Mục tiêu nghiên cứu của luận văn nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu về khu hệ thực vật tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và tài nguyên thực vật nói riêng trong khu vực nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nhận thức chung về đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học đóng vai trò quan trọng đối với con người, cung cấp nguồn thức ăn, thuốc chữa bệnh, gỗ củi và nhựa cho nhiều ngành kinh tế, đồng thời là nguồn giống vô tận cho nông lâm nghiệp Nó duy trì các quá trình sinh thái cơ bản, góp phần tạo ra và giữ vững cân bằng sinh thái tự nhiên, tạo môi trường sống ổn định và bền vững Hiện nay, có nhiều định nghĩa về đa dạng sinh học, nhưng gần đây đã thống nhất rằng nó bao gồm đa dạng di truyền, đa dạng loài và đa dạng hệ sinh thái Theo Luật đa dạng sinh học (2008) của Việt Nam, đa dạng sinh học được định nghĩa là sự phong phú về gen, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên Cụ thể, đa dạng di truyền là sự đa dạng của thông tin di truyền trong các cá thể thực vật, động vật và vi sinh vật; đa dạng loài là sự phong phú của các loài sinh vật khác nhau; và đa dạng hệ sinh thái là sự đa dạng của các sinh cảnh, quần xã sinh vật và các quá trình sinh thái.
Theo định nghĩa đã nêu, đề tài nghiên cứu chỉ tập trung vào mức độ đa dạng loài Câu hỏi nghiên cứu chính của đề tài là xác định số lượng loài thực vật bậc cao có mạch phân bố trong khu vực nghiên cứu.
Đa dạng khu hệ thực vật trên thế giới
Đến nay, đa dạng sinh vật và bảo tồn nguồn tài nguyên đã trở thành chiến lược toàn cầu Nhiều tổ chức quốc tế như Hiệp hội Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (IUCN), Chương trình môi trường Liên Hợp Quốc (UNEP), và Quỹ Quốc tế Bảo vệ thiên nhiên (WWF) đã được thành lập nhằm hướng dẫn và hỗ trợ việc đánh giá, bảo tồn và phát triển đa dạng sinh vật trên toàn thế giới.
Nghiên cứu hệ thực vật toàn cầu đã có lịch sử lâu dài, với nhiều công trình giá trị được công bố trong thế kỷ 19 và 20, như Thực vật chí Hong Kong (1861), Thực vật chí Australia (1866), và Thực vật chí rừng Tây Bắc và Trung tâm Ấn Độ.
Từ năm 1928 đến 1932, Nga bước vào giai đoạn đầu tiên của nghiên cứu hệ thực vật cụ thể Trong thời kỳ này, các nhà sinh vật học Nga tập trung vào việc xác định diện tích biểu hiện tối thiểu, nhằm thực hiện kiểm kê đầy đủ số loài trong từng hệ thực vật cụ thể.
Năm 1990, WWF đã xuất bản cuốn sách nói về tầm quan trọng của đa dạng sinh vật (The importance of biological diversity)
Năm 1991, Wri, Wcu, WB, WWF xuất bản cuốn “Bảo tồn đa dạng sinh vật thế giới” (Conserving the World’ biological diversity)
Từ năm 1992 đến 1995, WCMC đã phát hành cuốn sách "Đánh giá đa dạng sinh vật toàn cầu", tổng hợp tư liệu về đa dạng sinh vật của các nhóm sinh vật trên toàn thế giới Các cuốn sách này nhằm hướng dẫn và đề xuất phương pháp bảo tồn đa dạng sinh học, tạo nền tảng cho công tác bảo tồn và phát triển bền vững trong tương lai.
Hàng ngàn tác phẩm và công trình khoa học đã được ra đời, cùng với vô số hội thảo được tổ chức để thảo luận về quan điểm, phương pháp luận và công bố các kết quả nghiên cứu trên toàn cầu.
Đa dạng khu hệ thực vật ở Việt Nam
Từ đầu thế kỷ 18, Việt Nam đã có những nghiên cứu về thực vật, bắt đầu với công trình “Thực vật chí Nam bộ” của Leureiro (1970) Sang thế kỷ 19, Pierre L đã công bố “Thực vật chí rừng Nam bộ” (1879 – 1907) Đến đầu thế kỷ 20, bộ “Thực vật chí đại cương Đông Dương” do Lecomte chủ biên (1907 – 1952) đã xuất hiện, đánh dấu bước tiến quan trọng trong việc đánh giá đa dạng thực vật Việt Nam Các tác giả người Pháp đã thu thập và mô tả 7.004 loài thực vật bậc cao có mạch trên toàn Đông Dương Bộ sách này không chỉ có ý nghĩa lớn đối với các nhà thực vật học mà còn vẫn giữ giá trị cho những nghiên cứu về hệ thực vật Việt Nam hiện nay.
Bộ “Thực vật chí Campuchia, Lào và Việt Nam” do Aubréville khởi xướng và chủ biên từ năm 1960 đến 2001, đã công bố 31 tập nhỏ với 75 họ cây có mạch, chỉ chiếm chưa đầy 21% tổng số họ thực vật đã biết Mặc dù đã có những đóng góp quan trọng, con số này vẫn còn khiêm tốn so với sự đa dạng loài thực vật phong phú ở ba nước Đông Dương.
Pocs T (1965) đã thống kê 5.190 loài thực vật miền Bắc dựa trên bộ "Thực vật chí đại cương Đông Dương", mặc dù không trực tiếp nghiên cứu về hệ thực vật này Tác giả cũng phân tích cấu trúc hệ thống, dạng sống và các yếu tố địa lý liên quan đến hệ thực vật.
Từ đầu thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, nghiên cứu về hệ thực vật ở Việt Nam chủ yếu do các tác giả nước ngoài thực hiện, với các công trình chỉ dừng lại ở việc thống kê số lượng loài trong các khu vực lớn như miền Bắc Việt Nam (198.000 km²), trong khi tổng diện tích của cả nước lên tới hơn 330.000 km².
Trên cơ sở bộ “Thực vật chí Đông Dương”, Thái Văn Trừng (1978, tái bản năm 2000) đã thống kê hệ thực vật Việt Nam có 7.004 loài, 1.850 chi và
Trong tổng số 289 họ thực vật, ngành Hạt kín chiếm ưu thế với 3.366 loài (90,9% tổng số loài thực vật bậc cao có mạch), 1.727 chi (93,4% tổng số chi thực vật cả nước) và 239 họ (82,7% tổng số họ hiện có) Ngành Dương xỉ và họ hàng của nó có 599 loài (8,6%), 205 chi (5,57%) và 42 họ (14,5%) Trong khi đó, ngành Hạt trần chỉ có 39 loài (0,5%), 18 chi (0,9%) và 8 họ (2,8%).
Gần đây, bộ “Cây cỏ Việt Nam” của Phạm Hoàng Hộ (1991 – 1993) được xuất bản tại Canada và tái bản tại Việt Nam (1999 – 2000) cùng với bộ “Danh lục các loài thực vật ở Việt Nam” (2001 – 2005) đã trở thành những tài liệu quan trọng, cung cấp thông tin đầy đủ và dễ sử dụng, góp phần đáng kể cho nghiên cứu khoa học thực vật tại Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, công trình nghiên cứu “Bước đầu nghiên cứu rừng miền Bắc Việt Nam” của Trần Ngũ Phương đã tiến hành phân loại rừng miền Bắc, chia thành 3 đai và 8 kiểu Bên cạnh đó, tác giả còn phân loại thành nhiều kiểu rừng phụ, sử dụng loại hình thay cho kiểu, sau loại hình kiểu phụ.
Phan Kế Lộc đã thực hiện một nghiên cứu quan trọng về số lượng loài cây ở miền Bắc Việt Nam trong công trình “Bước đầu thống kê số loài cây đã biết ở miền Bắc Việt Nam” Theo thống kê, ông đã ghi nhận được 5.609 loài thực vật bậc cao có mạch, trong khi các ngành thực vật khác chỉ có 540 loài.
Ngoài ra, đã có một số họ thực vật riêng biệt được công bố, bao gồm họ Lan Đông Dương (Orchidaceae) của Seidenfaden (1992), họ Lan (Orchidaceae) Việt Nam của Leonid V Averyanov (1994), họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Thìn (1999), họ Na (Annonaceae) Việt Nam của Nguyễn Tiến Bân (2000), và họ Bạc hà (Lamiaceae) của Vũ Xuân Phương.
Các tài liệu như họ Đơn nem (Myrsinaceae) của Trần Thị Kim Liên (2002) và họ Trúc Đào (Apocynaceae) của Trần Đình Lý (2007) đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá đa dạng phân loại thực vật Việt Nam Để hỗ trợ công tác khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên thực vật, Viện Điều tra Quy hoạch rừng đã công bố 7 tập "Cây gỗ rừng Việt Nam" từ năm 1971 đến 1988, cung cấp thông tin chi tiết và hình vẽ minh họa Năm 1996, công trình này được dịch sang tiếng Anh dưới sự chủ biên của Vũ Văn Dũng.
Bên cạnh các công trình nghiên cứu chung, nhiều danh lục khu hệ thực vật từng vùng đã được công bố, như “Hệ thực vật Tây Nguyên” của Nguyễn Tiến Bân và cộng sự (1984) với 3.754 loài thực vật có mạch, và “Danh lục thực vật Phú Quốc” của Phạm Hoàng Hộ (1985) với 793 loài thực vật có mạch.
592 km 2 , Lê Trần Chấn và cộng sự (1990) về thực vật Lâm Sơn – Lương Sơn – Hòa Bình, Nguyễn Nghĩa Thìn và Nguyễn Thị Thời (1998) đã giới thiệu
2024 loài thực vật bậc cao, 771 chi, 200 họ thuộc 6 ngành của vùng núi cao
Sa Pa – Phanxipang là khu vực nổi bật với sự đa dạng sinh học, được ghi nhận qua nhiều báo cáo về các loài tại các Vườn quốc gia và Khu bảo tồn thiên nhiên như Sơn La, vùng ven biển Nam Trung Bộ, VQG Ba Bể, Cát Bà, Bến En, và Phong Nha – Kẻ Bàng, do nhiều tác giả công bố trong những năm gần đây.
Đến nay, nghiên cứu về thực vật ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tập trung vào các lĩnh vực như phân loại thực vật, dạng sống, quan hệ địa lý và thành phần loài Những công trình này không chỉ có giá trị khoa học cao mà còn được ứng dụng rộng rãi trong nghiên cứu thực vật hiện nay Mặc dù nhiều tác giả đã thực hiện thống kê và mô tả thành phần loài thực vật tại Việt Nam, luận văn này sẽ áp dụng hệ thống phân loại thực vật theo Brummitt (1992).
Theo đó, hệ thực vật Việt Nam hiện đã thống kê được 11.373 loài thuộc 2524 chi, 378 họ của 7 ngành (bảng 1.1)
Bảng 1.1: Thành phần loài trong các ngành thực vật Việt Nam
Tên Việt Nam Tên khoa học Họ Chi Loài
Trong nghiên cứu thành phần loài thực vật, các tác giả đã áp dụng hai phương pháp chính: phương pháp điều tra theo tuyến và phương pháp ô tiêu chuẩn điển hình Đề tài này sẽ kết hợp cả hai phương pháp để xác định thành phần loài thực vật tại khu vực nghiên cứu.
Các nghiên cứu về khu hệ thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc
Đến nay, nghiên cứu về khu hệ thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc còn rất hạn chế, với chỉ một tài liệu duy nhất là Luận chứng kinh tế kỹ thuật KBTLVSC Nam Xuân Lạc (2004) Theo tài liệu này, khu vực này có 430 loài thực vật bậc cao có mạch, bao gồm 155 loài cây gỗ và 101 loài cây cỏ.
85 loài dây leo, 51 loài cây bụi, 8 loài bì sinh, 4 loài dương sỉ, 4 loài cau dừa,
Bài nghiên cứu đã xác định 4 loài tre nứa và 18 loài chưa biết tên, cùng với 4 loài cây quý hiếm như Đinh vàng, Nghiến, Lát hoa, Sam vàng, và 5 loài Lan hài quý hiếm Tuy nhiên, danh mục cụ thể các loài cây chưa được tổng hợp trong bản Luận chứng, điều này làm cho việc nghiên cứu trở nên cần thiết để bổ sung thông tin về hệ thực vật KBTLVSC Nam Xuân Lạc và đánh giá mức độ đa dạng thực vật bậc cao trong khu vực, phục vụ cho công tác bảo tồn và phát triển nguồn tài nguyên tại đây.
MỤC TIÊU, ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1 Mục tiêu tổng quát Đề tài thực hiện nhằm xây dựng cơ sở dữ liệu về khu hệ thực vật tại Khu bảo tồn loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn, góp phần bảo tồn đa dạng sinh học nói chung và tài nguyên thực vật nói riêng trong khu vực nghiên cứu
- Đánh giá đa dạng thảm thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, Bắc Kạn
- Xây dựng danh lục thực vật bậc cao có mạch tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, Bắc Kạn
- Đánh giá được thực trạng bảo tồn tài nguyên thực vật tại KBT
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm bảo tồn hiệu quả tài nguyên thực vật tại khu vực nghiên cứu.
Đối tượng, địa điểm và phạm vi nghiên cứu
Các loài thực vật bậc cao có mạch tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc
2.2.2 Địa điểm và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, bao gồm bốn thôn Nà Dạ, Bản Khang thuộc xã Xuân Lạc, và thôn Khuổi Kẹn, Lủng Trang thuộc xã Bản Thi, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn.
Đề tài nghiên cứu tập trung vào thành phần loài thực vật bậc cao có mạch trong Khu bảo tồn (KBT), đồng thời khảo sát tình trạng của một số loài thực vật quý hiếm tại đây Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích các tác động của người dân địa phương đối với khu hệ thực vật trong khu vực.
Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu đề ra, đề tài tập trung nghiên cứu các nội dung sau:
1 Điều tra Đa dạng thảm thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn
2 Điều tra Đa dạng hệ thực vật bậc cao có mạch tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn
3 Nguyên nhân suy giảm tài nguyên thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc
4 Đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn tài nguyên thực vật tại khu vực nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
2.4.1 Phương pháp kế thừa tài liệu Đề tài sẽ tiến hành thu thập tất cả tài liệu liên quan trong quá trình chuẩn bị để xem xét và đánh giá Các tài liệu liên quan bao gồm:
- Các báo cáo đánh giá đa dạng sinh học
- Báo cáo về quy hoạch sử dụng đất của KBT
- Luận chứng kinh tế kỹ thuật KBTLVSCNXL (2004)
- Báo cáo về quy hoạch ba loại rừng
- Các công trình nghiên cứu liên quan trong khu vực nếu có
Sau khi thu thập và phân tích tài liệu, chúng tôi đã kế thừa và chọn lọc các tài liệu giá trị liên quan đến tình trạng sử dụng đất và hệ thực vật tại khu vực nghiên cứu, tạo nền tảng cho nghiên cứu mới của đề tài.
Phương pháp phỏng vấn được áp dụng để thu thập thông tin ban đầu về thành phần loài, sinh cảnh phân bố, tình trạng và hoạt động khai thác gỗ trong khu vực Thông tin thu thập từ phỏng vấn sẽ được xác minh qua điều tra thực địa Đối tượng phỏng vấn bao gồm những người có kinh nghiệm đi rừng như cán bộ lâm nghiệp, thợ săn, và những người thường xuyên vào rừng Bên cạnh đó, cũng lựa chọn những người hiểu biết về cây địa phương để hỗ trợ xác định và lấy mẫu cây, cung cấp thêm thông tin cho quá trình giám định loài.
Câu hỏi phỏng vấn và ảnh màu là hai công cụ quan trọng trong quá trình phỏng vấn, đặc biệt hiệu quả với các loài lớn và có giá trị kinh tế Tuy nhiên, đối với các loài nhỏ ít được chú ý, việc nhận diện trở nên khó khăn, trừ những loài sống gần khu dân cư.
2.4.3 Phương pháp tuyến điều tra
Tuyến điều tra (TĐT) được xây dựng dựa trên thông tin về thảm thực vật trong Khu bảo tồn, bao gồm bản đồ hiện trạng rừng và bản đồ quy hoạch các phân khu chức năng Thông tin từ ban quản lý, cán bộ chuyên môn và người dân địa phương cũng được xem xét Các tuyến điều tra này đi qua tất cả các trạng thái rừng, địa hình và độ cao khác nhau, cũng như những khu vực rừng bị phá hủy hoặc suy thoái do tác động của con người.
Dựa trên khảo sát thực địa và bản đồ hiện trạng của KBTLVSC Nam Xuân Lạc, chúng tôi đã thiết lập 7 tuyến điều tra thực vật, đi qua các khu vực như Nặm Thúng, Lũng Cháy, Lũng Luồng, Lũng Phàng, Lũng Lì, Khuổi Kẹn, Đầu Cáp, Lũng Trang, và vùng giáp ranh Bản Khang và Lũng Lỳ, cùng với các khu vực trên núi đất như đỉnh Tam Sao, Lòng Đăm, Khe Hai, và Nặm Phiêng.
Bảng 2.1 Toạ độ điểm đầu và điểm cuối của các tuyến điều tra
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIa và IC
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIa và Ib, IIIa1
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIa và IIIA1
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIb và IC
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIb và IC
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIa và IC
Rừng tự nhiên trên núi đất trạng thái IIa và IIIA1
Hình 2.1: Bản đồ các tuyến điều tra tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc
Trong quá trình điều tra, chúng tôi đã thu thập thông tin về sinh cảnh, tên loài thực vật, dạng sống và tác động của con người Tất cả các thông tin này được ghi chép chi tiết trong bảng 2.2.
Bảng 2.2: Điều tra thực vật trên tuyến Địa hình: ……… Ngày điều tra: ………
Dạng sinh cảnh: ……… Người điều tra: ……… Độ dài tuyến: Toạ độ:
STT Tên loài Dạng sống Ghi chú
2.4.4 Phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn (OTC) Điều tra ô tiêu chuẩn nhằm xác định tổ thành rừng và đặc điểm lâm phần Tại khu vực nghiên cứu, chúng tôi điều tra 14 ô tiêu chuẩn trên tất cả các dạng sinh cảnh của khu vực, diện tích mỗi ô 1000m 2 (20mx50m) (xem bảng 2.3)
Bảng 2.3: Địa điểm và tọa độ các ô tiêu chuẩn nghiên cứu Địa điểm Ký hiệu OTC Tọa độ
Lũng Lì LL01 Không lấy được GPS
LL02 22 0 18’037 105 0 31’105 LL03 22 0 19’445 105 0 31’340 LL04 22 0 17’895 105 0 30’969 LL05 22 0 18’082 105 0 30’872 TS06 22 0 17’839 105 0 30’098
NP02 Không lấy được GPS
NP03 Không lấy được GPS
NP04 Không lấy được GPS
Khuổi Lịa KL01 Không lấy được GPS
Chúng tôi đã thu thập thông tin về các loài cây gỗ, dây leo, cây bụi, cây tái sinh, thảm cỏ, sức sống và công dụng chính trong các ô tiêu chuẩn Tất cả các thông tin này được ghi lại trong bảng 2.4.
Bảng 2.4 : Điều tra thực vật tầng trên ô tiêu chuẩn
Số hiệuOTC……… Diện tích:……… Khu vực:……… Trạng thái rừng:……… Ngày điều tra:……… Người điều tra:………
STT Loài cây Số lượng Sinh trưởng Công dụng chính
Trong mỗi ÔTC lập 5 ô dạng bản 25m 2 ở 4 góc và giữa ô để điều cây tái sinh của cây gỗ (hình 2.2)
Hình 2.2: Sơ đồ bố trí ô dạng bản trong ô tiêu chuẩn
Trong các ô dạng bản, chúng tôi thu thập thông tin về loài cây, chiều cao cây tái sinh và tình hình sinh trưởng Những thông tin này được ghi lại trong bảng 2.5.
Bảng 2.5: Biểu điều tra cây tái sinh
Số OTC: ………, vị trí: ………, trạng thái rừng: ………, độ cao: ………, lô: ………, ngày điều tra: ………, độ dốc: ………, khoảnh: ………, người điều tra: ………, độ tàn che: ………, địa danh: ………, tờ số: ………, hướng phơi: ………, kiểu rừng: ………
ODB STT Tên loài H VN
2.4.5 Phương pháp thu mẫu và xử lý mẫu
Dụng cụ thu mẫu: Cặp hay túi đựng mẫu, giấy báo, dây buộc, nhãn, kim chỉ, bút chì 2B, sổ ghi chép, cồn, kéo cắt cành
Mỗi mẫu cây cần đầy đủ các bộ phận như cành, lá, hoa đối với cây lớn, hoặc toàn bộ cây đối với cây thảo, và nếu có quả thì càng tốt.
Khi thu thập mẫu từ cùng một cây, cần sử dụng một số hiệu mẫu thống nhất Trong quá trình thu mẫu, nên ghi chép ngay các đặc điểm nhận diện dễ dàng tại hiện trường, bao gồm đặc điểm vỏ cây, kích thước cây, cũng như các yếu tố dễ bị mất sau khi sấy mẫu như màu sắc và mùi vị.
Cách xử lý và bảo quản mẫu
Sau khi lấy mẫu, mỗi mẫu cần được dán nhãn để ghi rõ số hiệu mẫu của tác giả Thông tin chi tiết có thể được ghi vào sổ riêng hoặc trên nhãn, bao gồm số hiệu mẫu, địa điểm (tỉnh, huyện, xã), nơi lấy mẫu (ven suối, thung lũng, sườn hoặc đỉnh núi, đồi), ngày lấy mẫu và các đặc điểm quan trọng như loại cây (gỗ hay dây leo), độ cao, đường kính, màu lá, hoa và quả Khi ghi thông tin, cần sử dụng bút chì mềm và tuyệt đối không dùng bút bi hay bút mực để tránh mất thông tin khi ngâm tẩm sau này.
2.4.5.2 Xử lý trong phòng thí nghiệm
Mẫu tiêu bản thu thập trong quá trình điều tra được đưa về Trung tâm Đa dạng sinh học - Trường Đại học Lâm nghiệp để xử lý Công việc tại đây bao gồm việc phân tích và nghiên cứu các mẫu nhằm phục vụ cho các dự án bảo tồn và phát triển bền vững.
+ Ép mẫu và sấy mẫu
+ Phân loại mẫu theo họ và chi
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
Khu Bảo tồn Loài và sinh cảnh Nam Xuân Lạc, được thành lập theo Quyết định số 342/QĐ-UB ngày 17/3/2004 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, có diện tích 1.788 ha, nằm trên địa phận 03 xã Đồng Lạc, Xuân Lạc và Bản Thi Vùng lõi của khu bảo tồn bao gồm 08 thôn với 07 hộ gia đình và 36 nhân khẩu sinh sống Khu vực này có khoảng 373 loài động vật, trong đó có 20 loài quý hiếm, cùng với 430 loài thực vật bậc cao, trong đó 30 loài quý hiếm được ghi trong sách đỏ Việt Nam Đời sống của người dân trong khu vực còn nhiều khó khăn, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số với tỷ lệ hộ nghèo cao, nhận thức và điều kiện canh tác còn lạc hậu, dẫn đến việc phụ thuộc vào khai thác khoáng sản, lâm sản và săn bắt động vật hoang dã KBT cách trung tâm thị trấn Bằng Lũng, huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn khoảng 35 km.
Khu vực nằm trong tọa độ từ 22° 0' 17" đến 22° 0' 19" vĩ độ Bắc và từ 105° 28' đến 105° 33' kinh độ Đông Phía Bắc giáp thôn Bản Eng và Bản Tưn thuộc xã Xuân Lạc, phía Đông giáp thôn Nà Áng xã Đồng Lạc, phía Nam giáp thôn Phia Khao và thôn Khuổi Kẹn xã Bản Thi huyện Chợ Đồn, tỉnh Bắc Kạn, và phía Tây giáp xã Thanh Tương và xã Vĩnh Yên huyện Na Hang, tỉnh Tuyên Quang.
Khu Bảo tồn loài sinh cảnh Nam Xuân Lạc nằm ở miền bắc Việt Nam, có địa hình phức tạp với rừng núi đá vôi, độ cao trung bình từ 400 m đến 800 m so với mực nước biển và đỉnh cao nhất đạt 1.159 m Khu vực này có địa hình chia cắt mạnh, khiến việc di chuyển trở nên khó khăn và được phân chia thành hai vùng rõ rệt.
Vùng núi đá là khu vực rừng tập trung chủ yếu trên núi đá vôi, nổi bật với địa hình phức tạp Nơi đây có nhiều đỉnh núi cao và độ dốc lớn, dao động từ 25 đến 30 độ, với một số khu vực có độ dốc còn cao hơn.
45 0 , đường đi lại khó khăn, tài nguyên rừng khu vực này nhìn chung là ít bị tác động bởi người dân địa phương
Vùng núi đất, với độ cao trung bình từ 400 đến 600 m, tập trung chủ yếu ở các thung lũng giữa những đỉnh núi cao, có tiềm năng lớn cho sự phát triển nông – lâm nghiệp.
3.1.3 Điều kiện khí hậu, thuỷ văn
Khu bảo tồn Loài và Sinh cảnh Nam Xuân Lạc có khí hậu chung của tỉnh Bắc Kạn, có hai mùa rõ rệt trong một năm
- Mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10, lượng mưa bình quân 1800mm chiếm 80% lượng mưa cả năm
- Mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, lượng mưa bình quân 130mm chiếm 20% lượng mưa cả năm
Trong năm, khu vực này có từ 110 đến 130 ngày mưa, với độ ẩm không khí trung bình đạt 80%, có lúc cao nhất lên tới 90% và thấp nhất là 74% Nhiệt độ không khí trung bình khoảng 20˚C, có thể đạt đỉnh 28˚C và giảm xuống thấp nhất là 12˚C, thậm chí có những ngày xuống tới 5˚C Số giờ nắng hàng năm dao động từ 1600 đến 1670 giờ Vào mùa hè, gió chủ yếu đến từ hướng Đông và Tây Nam, trong khi mùa đông có gió Bắc và Đông Bắc thổi theo từng đợt kéo dài từ 6 đến 10 ngày.
Khu bảo tồn có địa hình vùng núi cao với diện tích rừng lớn và độ che phủ lên tới 51,5%, tạo ra khí hậu ẩm ướt Điều này thúc đẩy quá trình phong hóa đá và hình thành đất tốt, giúp thực vật rừng sinh trưởng và phát triển nhanh chóng Sự phong phú đa dạng của các loài cây đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự đa dạng sinh học và sự phong phú của các loài động thực vật trong khu vực.
Điêu kiện dân sinh, kinh tế xã hội
3.2.1 Dân số và lao động
3.2.1.1 Dân số và dân tộc
Xã Xuân Lạc bao gồm 14 thôn bản và 667 hộ gia đình, với tổng cộng 3.323 nhân khẩu Dân cư tại đây phân bố không đồng đều, chủ yếu sống rải rác trong khu vực lõi và vùng đệm của KBT.
Trong khu vực hiện có 5 dân tộc cùng sinh sống gồm: Kinh, Tày, Nùng, Mông và Dao Trong đó dân tộc Mông chiếm 52% Tổng số hộ nghèo
387 hộ chiếm 57,85% (tập trung chủ yếu các thôn Mông và Dao) Trình độ dân trí không đồng đều, điều kiện kinh tế khó khăn
Người dân sống trong và quanh khu bảo tồn (KBT) đang gây ra các mối đe dọa nghiêm trọng đến tài nguyên rừng Họ thường xây dựng nhà ở, sinh sống, và trồng cây lấy gỗ cũng như các loại cây ngắn ngày và lâu năm, dẫn đến tình trạng xâm lấn đất rừng trong khu vực KBT.
Nguồn lao động trong khu vực chủ yếu chưa được đào tạo, với kỹ thuật còn hạn chế và phụ thuộc vào lao động thủ công Tình trạng này dẫn đến việc người dân phụ thuộc vào rừng, từ đó khai thác trái phép trở thành một vấn đề phổ biến, đặc biệt là trong khu vực vùng lõi.
3.2.2 Tình hình sản xuất và đời sống
Xã Xuân Lạc và xã Bản Thi là hai xã thuần nông, với nông nghiệp là ngành kinh tế chủ đạo, chủ yếu trồng các cây hàng năm như lúa, ngô, đậu, đỗ Do đặc thù là vùng cao, kinh tế công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển, hiện tại chỉ có một cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng và đồ mộc dân dụng quy mô nhỏ Mặc dù thương mại dịch vụ đang bắt đầu phát triển, nhưng vẫn còn manh mún Mức thu nhập bình quân đầu người tại đây đạt 1.400.000 đồng/năm.
Người dân sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp vẫn duy trì nhiều phong tục tập quán lạc hậu như đốt nương làm rẫy và săn bắn thú rừng, dẫn đến tác động nghiêm trọng đến môi trường Những hoạt động này không chỉ làm suy giảm số lượng côn trùng mà còn đẩy một số loài vào nguy cơ tuyệt chủng Tình trạng khai thác rừng trái phép, đặc biệt tại thôn Nà Dạ của dân tộc Dao, diễn ra phức tạp do thiếu đất canh tác, với 57,14% hộ dân trong thôn thuộc diện nghèo.
3.2.3 Hiện trạng cơ sở hạ tầng
Xã Xuân Lạc và xã Bản Thi nằm trong khu vực đồi núi cao với độ dốc lớn, có hệ thống đường liên xã và đường liên thôn Tuy nhiên, giao thông trong vùng vẫn gặp nhiều khó khăn, chủ yếu là đường đất, đặc biệt là vào mùa mưa, ảnh hưởng nặng nề đến các thôn vùng cao.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã chú trọng đầu tư vào hệ thống kết cấu hạ tầng thông qua các chương trình như 134, 135 và các mục tiêu Quốc gia, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn Tuy nhiên, xã Xuân Lạc và Bản Thi vẫn gặp nhiều khó khăn, với 6/14 thôn chưa có điện lưới, 30% dân cư chưa được cung cấp nước sinh hoạt hợp vệ sinh, và 70% các công trình thủy lợi chưa được đầu tư Hơn nữa, 60% hộ dân chưa có sóng di động, 30% lớp học tạm bợ chưa được xây dựng, và 60% dân tộc Mông, Dao không có ruộng lúa nước, chủ yếu canh tác trên đất dốc.
3.2.3.3 Văn hóa, giáo dục, y tế
Hoạt động văn hóa tại các vùng cao đang phát triển mạnh mẽ về quy mô, nội dung và hình thức, với việc khôi phục các hoạt động văn hóa truyền thống của các dân tộc Điều này không chỉ giúp gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững của cộng đồng.
Giáo dục được ưu tiên hàng đầu, với việc xây dựng các trường tiểu học và trung học cơ sở kiên cố Các thôn vùng xa cũng được đầu tư các phân trường, đảm bảo đáp ứng nhu cầu học tập của người dân.
Nhiều chương trình y tế quan trọng như chăm sóc sức khỏe ban đầu, tiêm chủng mở rộng, phòng chống suy dinh dưỡng, lao và bướu cổ đã được triển khai một cách hiệu quả, góp phần nâng cao chất lượng sức khỏe cộng đồng.
3.2.3.4 Công tác bảo vệ rừng và an ninh trật tự
Công tác quản lý bảo vệ rừng đặc biệt tại khu giáp ranh gặp nhiều khó khăn, với nhiều vụ việc chưa được xử lý triệt để Cải cách thủ tục hành chính vẫn còn hạn chế so với nhu cầu thực tế, trong khi tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng vẫn ở mức cao Tình hình di cư tự do diễn biến phức tạp và khó lường Mặc dù vậy, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được duy trì ổn định.
Hình 2.3: Bản đồ ranh giới KBTLVSC Nam Xuân Lạc
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Các kiểu thảm thực vật ở độ cao trên 700m
Thảm thực vật ở độ cao trên 700m bao gồm bốn trạng thái rừng chính: rừng kín thường xanh mùa mưa á nhiệt đới, rừng kín thường xanh trên núi đá vôi, rừng hỗn giao giữa cây lá rộng và cây lá kim, cùng với thảm cây bụi lùn trên đỉnh núi.
* Rừng kín thường xanh mưa mùa á nhiệt đới
Kiểu rừng này, với diện tích nhỏ, phân bố tại đỉnh Tam Sao, đã được chúng tôi khảo sát qua hai tuyến điều tra: tuyến số 6 từ Lũng Lì lên đỉnh Tam Sao và tuyến số 7 từ Khuổi Lịa đến Nặm Phiêng, cũng hướng lên đỉnh Tam Sao.
Kết quả điều tra cho thấy rừng này đang được bảo vệ hiệu quả, hầu như không bị ảnh hưởng bởi hoạt động khai thác gỗ củi của con người Cấu trúc rừng gồm 4 tầng, bao gồm 2 tầng cây gỗ, một tầng cây bụi và một tầng khác.
Tầng 1 của rừng, hay còn gọi là tầng tán rừng, bao gồm những cây gỗ cao từ 20-25m với đường kính trung bình 40-45cm, trong đó có một số cây đạt đến 60-70cm Tầng này có tán cây tương đối khép kín, tạo thành một lớp che phủ dày đặc Các loài cây chủ yếu trong tầng này bao gồm Giổi (Manglietia sp.), Giổi lông (Michelia balansae), Chẹo (Engelhardtia roxburghiana), Kháo (Machilus platycarpa, Machilus thunbergii), Kháo nhớt (Phoebe tavoyana) và Chắp.
(Beilschmeidia sp.), Dẻ gai (Castanopsis indica), Sồi (Quercus sp.), Xoan mộc (Toona sureni), Quếch (Chisocheton paniculatus), Đa (Ficus sp.)
Tầng 2 (tầng dưới tán) của rừng bao gồm những cây có chiều cao từ 8-10m và đường kính từ 10-15cm, với mật độ 25-30 cây trên một đơn vị diện tích Các loài cây chủ yếu trong tầng này là máu chó (Knema globularia), Trâm (Syzygium sp.), Bời lời (Litsea sp.) và Sảng.
The article highlights various plant species, including Sterculia lanceolata (Trôm), Sterculia nobilis (Trôm), Caryota urens (Móc), Saurauia strictyla (Nóng), Schefflera heptaphylla (Đáng chân chim), Trevesia palmata (Đu đủ rừng), and Diospyros sp (Thị rừng) Additionally, it mentions species from the Lauraceae (Re), Fagaceae (Dẻ), Meliaceae (Xoan), Rutaceae (Cam), and Euphorbiaceae (Thầu dầu) families.
Tầng 3, hay còn gọi là tầng cây bụi, có chiều cao từ 2-3m và được đặc trưng bởi sự phong phú của các loài thực vật thuộc nhiều họ khác nhau như Ôrô (Acanthaceae), Cà phê (Rubiaceae), Mua (Melastomataceae), Thầu dầu (Euphorbiaceae), Đơn nem (Myrsinaceae), Dâu tằm (Moraceae), Cam (Rutaceae) và Xoan (Meliaceae).
The fourth layer, known as the grass layer, is characterized by a sparse vegetation primarily consisting of species from the Poaceae (grass), Cyperaceae (sedge), Zingiberaceae (ginger), and Araceae (aroid) families, along with various ferns from the Adiantaceae, Angiopteridaceae, Aspleniaceae, and Dryopteridaceae families.
Trong thảm thực vật này, chúng ta đã phát hiện một số loài phong lan quý hiếm, đặc biệt là loài Kim tuyến đá vôi (Anoectochilus calcareus Aver), cần được bảo vệ để duy trì sự đa dạng sinh học.
Dây leo ít phát triển, thường gặp các loài thuộc họ đậu (Fabaceae), họ
Na (Annonaceae), họ Liên đằng (Hernandiaceae), gọ dây gắm (Gnetaceae) Địa điểm: đỉnh Tam Sao (OTC LL01)
Tọa độ: 22 0 18’37 N và 105 0 31’105 E; Độ cao: 980m
Hình 4.1: Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở độ cao trên 700m
* Rừng kín thường xanh trên núi đá vôi
Kiểu rừng này phân bố trên các ngọn núi đá, ở độ cao từ 700m trở lên Kết quả điều tra cho thấy rừng có cấu trúc đa dạng với 4 tầng, bao gồm 2 tầng cây gỗ, 1 tầng cây bụi và 1 tầng thảm thực vật tươi tốt.
The first layer of the forest, known as the canopy layer, consists of trees that reach heights of 15-20 meters, with an average diameter of 30-40 cm and a density of 9-13 trees per 1000 m², achieving a canopy cover of 0.7-0.8 This layer includes species such as Excentrodendron tonkinense (Nghiến), Garcinia fagraeoides (Trai), Machilus platycarpa and Machilus thunbergii (Kháo), Phoebe tavoyana (Re), various Diospyros species (Thị rừng), Senna siamea (Muồng đen), Aglaia spectabilis (Gội), Allospondias lakonensis (Dâu da xoan), Nephelium lappaceum (Vải rừng), Dimocarpus fumatus (Nhãn rừng), Paviesia annamensis (Trường), and Archidendron turgidum (Phân mã).
The understory layer, reaching heights of 8-10 meters and featuring a density of 7-10 trees per 1,000 square meters, comprises a diverse array of species Notable trees in this layer include Streblus macrophyllus, Knema globularia, Archidendron turgidum, Diospyros species, Dimocarpus fumatus, Casearia membranacea, Actinodaphne pilosa, Litsea species, Memecylon edule, Syzygium species, and Cipadessa baccifera.
Tầng 3, hay còn gọi là tầng cây bụi, có chiều cao từ 2-3m và thường thưa, bao gồm các loài cây như Xú hương (Lasianthus balansae), Lấu núi (Psychotria montana), Muồng truổng (Zanthoxylum avicenniae), Bố dại (Corchorus aestuans), Cò Ke (Grewia bilamellata), Trứng cua (Debregeasia squamata) và Sầm (Memecylon sp.).
Mua (Melastoma sp.), Găng (Randia sp.), Mạy tèo (Stroblus sp.), Trọng đũa (Ardisia sp.), Trâm (Syzygium sp.), Bồng bồng (Dracaena angustifolia), and Huyết giác (Dracaena chochinchinensis) are notable plant species that thrive in shaded environments Additionally, various shade-tolerant species from the Rutaceae (citrus), Rubiaceae (coffee), Euphorbiaceae (spurge), and Acanthaceae (barleria) families contribute to the diversity of shaded ecosystems.
Tầng 4 của hệ sinh thái thảm tươi có sự hiện diện của các loài thực vật đặc trưng như Trầu không rừng (Piper gymnostachyum), Cao hung (Elatostema rupestre), Lá han (Laportea violacea), Ráy leo lá lớn (Epipremnum giganteum) và Ráy leo lá xẻ Những loài này đóng góp vào sự đa dạng sinh học và cấu trúc của môi trường sống.
(Epipremmum pinnatum), Ráy leo (Pothos repens), Sẹ (Alpinia globosa), gừng gió (Zingiber sp.)
Các kiểu thảm thực vật ở độ cao dưới 700m
Thảm thực vật ở độ cao dưới 700m được chia làm hai nhóm: nhóm kiểu thảm thực vật ít bị tác động và nhóm kiểu thảm thực vật bị tác động
Các kiểu thảm thực vật ít bị tác động
- Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở đất thấp
Kiểu rừng này phân bố tại khu vực chân núi Tam Sao, Khuổi Lịa, Nặm Phiêng, Lòng Đăm và Khe Hai Rừng có cấu trúc 5 tầng, bao gồm 3 tầng cây gỗ (A1, A2 và A3), 1 tầng cây bụi và 1 thảm tươi.
Tầng A1 (tầng nhô) bao gồm các cây gỗ cao từ 30-35m, với đường kính trung bình 70-80cm, trong đó có những cây có đường kính trên 100cm và chiều cao 40-45m Mật độ cây trong khu vực này dao động từ 3-5 cây/OTC, tạo nên một tán không đồng đều với độ che phủ từ 0,2-0,3 Thành phần chính của tầng này bao gồm các loài như Muồng đen (Senna siamea), Gội (Aglaia spectabilis), Dâu da xoan (Allospondias lakonensis), Đa (Ficus sp.), Xoan mộc (Toona sureni), và Dâu rừng (Morus sp.).
Tầng A2, hay còn gọi là tầng tán rừng, có độ cao trung bình từ 20-25m và đường kính thân cây từ 45-50cm, với tán cây liên tục Thành phần cây chủ yếu bao gồm các loài như Giổi bà (Michelia balansae), Giổi nhung (Paramichelia braianensis), Kháo (Phoebe tavoyana, Phoebe macrocarpa), Ràng ràng (Ormosia fordiana), Chẹo (Engelhardtia roxburghiana), cùng với các loài thuộc chi Cinnamomum, Cryptocarya, Beischmiedia trong họ Re (Lauraceae), và chi Castanopsis, Lithocarpus thuộc họ Dẻ (Fagaceae).
+ Tầng A3 (tầng dướ i tán) cao 10-15m, thường gă ̣p Bời lời (Litsea umbellata, Litsea monopetala), Cứt ngựa (Archidendron turgidum), Máu chó
(Knema globularia, Knem pierrei), Kháo (Phoebe tavoyana), Re trắng (Phoebe macrocarpa), Trâm (Syzygium sp.)… Địa điểm: OTC TS06, NP01 Tọa độ 22 0 17’839 N; 105 0 30’098 E, độ cao 560m
Hình 4.5: Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới ở đất thấp
Tầng cây bụi có chiều cao từ 4-6m, chủ yếu là các loài chịu bóng, đôi khi xuất hiện cây con của các loài cây gỗ lớn ở tầng trên Tầng cỏ dày rậm, cao từ 2-3m, bao gồm các loài thuộc họ Riêng (Zingiberaceae), Cà phê (Rubiaceae) và Ô rô.
(Acanthaceae), Đơn nem (Myrsinaceae), Ráy (Araceae), Cói (Cyperaceae), các loài Dương xỉ
- Rừng kín thường xanh trên núi đá vôi
Kiểu rừng này chiếm phần lớn diện tích của khu bảo tồn, nổi bật với cấu trúc 5 tầng Khác với rừng ở độ cao trên 700m chỉ có 4 tầng và tầng tán rừng thấp (15-20m), rừng tại đây bao gồm 3 tầng cây gỗ, tạo nên sự đa dạng sinh học phong phú.
1 tầng cây bụi và 1 tầng thảm tươi
Tầng A1 (tầng vượt tán) bao gồm các cây gỗ cao từ 35-40m, với đường kính trung bình từ 70-80cm và mật độ 5-8 cây/OTC Tán cây không đồng đều, có độ che phủ từ 0,3-0,4 Thành phần cây ở tầng này chủ yếu là Muồng (Senna siamea), Nghiến (Excentrodendron tonkinense), Trai (Garcinia fagraeoides), Xoan mộc (Toona sureni), Dâu gia xoan (Allospondias lakonensis) và Sâng (Pometia pinnata).
The A2 layer, or forest canopy, averages 20 meters in height and has a diameter of 45-50 cm It is composed of various species including Exentrodendron tonkinense (Nghiến), Garcinia fagraeoides (Trai), Pometia pinnata (Sâng), Nephelium lappaceum (Vải rừng), Dimocarpus fumatus (Nhãn rừng), Paviesia annamensis (Trường), Archidendron turgidum (Cứt ngựa), Diospyros sp (Thị rừng), and several Machilus species (Kháo), along with Phoebe macrocarpa (Re trắng) and Castanopsis indica (Dẻ) This location is identified as OTC LL01, with coordinates 22° 19' 062" N, 105° 31' 086" E, situated at an elevation of 652 meters.
Hình 4.6: Rừng kín thường xanh mưa mùa nhiệt đới trên núi đá vôi
Các kiểu thảm thực vật bị tác động
- Rừng thứ sinh phục hồi sau khai thác
Kiểu rừng này chủ yếu phân bố ở vùng đệm thuộc địa phận thôn Nà
Dạ, Lũng Trang và một số địa điểm thuộc Nặm Thúng, Lũng Cháy, Lũng Luồng, Lũng Phàng, Nặm Phiêng Địa điểm: Nặm Thúng (OTC NT01) Tọa độ: 22 0 19’062 N, 105 0 31’086 E
Hình 4.7: Rừng phục hồi sau khai thác
Tầng A1 (tầng nhô) đã bị phá hủy, chỉ còn lại một số cây như Nghiến (Excentrodendron tonkinense), Trai (Garcinia fagraeoides), Muồng (Senna siamea), Xoan mộc (Toona sureni), Dâu gia xoan (Allospondias lakonensis) và Sâng (Pometia pinnata) Những cây này có chiều cao từ 30-35m và đường kính khoảng 70.
80cm Tuy nhiên, những cây này đều là cây sâu bệnh, cong queo, hay rỗng ruôt
Tầng A2 (tầng tán rừng) đã bị phá hủy ở nhiều mức độ khác nhau Ở những khu vực ít bị tác động, tầng tán rừng vẫn được duy trì với độ tàn che đạt 0,5 - 0,6 Thành phần thực vật chủ yếu bao gồm Nghiến (Excentrodendron tonkinense), Trai (Garcinia fagraeoides), Trâm (Syzygium), Vàng anh (Saraca dives), Vải rừng (Nephelium lappaceum), Nhãn rừng (Dimocarpus fumatus), Trường (Paviesia annamensis), Cứt ngựa (Archidendron turgidum) và Thị rừng (Diospyros sp.).
Kháo (Machilus platycarpa, Machilus thunbergii, Phoebe tavoyana), Re trắng (Phoebe macrocarpa), Dẻ (Castanopsis indica)
Tầng A3, nằm dưới tán cây, có chiều cao từ 10-15m và đường kính từ 15-20cm, thường xuất hiện các loài như Máu chó (Knema pierei), Đại phong tử (Hydnocarpus kurzii), Mạy tèo (Streblus macrophyllus), Tèo nông (Streblus tonkinensis), cùng với các loài thuộc chi Elaeocarpus, Syzygium, Archidendron, và Litsea.
Tầng cây bụi cao từ 3-4m rất dày đặc nhờ sự hiện diện của nhiều loài cây tiên phong ưa sáng như Trinh nữ (Mimosa sp.), Móng bò (Bauhinia sp.), Móc mèo (Caesalpinia sp.), Dây mật (Derris sp.), Sắn dây rừng (Pueraria montana), Vót ét (Illigera celebica, Illigera parviflora), Dây bướm (Mussaenda frondosa), Chìa vôi (Cissus tribola) và Dây vác (Tetrastigma pachyphyllum).
Tầng thảm tươi: Gồm các các loài thuộc họ Acanthaceae, Urticaceae, Araceae và các loài Dương xỉ
- Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy
Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy tại khu vực Nặm Thúng, Lũng Lì, Nậm Phiêng, Lũng Trang, Nà Dạ bao gồm những mảnh nhỏ phân bố rải rác So với rừng phục hồi sau khai thác kiệt, loại rừng này có thành phần đơn giản hơn, chủ yếu là cây tiên phong ưa sáng Rừng có cấu trúc gồm một tầng cây gỗ cao từ 7-9m với đường kính 10-15cm, mật độ 400-500 cây/ha và độ tàn che từ 0,5-0,6 Thành phần chủ yếu là các loài cây tiên phong mọc nhanh, tạo nên ưu thế cho sự phục hồi của hệ sinh thái.
+ Ưu hợp Tống quán sủi (Alnus nepalensis) + Bồ đề (Styrax tonkinensis) + Xoan nhừ (Choerospondias axillaris) + Cứt ngựa
Archidendron turgidum phân bố trên núi đất tại khu vực Khuổi Bốc, Nặm Thúng, Khuổi Lịa và Nặm Phiêng, là rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy hoặc khai thác kiệt Rừng có cấu trúc đơn giản với một tầng cây gỗ cao từ 12-15m, đường kính 15-20cm và độ tàn che đạt 0,6-0,7 Tầng dưới thường ưu thế bởi loài Vầu đắng (Indosasa crassifolia).
Hình 4.8: Rừng thứ sinh phục hồi sau nương rẫy
Ưu hợp Vầu đắng (Indosasa crassifolia) được hình thành chủ yếu do khai thác gỗ củi, dẫn đến sự suy giảm của cây gỗ rừng nguyên sinh Hiện nay, các loài cây gỗ chủ yếu trong khu vực này là những cây tiên phong ưa sáng, có mật độ thưa như Bố đề (Styrax tonkinensis), Trám trắng (Canarium album), Tống quán sủi (Alnus nepalensis), Cứt ngựa (Archidendron turgidum), Bời lời (Lítea sp.) và Xoan nhừ.
(Choerospondias axillaris) Địa điểm: Khuổi Bốc, Khuổi Lịa, Nặm Phiêng
Hình 4.9: Ưu hợp Vàu đắng (Indosasa angustata McClure)
+ Thảm cây bụi có hay không có cây gỗ
Kiểu này phân bố trên các sườn núi đất, các thung lũng, nơi có đất đai bằng phẳng thuận lợi cho canh tác nông nghiệp
Trạng thái thảm cây bụi có hoặc không có cây gỗ thường phục hồi trên đất sau nương rẫy, phân bố chủ yếu ở các lũng, chân và sườn núi Các loài cây gỗ phổ biến trong khu vực này bao gồm Thôi ba (Alangium chinense), Thôi chanh (Alangium kurzii), Ba bét (Mallotus paniculatus), Hu đay (Trema orientalis), Cò ke (Grewia bilamellata), Thành ngạnh (Cratoxylon cochinchinensis), Hoắc quang (Wendlandia paniculata) và Ba chạc lá xoan.
Đa dạng về hệ thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, tỉnh Bắc Kạn 38 1 Thành phần thực vật
Kết quả điều tra hệ thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc đã ghi nhận 497 loài thực vật bậc cao có mạch, thuộc 348 chi và 115 họ, từ 4 ngành thực vật khác nhau.
Bảng 4.1: Tổng hợp thành phần thực vật bậc cao có mạch tại KBTLVSC
Nam Xuân Lạc Ngành thực vật Số họ Số chi Số loài
Theo bảng 4.1, ngành Ngọc lan (Magnoliophyta) chiếm ưu thế về số lượng loài, chi và họ tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, với các loài chủ yếu thuộc lớp Ngọc lan (Magnoliopsida) Ngược lại, ngành Thông đất (Lycopodiophyta) và ngành Thông (Pinophyta) có số lượng loài ít nhất, chỉ với 4 loài và 2 loài Điều này cho thấy điều kiện lập địa tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc rất phù hợp cho sự phát triển của các loài thực vật trong ngành Ngọc lan.
Kết quả điều tra đã bổ sung 67 loài thực vật bậc cao có mạch cho KBTLVSC Nam Xuân Lạc, đồng thời xây dựng danh mục hoàn chỉnh với tên khoa học và phân loại theo họ bộ Những phát hiện này sẽ đóng góp quan trọng cho các nghiên cứu và công tác bảo tồn loài tại khu bảo tồn trong tương lai.
4.2.2 Mức độ đa dạng về họ thực vật
Tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, trong tổng số 115 họ thực vật, có 10 họ thực vật nổi bật với sự đa dạng về số lượng loài, bao gồm Họ Thầu dầu (Euphorbiaceae), Họ Cỏ (Poaceae), Họ Lan (Orchidaceae), Họ Cà phê (Rubiaceae), Họ Dâu tằm (Moraceae), Họ Đậu (Fabaceae), Họ Re (Lauraceae), Họ Gai (Urticaceae), Họ Ráy (Araceae) và Họ Cúc (Asteraceae).
Bảng 4.2: Mười họ thực vật có số loài lớn nhất tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc
Tỉ lệ % so với số loài của 10 họ
Tỉ lệ % so với số loài cả KBT Tên VN Tên KH
Toàn bộ KBT là 497 loài 197 100 39,64
Chỉ có 10 họ thực vật đa dạng nhất tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc đã có
Khu vực nghiên cứu có 197 loài thực vật, chiếm 39,64% tổng số loài trong khu vực Theo Tolmachop A.L (1974), trong vùng nhiệt đới, rất ít họ thực vật chiếm tới 10% tổng số loài, và tỷ lệ phần trăm của 10 họ giàu loài nhất chỉ đạt 40 - 50% Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, 10 họ thực vật phong phú nhất chỉ chiếm 39,64%, thấp hơn mức 40 - 50% mà Tolmachop A.L đã nêu, điều này cho thấy khu vực nghiên cứu có sự đa dạng đáng kể về họ thực vật.
Trong KBTLVSC Nam Xuân lạc, họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) là họ thực vật đa dạng nhất với 37 loài, chiếm 7,44% tổng số loài tại khu bảo tồn Họ Cỏ (Poaceae) theo sau với mức độ đa dạng đáng kể.
Trong nghiên cứu về thực vật, họ Lan (Orchidaceae) ghi nhận 34 loài, trong khi họ Cà phê (Rubiaceae) có 30 loài Họ Cúc (Asteraceae) và họ Ráy (Araceae) đứng ở vị trí thấp nhất trong danh sách 10 họ có nhiều loài nhất, với mỗi họ chỉ có 10 loài.
4.2.3 Mức độ đa dạng về số chi thực vật
Khu Bảo tồn thiên nhiên Lâm viên Sinh cảnh Nam Xuân Lạc hiện có 348 chi thực vật Trong số đó, chi Ficus đứng đầu với 11 loài, tiếp theo là chi Paphiopedilum với 5 loài Các chi Canarium, Bambusa, Hedyotis, Psychotria, Streblus, Phyllanthus, Crotalaria và Smilax mỗi chi đều có 4 loài, cho thấy sự đa dạng phong phú của hệ thực vật tại đây.
(xem chi tiết trong bảng 4.3)
Bảng 4.3: Thống kê 10 chi có số loài lớn nhất của khu vực nghiên cứu
Tỉ lệ % so với số loài của 10 chi
Tỉ lệ % so với số loài cả KBT
Tổng số loài trong KBT là
Mười chi thực vật có số loài lớn nhất trong khu vực nghiên cứu bao gồm 48 loài, chiếm 9,66% tổng số loài Điều này cho thấy rằng những chi này chưa phải là đại diện ưu thế cho các chi khác trong khu vực Theo đánh giá của Tolmachop A.L (1974), điều này chứng tỏ khu vực nghiên cứu có sự đa dạng phong phú về các chi thực vật.
Trong 10 chi thực vật đa dạng nhất tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, chi
Khu vực nghiên cứu cho thấy sự đa dạng phong phú của chi Ficus thuộc họ Dâu tằm, với 11 loài được ghi nhận, trong khi các chi khác chỉ có khoảng 4 loài Điều này chứng tỏ rằng điều kiện lập địa tại đây rất thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của các loài thực vật thuộc chi Ficus.
4.2.4 Đa dạng về dạng thân của các loài thực vật
Khu Bảo tồn thiên nhiên Lâm Viên Sân Cước Nam Xuân Lạc sở hữu sự đa dạng sinh học phong phú với tám dạng sống đặc trưng của hệ thực vật Những dạng sống này bao gồm: thân tre, thân gỗ, dây leo, thân cau dừa, thân cỏ, cây bụi, khí sinh và ký sinh.
Bảng 4.4: Tổng hợp dạng sống của hệ thực vật bậc cao có mạch tại
KBTLVSC Nam Xuân Lạc Dạng thân Số loài Tỷ lệ % so với số loài cả KBT
Trong khu vực nghiên cứu, dạng sống cây gỗ chiếm ưu thế với 187 loài, tương đương 37,63% tổng số loài thực vật, trong khi các loài cây thân cỏ đứng thứ hai với 113 loài, chiếm 22,74% Các loài thực vật ký sinh là nhóm ít nhất với chỉ 2 loài Kết quả này cho thấy rằng dạng sống chủ yếu là cây gỗ, có tiềm năng lớn trong việc làm giàu rừng của khu vực.
4.2.5 Đa dạng về sinh cảnh sống của các loài thực vật
Khu bảo tồn thiên nhiên Lâm Viên Sông Cái Nam Xuân Lạc sở hữu 10 dạng sinh cảnh chính, bao gồm rừng nguyên sinh, rừng thứ sinh và sinh cảnh tầng cây bụi, trong đó rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh có sự đa dạng sinh học cao nhất Những dạng sinh cảnh này ít bị ảnh hưởng bởi hoạt động của con người và chăn thả gia súc, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài thực vật.
Bảng 4.5: Tổng hợp số loài theo các dạng sinh cảnh sống trong KBT
TT Sinh cảnh Số loài Tỉ lệ % so với tổng số loài cả KBT
3 Rừng nguyên sinh và rừng thứ sinh 148 29,78
5 Rừng thứ sinh và tầng cây bụi 90 18,11
4.2.6 Đa dạng về công dụng của các loài thực vật
Tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, trong tổng số 497 loài thực vật bậc cao có mạch, đã xác định được 270 loài có thể sử dụng cho cuộc sống con người, phân chia thành 14 nhóm công dụng Trong số đó, có 2 loài mang đến ba công dụng (lấy quả, làm thuốc và lấy nhựa), 32 loài có hai công dụng, và 236 loài chỉ có một công dụng chính.
Bảng 4.6: Tổng hợp số loài thực vật tại KBTLVSC NXL theo công dụng
TT Công dụng Số loài TT Công dụng Số loài
Tổng 270 loài có công dụng
Bảng 4.6 cho thấy nhóm công dụng làm thuốc chữa bệnh chiếm số lượng lớn nhất với hơn 128 loài, tiếp theo là nhóm loài cho gỗ với hơn 71 loài, trong khi số loài vừa cho gỗ vừa cho quả hay vừa cho gỗ vừa làm thuốc rất ít, chỉ có 2 loài Mặc dù khảo sát chỉ ghi nhận 270 trong tổng số 497 loài thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc có thể sử dụng cho con người, chúng tôi tin rằng con số thực tế có thể lớn hơn nhiều do vẫn còn nhiều loài chưa được khám phá công dụng Những loài có giá trị này đang bị khai thác bởi người dân địa phương, dẫn đến sự suy giảm nguồn tài nguyên trong khu vực.
4.2.7 Đánh giá chung đa dạng thực vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc
Các nguyên nhân gây suy giảm đa dạng thực vật ở KBTLVSC Nam Xuân Lạc
Sự đe dọa đối với mỗi loài xuất phát từ việc mất sinh cảnh do khai thác không bền vững, dẫn đến việc loài đó không còn nơi sống và khả năng tái sinh Ngoài ra, sự xâm lấn và chèn ép từ các yếu tố sinh vật cũng góp phần làm gia tăng nguy cơ tuyệt chủng cho các loài.
Các nguyên nhân trực tiếp tác động gây suy giảm nguồn tài nguyên thực vật Khu BTLVSC Nam Xuân Lạc cụ thể như sau:
Hoạt động khai thác gỗ
Người dân sống bên trong và xung quanh Khu bảo tồn thiên nhiên (KBT) đang gây ra mối đe dọa lớn đối với tài nguyên rừng, thông qua việc khai thác gỗ để xây dựng nhà ở và sản xuất đồ dùng gia đình Đặc biệt, nhiều nhóm đã khai thác gỗ trong KBT cho mục đích thương mại, dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng của nhiều loài cây gỗ quý như Đinh, Nghiến, và Lát hoa Hành động chặt hạ cây gỗ lớn đang ảnh hưởng nghiêm trọng đến tài nguyên khu vực, đe dọa sự bền vững của hệ sinh thái.
Hoạt động khai thác gỗ diễn ra nhiều nhất trong lòng KBTLVSC Nam xuân Lạc tại các khu vực Khuổi Lịa và bên khu vực gần Lũng Cháy
Việc chặt hạ cây gỗ lớn không chỉ dẫn đến cái chết của nhiều cây gỗ nhỏ và cây tái sinh, mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng tái sinh của rừng Khai thác gỗ làm biến đổi trạng thái rừng và gây ra sự xáo trộn mạnh mẽ trong môi trường sống của các loài sinh vật.
Theo báo cáo của Ban quản lý KBTLVSC Nam Xuân Lạc, trung bình hàng năm, người dân ở các xã vùng đệm khai thác khoảng 109.520 ster củi, một con số rất lớn Do mức sống còn thấp, nhiều hộ gia đình vẫn sử dụng củi để nấu ăn thay vì sử dụng bếp gas hay nguồn năng lượng khác Hầu hết các hộ nông dân chăn nuôi gia súc, gia cầm và một số còn nấu rượu, dẫn đến nhu cầu củi cao Mặc dù diện tích đất nông nghiệp chủ yếu trồng lúa nước và cây ăn quả, lượng củi cần thiết hàng năm lại rất lớn trong khi nguồn cung từ vườn nhà hạn chế, buộc người dân phải vào rừng để lấy củi Mặc dù diện tích đất lâm nghiệp chiếm phần lớn tự nhiên của các xã xung quanh KBT, nhưng chủ yếu là đất trống, chỉ 2% là đất rừng Công tác giao đất giao rừng chưa hiệu quả, diện tích đất giao cho các hộ làm vườn rừng còn rất ít, khiến người dân phải tìm cách khai thác củi từ rừng.
Việc người dân vào rừng lấy củi có tác động nhẹ hơn so với khai thác gỗ, nhưng vẫn ảnh hưởng đến tài nguyên thực vật trong khu vực.
4.4.1.2 Khai thác lâm sản ngoài gỗ Đây là hoạt động diễn ra hàng ngày và cũng có thể là quanh năm của người dân địa phương Các sản phẩm khai thác chính là: măng, giang, các loại Song mây, lá nón, cây thuốc, phong lan, rau rừng Chủ yếu để phục vụ nhu cầu sử dụng của gia đình và một phần để bán, tăng thu nhập Khó có thể xác định chính xác được trung bình một năm người dân lấy ra từ rừng bao nhiêu lâm sản ngoài gỗ Tuy nhiên mức độ tác động, gây ảnh hưởng đến nguồn tài nguyên rừng là rất lớn Các loại sản vật thu hái quả hay cả thân cây sẽ làm suy giảm số lượng thực vật trong khu vực, đặc biệt là các loài quý hiếm, có giá trị
Nếu không có các biện pháp kịp thời, nhiều loài có thể bị khai thác kiệt quệ và không còn khả năng tái sinh, dẫn đến nguy cơ mất loài trong khu bảo tồn là điều khó tránh khỏi.
4.4.1.3 Phá rừng làm rẫy, lấn chiếm đất mở rộng diện tích canh tác
Trong những năm gần đây, tình trạng khai thác và lấn chiếm đất rừng đang gia tăng, chủ yếu do giá nông sản như sắn, ngô và đậu tăng cao Nhiều hộ dân sống ven rừng, thiếu đất sản xuất nông nghiệp, đã xâm nhập vào khu bảo tồn để chiếm đất và phá rừng nhằm phục vụ cho việc trồng trọt.
Kết quả phỏng vấn người dân địa phương và khảo sát thực địa cho thấy nương rẫy xuất hiện rộng rãi gần rừng, được mở rộng ở chân, sườn và đỉnh núi để trồng lúa nương, ngô, sắn Hoạt động canh tác này ảnh hưởng tiêu cực đến sinh cảnh sống của nhiều loài động thực vật Hơn nữa, sự thiếu ý thức của người dân trong việc phát nương làm rẫy dẫn đến nguy cơ cháy rừng, đe dọa sự tồn tại của nhiều loài và làm suy giảm nhanh chóng đa dạng sinh học trong khu vực.
Hình 4.10: Phá rừng làm nương ở khu vực Khuổi Lịa
Hoạt động phá rừng để làm nương rẫy không chỉ gây hại trực tiếp đến các loài sinh vật mà còn làm biến đổi môi trường sống, giảm khả năng tái sinh của thảm thực vật Điều này tạo điều kiện cho sự xâm lấn của các loài cây mọc hoang và cây dại vào rừng, đe dọa sự cân bằng sinh thái và môi trường sống của các loài tự nhiên.
Tiếng nổ mìn từ các khu vực khai thác ven KBTLVSC Nam Xuân Lạc như Lũng Cháy và Bình Chai có thể ảnh hưởng đến vùng trung tâm của Khu bảo tồn Trước đây, khoảng 3-4 năm, hoạt động khai thác quặng diễn ra ngay trong lòng KBT, dẫn đến việc nhiều loài thực vật gần các mỏ quặng bị vùi lấp, dẫm đạp và chặt hạ, làm suy giảm nguồn tài nguyên của khu vực.
Lửa rừng có tác động nghiêm trọng đến tài nguyên thực vật rừng, ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của tầng cây cao và sự phát triển của lớp cây tái sinh Nó cũng làm giảm khả năng giữ ẩm cho đất và gia tăng xói mòn đất từ tầng cây bụi thảm tươi Nguyên nhân gây ra lửa rừng thường do con người, như đốt nương làm rẫy mà không kiểm soát, hoặc do thiếu ý thức khi sử dụng lửa trong rừng Ngoài ra, các điều kiện tự nhiên như nắng nóng và khô hanh cũng dễ dàng dẫn đến cháy rừng.
4.4.1.6 Chăn thả gia súc Đây cũng là một hoạt động có ảnh hưởng ít nhiều đến sự sinh trưởng phát triển của rừng, đặc biệt là lớp cây tái sinh, cây bụi và thảm tươi của rừng, hay nói cách khác là làm giảm sự ổn định và tính đa dạng của rừng
Theo điều tra, hầu hết các hộ trong vùng có thói quen chăn thả gia súc tự do mà không có bãi chăn thả riêng Thức ăn chính cho trâu, bò chủ yếu là rễ, lá của các loại thực vật, rau, cỏ và củ Thực tế, nguồn thức ăn do người dân sản xuất ra không nhiều, do đó gia súc chủ yếu phụ thuộc vào cây cỏ có sẵn trong tự nhiên.
Tình trạng đói nghèo ở các xã Xuân Lạc và Bản Thi chủ yếu do các nguyên nhân như: kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp thuần túy, trình độ dân trí thấp, giao thông khó khăn, lực lượng lao động chưa được đào tạo, và sản xuất thủ công dựa trên kinh nghiệm mà chưa áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật Những yếu tố này dẫn đến năng suất thấp và đời sống khó khăn cho người dân.
Vì vậy, người dân dựa vào rừng là chủ yếu Nên việc khai thác trái phép sẽ không tránh khỏi Đặc biệt, trong khu vực vùng lõi của KBT
Các giải pháp bảo tồn đa dạng thực vật ở KBTLVSC Nam Xuân Lạc 55 1 Giải pháp tổ chức
Bảo tồn và phát triển đa dạng sinh học (ĐDSH) cần gắn liền với việc nâng cao nhận thức và đảm bảo cuộc sống ổn định cho người dân trong khu vực bảo tồn và các vùng lân cận Các chiến lược bảo tồn và phát triển bền vững ĐDSH phải chú trọng đến phát triển kinh tế cộng đồng Hiệu quả của hoạt động bảo tồn sẽ cao hơn khi lợi ích từ tài nguyên sinh vật và ĐDSH được chia sẻ, khuyến khích sự tham gia tự nguyện của cộng đồng.
KBTLVSC Nam Xuân Lạc được thành lập nhằm ứng phó với tình trạng dân số gia tăng trong khi diện tích đất nông nghiệp không thay đổi, dẫn đến sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên trong khu bảo tồn Để phát triển và bảo vệ tài nguyên sinh vật tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, cần thực hiện một số giải pháp quan trọng.
Xây dựng một khu trung tâm ổn định và củng cố bộ máy quản lý cùng các đơn vị chức năng để nâng cao hiệu quả hoạt động, đồng thời thường xuyên luân chuyển cán bộ giữa các Trạm Quản lý Bảo vệ Rừng (QLBVR).
Để bảo vệ rừng tại KBTLVSC Nam Xuân Lạc, cần thiết lập các Trạm Kiểm lâm gần vùng lõi của khu bảo tồn Các trạm này sẽ thực hiện tuần tra thường xuyên nhằm ngăn chặn các hoạt động khai thác gỗ, củi, lâm sản và săn bắn động vật, góp phần bảo vệ hệ sinh thái và đa dạng sinh học trong khu vực.
Các chương trình bảo tồn gen cho các loài động, thực vật quý hiếm được xác định nhằm bảo vệ những loài có tên trong Sách Đỏ Việt Nam Đồng thời, chương trình cũng tập trung vào việc bảo vệ và phục hồi rừng tại các khu bảo tồn, góp phần duy trì đa dạng sinh học và bảo vệ môi trường.
4.5.2 Giải pháp bảo vệ rừng Để triển khai thực hiện công tác quản lý bảo vệ rừng đạt hiệu quả cao cần phải có những giải pháp tích cực như sau:
Tăng cường lãnh đạo và giám sát từ các ngành và cấp để bảo vệ rừng, đồng thời nâng cao quản lý đối với khu vực dân cư Cần chú trọng kiểm soát chặt chẽ các xưởng cưa, mộc và vườn cây cảnh nhằm đảm bảo công tác bảo vệ tài nguyên rừng hiệu quả.
Đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ trong lĩnh vực bảo tồn thiên nhiên là cần thiết, thông qua việc tổ chức các khoá học chuyên ngành dài hạn và ngắn hạn Bên cạnh đó, việc tăng cường học tập kinh nghiệm tại các vườn quốc gia và khu bảo tồn đã thành công trong công tác bảo tồn thiên nhiên cũng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả công việc.
- Tăng cường mức đầu tư trang thiết bị an toàn, phương tiện kể cả vũ khí (súng) cho lực lượng làm công tác bảo vệ rừng
Xây dựng cơ chế chính sách giao khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng dân cư là rất quan trọng, nhằm quản lý hiệu quả các hộ nhận khoán trong việc thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi theo hợp đồng.
- Xây dựng nội quy các biển báo, biển cấm tại những nơi có nhiều người dân sinh sống và đi qua
Cần tăng cường công tác phối hợp chặt chẽ với cấp Ủy và Chính quyền các xã ven rừng, đồng thời yêu cầu các hộ dân ven khu bảo tồn ký cam kết bảo vệ rừng Để thực hiện hiệu quả Chỉ thị 08-CT/TU ngày 02/7/2012 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy, cần ngăn chặn và xử lý các hoạt động khai thác, vận chuyển, chế biến khoáng sản, lâm sản trái phép gây hủy hoại môi trường tại tỉnh Bắc Kạn Ngoài ra, cần tuân thủ Quyết định số 1718/2013/QĐ-UBND ngày 19/10/2012 về quản lý và sử dụng cưa xăng, phương tiện độ chế tại các Khu bảo tồn và Vườn quốc gia trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn.
4.5.3 Giải pháp phục hồi rừng
Tiếp tục triển khai các chương trình phục hồi rừng có kiểm soát, tập trung vào những khu vực rừng cụ thể với cây trồng là các loài cây bản địa mọc nhanh.
Mỗi năm, khu vực các xã Xuân Lạc và Bản Thi thực hiện khoanh nuôi tái sinh tự nhiên trên diện tích 100 ha, tập trung vào các trảng cây bụi đã có sự tái sinh (rừng Ic) Nhiệm vụ chính bao gồm giám sát, bảo vệ, và phòng chống cháy rừng, đồng thời có thể giao khoán cho người dân tham gia bảo vệ rừng.
Trồng rừng mới 50 ha/năm trên các đối tượng trảng cỏ không có tái sinh bằng cây bản địa
Giao khoán bảo vệ rừng cho cộng đồng địa phương là một giải pháp hiệu quả nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường Đồng thời, việc hướng dẫn kỹ thuật lâm nghiệp cho người dân giúp họ nắm vững cách trồng dặm và chăm sóc cây trên diện tích đất đã được giao Công tác đôn đốc và giám sát việc thực hiện trồng rừng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững của rừng.
Chỉ cho phép canh tác cây nông nghiệp dưới tán rừng trồng, cấm làm nương và trồng cây khác Đồng thời, không được xây dựng nhà tạm trên đất giao khoán trồng rừng và phải bảo vệ rừng để tránh lấn chiếm đất rừng.
4.5.4 Xúc tiến các hoạt động nghiên cứu khoa học phục vụ bảo tồn
Khu bảo tồn đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu khoa học đa lĩnh vực, vì vậy cần có đội ngũ cán bộ trình độ cao và cơ sở hạ tầng, trang thiết bị hoàn thiện Để đáp ứng nhu cầu này, cần tăng cường lực lượng cán bộ nghiên cứu, thực hiện điều tra và khoanh nuôi các loài quý hiếm đang bị đe dọa, nhằm nâng cao biện pháp bảo vệ Đồng thời, cần nghiên cứu các mô hình phát triển kinh tế phù hợp với vùng đệm, tìm ra sinh kế bền vững cho người dân để giảm áp lực vào rừng.