới, tuy nhiên, tác động này còn phụ thuộc vào vị trí địa lý, với năng suất tại TP.HCM và Hà Nội thấp hơn do chi phí cao hơn Nghiên cứu cũng cho thấy quy mô doanh nghiệp nhỏ và vừa không có sự khác biệt về tác động đổi mới lên năng suất, và DMST ở các doanh nghiệp trong lĩnh vực cao không ảnh hưởng đến năng suất.
Trong luận văn này, nghiên cứu sử dụng dữ liệu từ Điều tra trình độ công nghệ và Tổng điều tra kinh tế năm 2017 do Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện Mục tiêu là đánh giá ảnh hưởng của đổi mới sáng tạo (DMST) đến hiệu quả hoạt động doanh nghiệp thông qua bộ dữ liệu điều tra mới tại địa phương, sử dụng phương pháp Propensity Score Matching (PSM) Nghiên cứu này sẽ đóng góp vào việc hiểu rõ mối liên hệ giữa DMST và hiệu quả doanh nghiệp tại Việt Nam.
2.6.2 Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm về mối liên hệ giữa đặc điểm doanh nghiệp ảnh hưởng đến hoạt động đổi mới sáng tạo
Theo Schumpeter (1942), chỉ những doanh nghiệp lớn mới có khả năng đầu tư vào R&D và do đó có xu hướng thúc đẩy công nghệ nhiều hơn so với doanh nghiệp nhỏ Doanh nghiệp lớn chi tiêu nhiều hơn cho R&D để kích thích đổi mới, từ đó mang lại lợi nhuận cao hơn Ngược lại, doanh nghiệp nhỏ thường không thực hiện nhiều hoạt động đổi mới (Trích trong Hany, 2015).
Nghiên cứu của Bhattacharya và Bloch (2004) cho thấy hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) của doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Australia giảm dần theo quy mô, sử dụng mô hình hồi quy probit và tobit Tương tự, Mancusi và cộng sự (2011) đã áp dụng mô hình hồi quy Logit để chỉ ra rằng quy mô doanh nghiệp có mối quan hệ tích cực với khả năng đổi mới sản phẩm Bên cạnh đó, Kleinkecht (1989) chỉ ra rằng các doanh nghiệp nhỏ thường phải đối mặt với nhiều rào cản hơn so với doanh nghiệp lớn, bao gồm khó khăn về vốn, dự đoán cung cầu thị trường, chi phí đầu tư đổi mới, và tìm kiếm thông tin về công nghệ cũng như nhân lực chất lượng.
Sherfer và Frenkel (2005) thực hiện nghiên cứu trên 209 doanh nghiệp ngành công nghiệp ở Bắc Israel để phân tích mối quan hệ giữa hoạt động R&D và các đặc điểm doanh nghiệp như quy mô, ngành nghề, loại hình sở hữu và vị trí Nghiên cứu sử dụng phân tích Anova để kiểm tra ảnh hưởng của quy mô lên tỷ lệ đầu tư R&D, cùng với kiểm định T-test để so sánh mức đầu tư R&D giữa các cặp doanh nghiệp cùng ngành nghề và loại hình sở hữu Kết quả cho thấy không có mối liên hệ đồng biến giữa quy mô và tỷ lệ đầu tư R&D, và thú vị là các doanh nghiệp nhỏ có xu hướng đầu tư vào R&D nhiều hơn so với các doanh nghiệp lớn.
Nghiên cứu của Falk (2008) cho thấy rằng các doanh nghiệp sở hữu nước ngoài tại 12 quốc gia Châu Âu có mức độ đổi mới cao hơn so với doanh nghiệp trong nước Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp có vốn nước ngoài thường thuộc nhóm quy mô lớn nhất, điều này góp phần tạo ra sự khác biệt giữa các loại hình doanh nghiệp Tương tự, nghiên cứu thực nghiệm của Baldwin và cộng sự cũng đánh giá tác động của sở hữu nước ngoài đến đổi mới sáng tạo (DMST) tại Canada.
Nghiên cứu cho thấy rằng các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thực hiện đổi mới quy trình với tỷ lệ cao hơn 50% so với doanh nghiệp trong nước Tuy nhiên, không có sự khác biệt đáng kể trong hoạt động đổi mới sản phẩm giữa hai khu vực này.
Kroll và Kou (2018) đã nghiên cứu mối quan hệ giữa doanh nghiệp nhà nước và hiệu suất đổi mới sáng tạo (DMST) trong ngành sản xuất tại Trung Quốc trong giai đoạn 2004 Nghiên cứu này chỉ ra rằng doanh nghiệp sở hữu vốn nhà nước có ảnh hưởng đáng kể đến đầu ra của DMST, góp phần làm rõ vai trò của khu vực công trong việc thúc đẩy đổi mới trong nền kinh tế.
Nghiên cứu năm 2014 đã chỉ ra rằng việc kiểm soát nhà nước đối với các doanh nghiệp sử dụng bằng sáng chế có tác động tiêu cực đến khả năng đổi mới Đặc biệt, các khu vực có kế hoạch hóa cao như Đông Bắc và Trung Quốc vẫn gặp khó khăn trong việc thúc đẩy đầu ra đổi mới.
Tuổi doanh nghiệp được xác định từ thời điểm thành lập và phản ánh thời gian tồn tại và hoạt động của đơn vị Các doanh nghiệp lâu năm thường sở hữu lượng kiến thức phong phú hơn so với doanh nghiệp trẻ Tuy nhiên, doanh nghiệp trẻ lại có lợi thế về sự nhanh nhạy trong việc đổi mới, ít bị ảnh hưởng bởi các tổ chức trì trệ và các chi phí ngầm (OECD, 2018).
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Khung phân tích
Nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của đổi mới sáng tạo (DMST) đối với hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh Khung phân tích được xây dựng dựa trên các đặc điểm của doanh nghiệp, nhằm xem xét mối quan hệ giữa DMST và các chỉ tiêu như năng suất nhân tố tổng hợp, giá trị gia tăng, giá trị sản xuất và tỷ suất lợi nhuận, sử dụng kỹ thuật so sánh điểm xu hướng PSM.
Hình 3 1: Mô hình phân tích tác động DMST lên kết quả hoạt động doanh nghiệp bằng kỹ thuật PSM
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ lược khảo lý thuyết
Giá trị sản xuất gia tăng
Mô hình phân tích
Dựa trên lý thuyết và các nghiên cứu trước đây, mô hình phân tích tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) đến hiệu quả doanh nghiệp được xây dựng với các yếu tố chính để đánh giá mối quan hệ giữa DMST và thành công của doanh nghiệp.
Mô hình nghiên cứu được thể hiện qua phương trình Yi = Y0i = βo + γ + ∑kβkXi + ui, trong đó Yi đại diện cho hiệu quả của doanh nghiệp i, bao gồm các chỉ số như năng suất nhân tố tổng hợp, tỷ suất lợi nhuận, giá trị gia tăng và giá trị sản xuất Biến Di mô tả sự triển khai hoạt động Đổi mới sáng tạo (DMST) của doanh nghiệp i, với giá trị 1 nếu có triển khai và 0 nếu không Tập hợp Xi chứa các đặc điểm khác nhau của doanh nghiệp.
Phương pháp kết nối điểm xu hướng PSM
Nghiên cứu đã áp dụng phương pháp kết nối điểm xu hướng PSM để đánh giá tác động của hoạt động đổi mới sáng tạo (DMST) lên hiệu quả doanh nghiệp, dựa trên các nghiên cứu trước đó (Santi và cộng sự, 2016; Kannebly và cộng sự, 2010; Cozza và cộng sự, 2012; Kim, 2018) Mục tiêu của nghiên cứu là phân tích ảnh hưởng của sự đổi mới sáng tạo đối với tổng năng suất yếu tố (TFP), giá trị gia tăng, giá trị sản xuất và tỷ suất lợi nhuận.
PSM bao gồm hai giai đoạn chính: đầu tiên, xây dựng mô hình logit để tính xác suất doanh nghiệp triển khai đổi mới sáng tạo (DMST), trong đó yêu cầu thỏa mãn tính cân bằng của điểm số xu hướng Các giá trị từ ước tính logit sẽ giúp ghép các nhà đổi mới với những người không đổi mới Tiếp theo, cần tính toán hiệu quả can thiệp trung bình của hoạt động DMST đối với tăng trưởng doanh nghiệp Tất cả các biến liên quan đến xác suất DMST sẽ được quan sát và đưa vào biến X Để đạt được kết quả chính xác, cần đảm bảo đầy đủ đặc điểm của các đơn vị doanh nghiệp trong mô hình và không bị ảnh hưởng bởi việc triển khai DMST.
Bước 1: Xác định điểm xu hướng (Propensity score)
Dựa trên dữ liệu từ điều tra doanh nghiệp, nghiên cứu đã tiến hành hồi quy logit để xác định điểm xu hướng và tính xác suất triển khai hoạt động đổi mới sáng tạo.
X là một đặc điểm quan trọng của doanh nghiệp, không bị tác động bởi hoạt động đổi mới sáng tạo P(X) thể hiện xác suất thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo, chủ yếu dựa vào những đặc điểm riêng biệt của doanh nghiệp.
Những giả định cần thiết để xác định hiệu quả của hoạt động triển khai DMST (Khandker và cộng sự, 2010), bao gồm:
- Giả định tính độc lập có điều kiện = (Yoi, Y1i) ┴ Di│X (5)
- Giả định vùng hỗ trợ chung = 0 < Pr (Di =1│X < 1) (6)
Phương trình (5) giả định rằng X không bị ảnh hưởng bởi việc triển khai, trong khi một số yếu tố có thể kiểm soát được và không ảnh hưởng đến hiệu quả của đơn vị Nếu các đặc tính không quan sát tác động đến tình trạng đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp, tính độc lập sẽ không còn đúng và phương pháp PSM sẽ không phù hợp.
Phương trình (6) giả định về hỗ trợ chung, cho thấy rằng phân phối xác suất của nhóm điều trị và nhóm đối chứng phải có cùng vùng hỗ trợ Hiệu quả của phương pháp PSM phụ thuộc vào số lượng quan sát trong nhóm đổi mới sáng tạo, cần đủ lớn và tương đương với nhóm còn lại để xác định vùng hỗ trợ chung Những quan sát có điểm xu hướng khác biệt quá lớn hoặc không nằm trong vùng hỗ trợ chung sẽ bị loại bỏ Việc loại bỏ những quan sát có giá trị có thể tạo ra sự khác biệt giữa hai nhóm sẽ ảnh hưởng đến mức độ can thiệp và có thể dẫn đến sai số trong quá trình phân tích dữ liệu.
Điểm xu hướng cần đáp ứng hai giả định và có nhiều biến số đo lường các đặc điểm để có thể tính toán hiệu quả doanh nghiệp ảnh hưởng đến DMST.
Bước 2: Để phân tích hiệu quả doanh nghiệp, cần tìm ra sự khác biệt giữa các nhóm tham gia và không tham gia với cùng một điểm xu hướng Phương trình (7) thể hiện ATT, cho thấy ảnh hưởng của hiệu quả kinh tế thông qua kỹ thuật ước lượng này.
ATT là tác động trung bình của việc triển khai hoạt động đổi mới sáng tạo, trong đó Y1i và Y0i đại diện cho tình huống phản thực hiệu quả doanh nghiệp ở nhóm tham gia và không tham gia P(X) │Di =1 là điểm xu hướng của các doanh nghiệp đã triển khai đổi mới sáng tạo với các đặc điểm Xi.
So sánh các kỹ thuật đối chiếu:
So sánh cận gần nhất (Nearest Neighbour Matching) là công cụ ước lượng khớp điểm đơn giản, giúp so sánh các khớp lân cận gần nhất Trong phương pháp này, các doanh nghiệp thuộc nhóm đối chứng sẽ được ghép cặp với một doanh nghiệp trong nhóm thực hiện đổi mới sáng tạo, dựa trên điểm xu hướng gần nhất.
Kỹ thuật so sánh trong phạm vi hay bán kính (Caliper and Radius Matching) giúp khắc phục nhược điểm của phương pháp so sánh cận gần nhất khi các điểm xu hướng cách xa nhau Phương pháp này thực hiện bằng cách thiết lập điều kiện hỗ trợ, trong đó doanh nghiệp từ nhóm so sánh sẽ được ghép cặp với doanh nghiệp trong nhóm can thiệp có điểm xu hướng gần nhất và nằm trong một phạm vi nhất định Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp có triển khai đổi mới sáng tạo bị loại trừ cao, điều này có thể dẫn đến sai số trong chọn mẫu tăng lên.
Phương pháp so sánh phân tầng (Stratification and Interval Matching) chia hỗ trợ chung của điểm xu hướng thành các tập hợp khoảng tầng Mục đích của phương pháp này là tính toán tác động trong mỗi khoảng bằng cách so sánh sự khác biệt trung bình về kết quả giữa nhóm có can thiệp và nhóm so sánh.
So sánh Kernel (Kernel and Local Linear Matching) cho phép các doanh nghiệp trong nhóm đổi mới sáng tạo được đánh giá dựa trên trọng số trung bình của nhóm kiểm soát Trọng số này được xác định bằng tỷ lệ khoảng cách điểm xu hướng giữa nhóm triển khai và nhóm kiểm soát.
Các biến phụ thuộc và kiểm soát
Giá trị tăng thêm (VA) là kết quả cuối cùng của quá trình sản xuất, thể hiện giá trị mới được tạo ra trong việc sản xuất sản phẩm vật chất và dịch vụ của doanh nghiệp.
Thu nhập của người lao động
Khấu hao tài sản cố định
Thu nhập của người lao động là tổng số tiền mà doanh nghiệp chi trả, bao gồm tất cả các khoản bảo hiểm và phúc lợi mà người lao động được hưởng.
Khấu hao tài sản cố định là sự giảm giá trị của tài sản cố định được sử dụng trong hoạt động sản xuất trong một khoảng thời gian nhất định Mức khấu hao này được thực hiện theo quy định trong Thông tư hướng dẫn về chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao tài sản cố định của Bộ Tài chính.
Thuế sản xuất là các loại thuế áp dụng cho hoạt động sản xuất, bao gồm thuế môn bài, thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế xuất khẩu Tuy nhiên, thuế lợi nhuận và thuế thu nhập doanh nghiệp liên quan đến sản xuất không nằm trong danh mục này.
Thặng dư sản xuất là giá trị phản ánh tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh, trước khi thực hiện các khoản chi trả hoặc nhận thu nhập từ sở hữu Nó cũng được hiểu là giá trị lãi hoặc lỗ trong quá trình sản xuất.
Phương pháp tính toán giá trị tăng thêm của doanh nghiệp bao gồm hai phương pháp chính: phân phối và sản xuất (TCTK, 2018) Nghiên cứu này lựa chọn phương pháp sản xuất dựa trên dữ liệu sẵn có, với công thức cụ thể được áp dụng.
Giá trị sản xuất (GO)
Chi phí trung gian (IC) Trong đó,
Giá trị sản xuất (GO) đại diện cho tổng giá trị của sản phẩm vật chất và dịch vụ do các đơn vị sản xuất tạo ra, theo TCTK (2018) Để tính toán GO cho từng ngành công nghiệp cụ thể, cần áp dụng công thức phù hợp.
Doanh thu thuần về bán hàng và cung cấp dịch vụ
Trợ cấp sản phẩm (nếu có) +
Chênh lệch cuối kỳ, đầu kỳ thành phẩm tồn kho, hàng gửi bán và các chi phí dở dang còn lại khác
Chi phí trung gian (IC) là tổng hợp tất cả chi phí liên quan đến sản phẩm vật chất và dịch vụ trong quá trình sản xuất, được tính vào giá thành sản phẩm Nghiên cứu này dựa trên tỷ lệ chi phí trung gian trên giá trị sản xuất (GO) của ngành công nghiệp chế biến và chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh, thông qua dữ liệu do Tổng Cục Thống kê cung cấp từ điều tra lập bảng cân đối liên ngành và tính toán hệ số chi phí trung gian năm 2012.
Giá trị tăng thêm và giá trị sản xuất được đo lường bằng cách logarit (ln)
Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) của doanh nghiệp hiện nay chưa có một công thức chung cho tất cả các quốc gia và phụ thuộc vào hệ thống số liệu Dựa vào các nghiên cứu thực nghiệm và dữ liệu sẵn có, luận văn áp dụng phương pháp phổ biến để tính phần dư TFP thông qua hàm sản xuất Cobb – Douglas.
Giá trị sản xuất (GO) của doanh nghiệp được tính theo công thức Y i = 𝐴 𝑖 𝐾 𝑖 𝛽 𝑘 𝐿 𝛽 𝑖 𝐿 𝐸 𝑖 𝛽 𝐸, trong đó K đại diện cho giá trị tài sản cố định còn lại bình quân của doanh nghiệp năm 2016, và L là lao động trung bình năm.
Năm 2016, chi phí năng lượng E của doanh nghiệp bao gồm các nguồn như điện, than, xăng dầu, gas và khí Các yếu tố βk, βL, βE thể hiện độ co giãn của sản lượng Y liên quan đến vốn, lao động và chi phí năng lượng Ai là phần không quan sát được trong mô hình này, với giả định rằng thị trường hoạt động theo cơ chế cạnh tranh hoàn hảo.
Logarit phương trình (1), hàm sẽ có dạng:
Ln (TFP) = 𝛽 0 + 𝜀 𝑖 = 𝑌 𝑖 - 𝛽 𝑘 𝑘 𝑖 − 𝛽 𝑙 𝑙 𝑖 − 𝛽 𝑒 𝑒 𝑖, trong đó 𝛽 0 đại diện cho hiệu quả trung bình của doanh nghiệp Độ lệch 𝜀 𝑖 phản ánh các đặc tính có thể quan sát và không thể quan sát của doanh nghiệp Công thức này mô tả năng suất nhân tố tổng hợp (TFP), một chỉ số quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sản xuất.
Nghiên cứu của Van Beveren (2012) đã chỉ ra những vấn đề thường gặp trong ước lượng TFP của doanh nghiệp và đề xuất các kỹ thuật ước lượng nhằm khắc phục hạn chế này Luận văn áp dụng phương pháp OLS để tính toán TFP cho doanh nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh, mặc dù phương pháp này giả định các biến đầu vào là ngoại sinh Tuy nhiên, thực tế cho thấy doanh nghiệp phải dựa vào năng suất để lựa chọn các yếu tố đầu vào, dẫn đến khả năng kết quả ước lượng TFP bị thiên lệch do tính nội sinh Để đo lường TFP, đầu ra được xác định theo tỷ lệ giữa sản lượng và đầu vào, trong đó đầu vào thường được đo bằng giá trị tăng thêm (VA) hoặc tổng sản lượng (GO) VA phản ánh sự đóng góp của ngành vào tổng sản phẩm, trong khi GO bao gồm tất cả sản phẩm doanh nghiệp sản xuất, kể cả sản phẩm trung gian Phương pháp GO được ưa chuộng hơn trong việc đánh giá thay đổi công nghệ và hiệu quả đầu vào Giá trị sản xuất của doanh nghiệp được tính toán theo phương pháp của Tổng Cục Thống kê, với biến GO được đo bằng logarit Đầu vào bao gồm vốn, lao động và năng lượng, trong đó vốn là tổng giá trị tài sản cố định còn lại trung bình, lao động là số lao động trung bình năm 2016, và năng lượng bao gồm chi phí điện và nhiên liệu.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu (TSLN) là chỉ số quan trọng trong hệ thống thống kê cấp tỉnh tại Việt Nam, thể hiện tỷ lệ giữa tổng lợi nhuận trước thuế từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh và tài chính trong năm với tổng doanh thu thuần của doanh nghiệp Chỉ tiêu này giúp đánh giá hiệu quả tiêu thụ, cho biết mỗi đồng doanh thu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu
Việc lựa chọn đặc điểm doanh nghiệp là yếu tố quan trọng trong phương pháp PSM, vì nếu không đưa những biến quyết định vào mô hình, sẽ dẫn đến sai số và chất lượng thấp trong hoạt động DMST Hơn nữa, phần lớn các biến kiểm soát phụ thuộc vào nguồn dữ liệu.
Dữ liệu nghiên cứu
Dữ liệu luận văn thu thập từ các nguồn với mục đích như sau:
Dữ liệu điều tra về trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ trong ngành chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh được Cục Thống kê thực hiện vào năm 2017, nhằm thu thập các chỉ tiêu liên quan đến hoạt động khoa học công nghệ của doanh nghiệp trong năm tài chính 2016 Cục Thống kê đã áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện, điều tra toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp ngoài nhà nước với quy mô từ 100 lao động trở lên Đối với các doanh nghiệp ngoài nhà nước có dưới 100 lao động, tỷ lệ chọn mẫu được quy định như sau: 20% cho doanh nghiệp từ 50-99 lao động, 10% cho doanh nghiệp từ 10-49 lao động.
Mẫu nghiên cứu gồm 10 lao động, chọn mẫu 3% để đảm bảo tính đại diện cho doanh nghiệp Mẫu này được thiết kế nhằm phản ánh chính xác tình hình chung của doanh nghiệp trong khu vực Nghiên cứu sẽ tập trung vào việc đánh giá các chỉ tiêu liên quan đến việc triển khai đổi mới sáng tạo (DMST), đổi mới công nghệ và mức độ kiểm soát thiết bị sản xuất chính trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh.
Dữ liệu từ Kết quả Tổng điều tra kinh tế năm 2017, thu thập thông tin doanh nghiệp năm 2016, cung cấp các thông tin quan trọng về vị trí doanh nghiệp trong khu chế xuất, loại hình hoạt động, số lao động, trình độ lao động, doanh thu sản xuất, chi phí sản xuất kinh doanh dở dang, thành phẩm, hàng gửi bán, lợi nhuận sản xuất và tình trạng vay vốn Những thông tin này được sử dụng để tính toán các chỉ tiêu VA, GO và tỷ suất lợi nhuận TFP Đồng thời, dữ liệu này còn được kết nối với danh sách điều tra trình độ công nghệ và chuyển giao công nghệ thông qua mã số thuế doanh nghiệp.
Nghiên cứu sử dụng Google Map để đo khoảng cách từ vị trí doanh nghiệp đến điểm ngập gần nhất, chọn lựa quãng đường ngắn nhất và thời gian di chuyển tối ưu nhất mà công cụ này đề xuất.
Nghiên cứu về số năm hoạt động của doanh nghiệp được thực hiện dựa trên dữ liệu điều tra doanh nghiệp năm 2018 và 2013 của Cục Thống kê Thành phố Hồ Chí Minh, vì bảng khảo sát năm 2017 không có thông tin về năm thành lập Đối với các doanh nghiệp không có trong hai danh sách này, nghiên cứu đã sử dụng mã số thuế để tra cứu thông tin trên trang web của Tổng Cục Thuế Việt Nam tại http://tracuunnt.gdt.gov.vn/.
Dữ liệu ban đầu gồm 2.951 doanh nghiệp từ tất cả các ngành công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh Luận văn đã tiến hành trích xuất các doanh nghiệp thuộc ngành chế biến, chế tạo, đồng thời loại trừ những doanh nghiệp có doanh thu và chi phí năng lượng bằng 0, tỷ suất lợi nhuận lớn hơn 50% hoặc nhỏ hơn -50%, doanh nghiệp có giá trị tăng thêm ngoại biên, cũng như các doanh nghiệp có chi nhánh ở các tỉnh và những doanh nghiệp có nhiều địa điểm sản xuất trong thành phố Sau khi sàng lọc, số lượng doanh nghiệp còn lại là 2.317 đơn vị.