Mục tiêu nghiên cứu của luận văn là xác định được một số cơ sở khoa học nhằm chuyển hóa rừng Keo lá tràm, Thông mã vĩ thành rừng hỗn loài với đa số loài cây lá rộng bản địa để phát triển rừng bền vững cả về kinh tế và sinh thái môi trường. Mời các bạn cùng tham khảo!
Trên thế giới
Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu và thử nghiệm trồng rừng thành công bằng các loài cây bản địa Một số nghiên cứu cho thấy khả năng sinh trưởng và giá trị kinh tế của cây bản địa khi được trồng dưới tán rừng cây lá kim hoặc cây lá rộng thuần loài.
Tại Đài Loan và một số quốc gia châu Á, việc trồng cây lá kim để phủ xanh đất trống trên đồi núi đã dẫn đến việc gây trồng cây bản địa dưới tán rừng Kết quả là hình thành những mô hình rừng hỗn giao bền vững, không chỉ đạt năng suất cao mà còn có tác dụng hiệu quả trong việc bảo vệ đất khỏi xói mòn.
Vào năm 1999, Malaysia đã triển khai một dự án xây dựng rừng nhiều tầng nhằm thiết lập mô hình rừng hỗn loài, bao gồm rừng tự nhiên và rừng trồng Keo tai tượng (Acacia mangium) từ 2 đến 15 tuổi Dự án này đã trồng 23 loài cây bản địa có giá trị, bố trí theo băng 30m trong rừng tự nhiên với 6 hàng cây bản địa trên mỗi băng Đồng thời, 14 loài cây bản địa cũng được trồng dưới tán rừng Keo tai tượng trong hai khối thí nghiệm khác nhau.
Khối A: Mở băng 10m trồng 3 hàng cây bản địa;
Mở băng 20m trồng 7 hàng cây bản địa;
Mở băng 40m trồng 15 hàng cây bản địa;
Khối B: Chặt 1 hàng Keo trồng 1 hàng cây bản địa;
Chặt 2 hàng Keo trồng 2 hàng cây bản địa;
Chặt 4 hàng Keo trồng 4 hàng cây bản địa…
Kết quả cho thấy, trong 14 loài cây trồng trong khối A, có 3 loài: Shorea roxburrghii; S ovalis; S leprosula sinh trưởng chiều cao và đường kính tốt nhất
Tỷ lệ sống của cây trồng không có sự khác biệt rõ rệt, trong khi sinh trưởng chiều cao đạt tối ưu ở băng 10m và 40m; băng 20m không đáp ứng yêu cầu sinh trưởng chiều cao Khối B cho thấy tỷ lệ sống và sinh trưởng chiều cao tốt nhất khi trồng theo 1 hàng, trong khi sinh trưởng đường kính phát triển tốt với các công thức trồng 6 hàng và 16 hàng Dự án cũng đã lập kế hoạch điều chỉnh các công thức trồng vào các thời điểm 2, 8, 12, 18, 28, 34, 41 và 47 năm sau khi trồng.
Nghiên cứu của Jensen năm 1983 tại Đan Mạch cho thấy rằng cây Vân sam (Abies) khi trồng trong hỗn giao với Linh sam bạc (Abies alba) có năng suất cao hơn so với trồng thuần loài Tương tự, cây Bulô khi kết hợp với Thông cũng phát triển tốt hơn so với Bulô thuần loài Hơn nữa, việc tạo ra hỗn giao 25-50% giữa Betula pendula và Abies đã làm tăng sản lượng của Abies ở mọi độ tuổi.
Tại Costa Rica, ba kiểu rừng trồng bao gồm hỗn giao của bốn loài cây bản địa với khả năng chịu bóng khác nhau, phát triển trong vùng đất thấp ẩm ướt Nghiên cứu cho thấy rằng, từ 2 đến 4 năm tuổi, đường kính ngang ngực của các quần thụ hỗn giao lớn hơn so với các quần thụ thuần loài của những loài cây mọc nhanh.
Một nghiên cứu của Haggar và Ewel vào năm 1995 và 1997 tại vùng đất thấp Đại Tây Dương của Costa Rica cho thấy rằng loài Hyeronima alchorneoides và Cordia alliodora thường phát triển nhanh hơn trong rừng trồng hỗn loài so với trong các quần thụ thuần loài Sự khác biệt này có thể do cấu trúc hệ thống rễ và tán lá, cho phép các loài phối hợp hiệu quả hơn trong không gian.
Cordia alliodora ở Costa Rica trong rừng hỗn loài nhanh hơn trong các quần thụ thuần loài (7,9m trong hỗn giao và 4,9m trong thuần loài ở 2 năm tuổi) [30]
Việc tạo lập các loài cây hỗ trợ cho cây trồng chính trước khi xây dựng mô hình rừng trồng hỗn loài là rất quan trọng Nghiên cứu của Mathew (1995) chỉ ra rằng cây họ đậu có tác dụng hỗ trợ tốt cho cây trồng chính, khẳng định tính phù hợp của việc sử dụng cây họ đậu làm cây phù trợ Ngoài việc xác định loài cây phù trợ, nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật điều chỉnh lâm phần rừng trồng hỗn loài cũng rất cần thiết Ball, Wormald và Russo (1994) đã chứng minh rằng việc giảm bớt sự cạnh tranh giữa các loài cây thông qua các biện pháp tỉa cành, tỉa thưa giúp cây mục đích phát triển tốt hơn Đặc điểm nổi bật của rừng hỗn loài là cấu trúc nhiều tầng tán, điều này đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong việc nghiên cứu tạo rừng hỗn loài nhiều tầng.
Nghiên cứu năm 1995 chỉ ra rằng cấu trúc tầng tán của rừng trồng hỗn loài phụ thuộc vào đặc tính sinh trưởng và tính hợp quần của các loài cây Để xây dựng mô hình rừng trồng hỗn loài hiệu quả, cần chú trọng đến sự sinh trưởng và mối quan hệ giữa các loài cây, từ đó lựa chọn cây trồng phù hợp Điều này đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định thành công hay thất bại của các mô hình rừng trồng hỗn loài.
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài cho thấy việc bố trí các loài cây ảnh hưởng đáng kể đến sinh trưởng của chúng, tùy thuộc vào số lượng cá thể và khoảng cách trồng Kolexnitsenko (1997) đã xác định 5 nguyên tắc lựa chọn loài cây trong mô hình trồng rừng hỗn loài, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phối hợp giữa các loài cây gỗ.
Nguyên tắc kiểu lâm hình học
Nguyên tắc sinh vật dinh dưỡng
Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ
Các nguyên tắc cơ bản về rừng trồng hỗn loài rất quan trọng để xây dựng mô hình thành công Nguyên tắc cảm nhiễm tương hỗ cần nghiên cứu kỹ lưỡng, vì nó ảnh hưởng đến sự tồn tại và sinh trưởng của các loài Sự phân loại cây theo đặc điểm hoạt hóa như kích thích, ức chế hay kìm hãm, thông qua phitonxits, là cơ sở để xác định tỷ lệ các loài trong rừng hỗn loài Theo nghiên cứu của Kolexnitsenko, tỷ lệ loài cây trồng chính nên đạt ít nhất 50%, loài cây hoạt hóa không quá 30-40%, và loài cây ức chế không vượt quá 10-20% tổng số loài.
Các nghiên cứu về cây bản địa và trồng rừng hỗn loài trên thế giới, mặc dù chưa phong phú, đã cung cấp thông tin quý giá về việc khai thác độ tàn che tầng cây cao, sử dụng cây phù trợ và cách bố trí loài cây trong mô hình thí nghiệm Những dữ liệu này, kết hợp với thông tin về tiểu hoàn cảnh rừng ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa, sẽ là tài liệu tham khảo và bài học kinh nghiệm hữu ích cho đề tài nghiên cứu.
Với đặc thù riêng của rừng nhiệt đới người ta thường tác động theo các hướng sau: a Hướng thứ nhất:
Từ những lâm phần rừng tự nhiên hỗn giao lá rộng, các biện pháp kỹ thuật lâm sinh đã chuyển đổi chúng thành những lâm phần có cấu trúc ít phức tạp, ưu tiên cho một số loài cây có giá trị kinh tế và tuổi đời đồng đều Tại một số quốc gia Châu Phi nói tiếng Pháp, phương pháp trồng dặm dưới tán theo kiểu quảng canh được áp dụng Fomy (1956) đã tổng kết kinh nghiệm về kiểu rừng trồng dặm và nêu ra 7 điểm kỹ thuật cần thiết để đạt được thành công.
Đặt cây với khoảng cách hẹp dọc theo rạch trồng giúp tối ưu hóa số lượng cây cần giữ lại và giảm chi phí nhân công chăm sóc.
2 Chỉ dùng những loài cây ưa sáng
3 Rạch trồng theo hướng Đông - Tây để thu được ánh sáng tối đa
4 Khai thác rừng đầy đủ trước khi trồng
5 Phương pháp không đem lại hiệu quả gì nếu có thú lớn
6 Không bao giờ đánh giá thấp sự cạnh tranh của rễ cây và bóng rợp ở trên đầu và bên sườn
7 Xử lý toàn bộ quần thể coi như đã được tái sinh một cách tự nhiên sau khi trồng cây b Hướng thứ hai
Việc thay thế hoàn toàn lâm phần cũ bằng lâm phần mới, hay còn gọi là phương pháp cải tạo triệt để, đã được nhiều quốc gia áp dụng để tạo ra diện tích rừng đồng tuổi, thuần loài với giá trị kinh tế cao Theo tài liệu của Baur, Catino đã nghiên cứu và đánh giá các phương thức tái sinh rừng tự nhiên và nhân tạo ở Châu Phi, Ấn Độ và một số nước Đông Nam Á, kết luận rằng việc đưa cây rừng vào các thảm rừng tự nhiên nhằm bổ sung tổ thành và nâng cao chất lượng rừng phụ thuộc vào cách xử lý, điều kiện ánh sáng, và việc xử lý các thảm rừng cũ một cách thích hợp với đặc tính sinh thái của từng loài ở từng giai đoạn tuổi khác nhau để đạt hiệu quả cao nhất.
Ở Việt Nam
Nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao
Trồng rừng hỗn loài ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ những năm 1931 Điển hình là công trình nghiên cứu của tác giả người Pháp Maurand tại Trảng Bom
Tại Đồng Nai, một thử nghiệm trồng rừng hỗn loài với các cây như Sao đen (Hopera odorata), Dầu rái (Dipterocarpus alatus), và Vên vên (Anisoptera costata) đã được thực hiện trong các rạch hẹp 1-2m, sau đó mở rộng ra 5m Cây bụi thảm tươi trong rạch được phát dọn nhưng vẫn giữ lại lớp che bóng ở tầng trên, phương pháp này được gọi là “trồng rừng dưới tán che dày và thấp” Sau 2 năm, thử nghiệm gặp phải vấn đề cỏ lấn át, tác giả đã cải tiến bằng cách phát quang các tầng trên và chỉ giữ lại loài cây ưu thế, gọi là “trồng rừng dưới tàn che cao và nhẹ” Tuy nhiên, đến năm thứ 3, cây trong rạch sinh trưởng không bình thường, do đó, tác giả đã sử dụng thảm che nhân tạo với các loài cây họ đậu như Muồng đen (Cassia siamea) và Đậu tràm (Indigofora teysmanii), cho rằng việc kết hợp cây che phủ ban đầu với cây che phủ trung gian là hiệu quả Tác giả cũng nhận định rằng ánh sáng trong rạch chừa ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cây trồng chính.
Năm 1962, các nhà lâm học thuộc Học viện Nông lâm đã thực hiện thí nghiệm trồng rừng hỗn loài với cây Mỡ (Manglietia glauca Wull BL) là loài chính, kết hợp với các loài cây bạn như Lim Xanh theo từng cặp.
(Erythrophloeum fordii); Mỡ + Xà cừ (Khây senegalensis Benth), Mỡ + Tếch
Tectona grandis Linn (Tếch) và Xà cừ không phù hợp với điều kiện đất đai và kỹ thuật trồng, dẫn đến tốc độ sinh trưởng chậm và bị cạnh tranh bởi các loài cây khác, cuối cùng chỉ còn lại Mỡ thuần loài Trong khi đó, Lim xanh có sự phát triển kém trong hai năm đầu nhưng sau đó tăng trưởng nhanh chóng, đạt chiều cao tương đương với Mỡ ở tuổi 10-12 Trần Nguyên Giảng nhận định rằng Lim xanh có khả năng trồng hỗn loài với Mỡ, tuy nhiên chưa xác định được tỷ lệ thích hợp Về khả năng cải thiện đất, Lim xanh có thể đáp ứng nhu cầu này, trong khi tác dụng của Xà cừ và Tếch chưa rõ ràng.
Từ năm 1971 đến 1976, Nguyễn Bá Chất và các cộng sự đã tiến hành thí nghiệm trồng rừng hỗn loài Bồ đề kết hợp với Mỡ và Xoan đào tại Tuyên Quang và Phú Thọ, sử dụng các loài cây phù trợ có khả năng cố định đạm như Cốt khí, Ràng rang mít, và Lim xẹt Kết quả sau 5 năm cho thấy năng suất của rừng Bồ đề trồng hỗn loài có cây phù trợ tăng từ 15 đến 20% so với rừng không có cây phù trợ.
Bồ đề trồng thuần loài Lượng thảm mục dưới rừng trồng hỗn loài được cải thiện hơn so với rừng trồng thuần loài [11]
Kể từ năm 1980, nghiên cứu phục hồi rừng bằng cây bản địa lá rộng đã thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả, đặc biệt là công trình của Nguyễn Bá Chất (1981 - 1985) về phục hồi rừng vùng Sông Hiếu Ông đã xây dựng cấu trúc hỗn loài Lát hoa kết hợp với các loài cây lá rộng bản địa như Lim xẹt, Giổi xanh, Thôi chanh, Lõi thọ, và Ràng ràng, nhằm tạo ra một cấu trúc rừng hợp lý Kết quả theo dõi đến năm thứ 10 cho thấy sinh trưởng của rừng Lát hoa trồng hỗn loài tốt hơn so với rừng Lát hoa trồng thuần loài.
Từ năm 1985 đến 1990, Nguyễn Xuân Quát đã thực hiện các cuộc thử nghiệm trồng cây Tếch kết hợp với Đậu tràm và Muồng đen tại Tây Nguyên Kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả sinh trưởng của cây Tếch vẫn chưa rõ ràng, nhưng đã tạo ra một cấu trúc rừng kết hợp giữa cây rụng lá vào mùa khô, cây Đậu tràm và cây Muồng đen thường xanh.
Nguyễn Bá Chất (1996) đã nhận thấy việc chọn loài phối hợp với Lát hoa
(Chukrasia tabularis A.Juss) đang còn khoảng trống cơ sở lý luận và thực tiễn Thí nghiệm trồng hỗn giao Lát hoa với các loài Trai (Garcinia fagraeo ides A.Chew),
Nghiến (Burretiodendron tonkinense), Bứa (Garcinia oblongifolia Champ), … ở tuổi 5 chưa thấy có ảnh hưởng đến sinh trưởng của Lát hoa [7]
Khi so sánh mười tám loài cây bản địa và nhập nội (trong đó có Giổi xanh
Michelia mediocris Dandy, Lát hoa (Chukrasia tabularis A.Juss) và Bạch đàn (urophylla) đã được trồng thử nghiệm tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc, nhưng tỷ lệ sống của các loài này đều thấp và không phù hợp với việc phát quang thực bì khi trồng Trong khi đó, nghiên cứu của Lại Hữu Hoàn (2004) về trồng rừng cây bản địa lá rộng ở Trung Trung Bộ cho thấy Trám trắng trồng theo phương thức hỗn giao có tỷ lệ sống cao đạt 80%, với tốc độ tăng trưởng chiều cao 1,25m/năm và đường kính 1,3cm/năm.
Nguyễn Minh Đức (1998) đã nghiên cứu sự sinh trưởng của loài Lim xanh tại vườn quốc gia Bến En - Thanh Hóa và nhận thấy rằng sự thay đổi cường độ ánh sáng ảnh hưởng đến nhiệt độ, từ đó làm biến đổi độ ẩm dưới tán rừng Điều này có tác động đáng kể đến sự phát triển của cây rừng, đặc biệt là lớp cây tái sinh (Hoàng Văn Thắng, 2007).
Trần Ngũ Phương (2000) đã nghiên cứu và đề xuất mô hình thiết kế rừng trồng hỗn loài nhiều tầng nhằm phục vụ cho mục đích phòng hộ và sản xuất, bao gồm các phương thức hỗn loài giữa cây cao và cây bụi, cũng như giữa cây cao với cây cao Dựa trên các quy luật của rừng tự nhiên miền Bắc Việt Nam, tác giả chỉ ra rằng thảm thực vật rừng ở nước ta thường phân thành 2 đến 3 tầng cây gỗ, kèm theo tầng cây nhỡ và thảm tươi Mô hình trồng rừng hỗn loài được đề xuất nhằm đáp ứng nhu cầu phòng hộ đầu nguồn cho các vùng xung yếu, trong đó nổi bật là hai mô hình: rừng sản xuất khí hậu vĩnh viễn nhiều tầng và rừng sản xuất thứ sinh tạm thời nhiều tầng.
Khi đánh giá các mô hình trồng rừng hỗn giao ở phía Bắc, Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) nhận thấy sự đa dạng trong lựa chọn loài cây, bao gồm cây mọc chậm, cây mọc nhanh, cây lá kim, cây lá rộng, cũng như cây bản địa và cây nhập nội Các mô hình trồng hỗn giao chủ yếu bao gồm hai loài cây với ba phương pháp chính: hỗn giao trong cùng hàng, hỗn giao theo hàng và hỗn giao theo đám Cây Keo thường được sử dụng làm cây phù trợ, bất kể mối quan hệ của nó với cây trồng chính.
Sau 2 đến 3 năm trồng, nhiều mô hình cây trồng chính thường sinh trưởng kém và bị keo lấn át Tuy nhiên, mô hình ở Cầu Hai cho thấy sự thành công nhờ lựa chọn loại cây trồng hợp lý và khoảng cách bố trí giữa các cây (3x4m), giúp cây phụ trợ phát huy tác dụng, hỗ trợ cho cây trồng chính sinh trưởng và phát triển bình thường.
Một nghiên cứu khác của Hoàng Văn Thắng và cộng sự (2005) về trồng rừng hỗn giao Keo trắng (Paraserianthes falcataria) và Lõi thọ (Gmelia arboria) ở
Lương Sơn - Hoà Bình cho thấy trên đất rừng sau nương rẫy, có độ dốc từ 15 đến
Hỗn giao theo băng đã được thực hiện với tỷ lệ 20:0, cả Keo trắng và Lõi thọ đều phát triển tốt, không có dấu hiệu sâu bệnh Đặc biệt, Lõi thọ đã bắt đầu ra hoa, tạo điều kiện để chuyển hóa thành rừng giống.
Trong dự án nghiên cứu rừng trồng hỗn giao các loài cây gỗ giá trị cao giữa Viện nghiên cứu cây nguyên liệu giấy và Trường đại học Queensland, đã thực hiện nhiều thí nghiệm tại Bắc và Nam Việt Nam Kết quả cho thấy, tại Đoan Hùng, Phú Thọ, sự kết hợp trồng cây Giổi xanh (Michelia mediocris) và Bạch đàn (Eucalyptus urophylla) theo hàng mang lại năng suất cao gấp 1,5 lần so với trồng thuần loại.
Nghiên cứu về rừng trồng hỗn loài không chỉ tập trung vào các loài cây lá rộng mà còn mở rộng sang sự kết hợp giữa cây lá kim và cây lá rộng, cũng như giữa các loài cây nhập nội Năm 1986, Phùng Ngọc Lan đã thực hiện một nghiên cứu tại Núi Luốt - Trường Đại học Lâm nghiệp - Xuân Mai, chọn Thông mã vĩ (Pinus massoniana Lamb) làm đối tượng chính Trong nghiên cứu, tác giả đã trồng hỗn loài Thông mã vĩ với Keo lá tràm (Acacia auriculiformis) và Bạch đàn trắng theo nhiều tỷ lệ, mật độ, phương thức và thời điểm khác nhau Dựa trên các chỉ tiêu sinh trưởng, động thái đất và sâu bệnh hại, tác giả đã đưa ra những nhận xét quan trọng về hiệu quả của các phương pháp trồng rừng này.
Sau 2 năm phát triển, thông trồng hỗn loài cho kết quả sinh trưởng tốt hơn so với thông trồng thuần loài Tỷ lệ hỗn giao không có ảnh hưởng rõ rệt đến sự sinh trưởng của thông trong các công thức thí nghiệm.
Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng trồng
Rừng trồng thuần loài trước đây thường không bền vững, đặc biệt ở các khu vực phòng hộ và rừng đặc dụng Do đó, nghiên cứu trồng cây bản địa dưới tán rừng thuần loài trở nên cần thiết, nhất là trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu Sự cấp thiết này đã thúc đẩy nhiều công trình nghiên cứu về trồng cây bản địa dưới tán, điển hình là các dự án nghiên cứu sau đây.
Phạm Xuân Hoàn (2002) đã nghiên cứu các yếu tố tiểu hoàn cảnh của rừng trồng thử nghiệm một số loài cây lá rộng nhiệt đới dưới tán rừng Keo lá tràm và Keo tai tượng tại khu phục hồi sinh thái Vườn quốc gia Cát Bà, Hải Phòng, và đã đạt được một số kết quả quan trọng.
Hai loài cây tạo môi trường, Keo lá tràm và Keo tai tượng, được trồng thuần loài với mật độ 3.300 cây/ha vào năm 1992 Đến năm 1994, rừng Keo tai tượng khép tán, và năm 1995, rừng Keo lá tràm cũng khép tán, đồng thời cây bản địa được trồng dưới tán rừng Sự khác biệt chính giữa hai loài cây này là sau khi khép tán, tán lá dày của rừng Keo tai tượng ngăn cản sự phát triển của cây bụi thảm tươi, dẫn đến bề mặt đất rừng rất khô Ngược lại, dưới tán rừng Keo lá tràm có tán lá thưa, tạo điều kiện cho sự phát triển của thảm thực vật dưới tán.
12 loài cây bụi thảm tươi có độ che phủ trên 75% và chiều cao trung bình 0,83m giúp duy trì độ ẩm tầng đất mặt ổn định Yếu tố này rất quan trọng, ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và chất lượng sinh trưởng của cây bản địa.
Với 10 loài cây bản địa, bao gồm Gội trắng (Aphanamixis grandifolia Blume), Re hương (Cinnamomum inners), Nhội (Bischofia trifoliate Roxb), Trám
Cinnamomum sp, Dracontomelon duperreanum, Chukrasia tabularis A.Juss, Erythrophloeum fordii, Peltophorum tonkinense A.Chev, Castanopsis sp, and Podocarpus fleurgi Hickel have been cultivated under the canopy of Acacia auriculiformis forests.
Keo tai tượng (A mangium Wild) tại Vườn quốc gia Cát Bà (Hải Phòng) được trồng theo phương thức hỗn giao hàng Kết quả theo dõi từ năm 1995 đến 2000 cho thấy rằng các loài cây bản địa sinh trưởng kém hơn dưới tán Keo tai tượng so với Keo lá tràm Tỷ lệ sống của cây bản địa dưới tán Keo tai tượng chỉ đạt 79,1%, trong khi đó ở Keo lá tràm là 95,3%, với sự tăng trưởng bình quân của cây bản địa cao hơn Cụ thể, loài Gội trắng có chỉ số ZDoo = 0,61cm, ZHvn = 0,45m, ZDt = 0,08m Tác giả cho rằng tầng cây cao là yếu tố chính ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa ở tầng dưới.
Năm 1998, Hoàng Vũ Thơ đã nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố sinh thái đến sự sinh trưởng của cây Lim xanh (Erythrophloeum fordii) trồng dưới tán rừng Kết quả cho thấy cây Lim xanh phát triển tốt nhất khi độ tàn che của tầng cây đạt từ 0,1-0,4%.
Năm 2007, Nguyễn Đức Thế đã tiến hành nghiên cứu 10 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo lá tràm (A auriculiformis) và Keo tai tượng (A mangium Wild) tại Vườn quốc gia Cát Bà Kết quả cho thấy, sau một năm trồng, các loài cây bản địa này có sự sinh trưởng tương đối tốt Tuy nhiên, sang năm thứ hai, cây trồng dưới tán rừng Keo lá tràm phát triển tốt hơn so với cây trồng dưới tán rừng Keo tai tượng.
MỤC TIÊU- NỘI DUNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu xác định các cơ sở khoa học để chuyển đổi rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ thành rừng hỗn loài, chủ yếu với các loài cây lá rộng bản địa, nhằm phát triển rừng bền vững về cả kinh tế và sinh thái môi trường.
- Đánh giá sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa trồng dưới tán rừng
- Đánh giá đặc điểm, điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu
- Đánh giá ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng
- Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng.
Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu trên, luận văn thực hiện các nội dung nghiên cứu sau:
2.2.1 Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu
- Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao
- Đặc điểm sinh tưởng tầng cây bản địa
2.2.2 Đặc điểm điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu
- Tính chất lý, hóa (pHKCl, dung trọng, tỷ trọng, độ xốp, hàm lượng mùn, N- P-K dễ tiêu).
2.2.3 Ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa khu vực nghiên cứu
- Ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa
2.2.4 Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến tính chất đất
2.2.5 Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng
- Biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng các loài cây bản địa được nghiên cứu
- Kỹ thuật chăm sóc các loài cây bản địa được nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Từ năm 1985 - 1986 trường Đại học Lâm nghiệp đã triển khai trồng rừng phủ xanh đất trống đồi núi trọc bằng các loài cây: Thông, Keo, Bạch đàn,… Đến năm 1995 -
Năm 1996, Trung tâm NCTN&PT rừng đã bắt đầu trồng thử nghiệm các loài cây bản địa được thu thập từ nhiều nơi, với việc trồng bổ sung diễn ra từ năm 1995 đến 2002 Hiện tại, những cây bản địa này có độ tuổi phổ biến từ 9 đến 16 năm Do thời gian trồng các loài không đồng nhất và hạn chế về thời gian nghiên cứu, bài viết chỉ chọn ra ba loài có cùng thời gian trồng để tiến hành nghiên cứu.
Lim xanh (Erythrophloeum fordii Oliv) là một loài cây gỗ lớn với thân thẳng tròn và bạnh nhỏ Cây có tán xòe rộng, vỏ màu nâu với nhiều nốt sần màu nâu nhạt Thường mọc lẻ, cây phân cành thấp và cành non có màu xanh lục Lá cây là lá kép lông chim hai lần, mọc cách, với lá chét hình trái xoan hoặc trứng trái xoan, đầu nhọn và đuôi gần tròn, cả hai mặt lá đều nhẵn bóng và gân lá nổi rõ.
Cây phát triển chậm và tốc độ sinh trưởng thay đổi tùy theo độ tuổi và vùng phân bố Cây sinh trưởng tốt nhất trong điều kiện khí hậu nhiệt đới với nhiệt độ trung bình hàng năm từ 22,4 đến 24,1 độ C Mặc dù cây ưa sáng, nhưng ở giai đoạn nhỏ, cây có thể chịu bóng.
Lim xanh phân bố nơi đất sét hoặc đất pha sâu dầy Mọc nhiều và sinh trưởng tốt ở độ cao 300m trở xuống…
- Re hương (Cinnamomum inners Reinw)
Cây có kích thước nhỏ, cao từ 15-20m, với thân thẳng, tròn đều và vỏ nứt vẩy vuông cạnh Cành non có màu xanh lục và toàn bộ cây tỏa ra mùi thơm dễ chịu Lá đơn mọc đối, có phiến lá hình trứng, trái xoan hoặc trái xoan dài, với đầu nhọn dần và đuôi nêm rộng hoặc gần tròn Re hương thường phát triển tự nhiên ở những vùng đất ẩm, tơi xốp và có khả năng tái sinh hạt tốt dưới độ tàn che 0,4, đồng thời có khả năng sinh trưởng chồi mạnh mẽ.
Cây nhỏ, cao từ 25-30m với đường kính tối đa 50cm, có vỏ màu xám tro bong mảng Lá của cây là dạng kép lông chim một lần lẻ, mọc đối xứng Các lá chét có hình trái xoan hoặc chứng trái xoan Hoa mọc thành tự xim viên trùy ở đầu cành, trong khi quả nang có hình trụ dài, 4 cạnh và đầu quả nhọn.
Cây mọc chậm, mọc rải rác trong rừng kín lá rậm thường xanh ở miền Bắc
2.3.2 Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu sinh trưởng tầng cây cao, cây bản địa dưới tán; ảnh hưởng của độ tàn che đến sinh trưởng cây bản địa dưới tán; cấu trúc rừng đến đặc điểm thổ nhưỡng và đề xuất một số giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng, tại rừng thực nghiệm núi Luốt, Trường Đại học Lâm Nghiệp.
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
Điều kiện tự nhiên
Núi Luốt, trường Đại học Lâm nghiệp thuộc thị trấn Xuân Mai, huyện Chương
Mỹ, thành phố Hà Nội, cách Hà Đông 22km về phía Đông Nam, cách thị xã Hoà Bình 40km về phía Tây Bắc
Tọa độ địa lý: 20 0 50 ’ 30 ’’ vĩ độ Bắc; 105 0 30 ’ 45 ’’ kinh độ Đông
Phía Tây và Tây Bắc giáp xã Hoà Sơn, huyện Lương Sơn, tỉnh Hoà Bình Phía Nam giáp thị trấn Xuân Mai và quốc lộ 6
Phía Đông giáp quốc lộ 21A
Phía Bắc giáp đội 6 nông trường chè Cửu Long
Khu thực nghiệm núi Luốt nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa đồng bằng phía Đông và đồi núi phía Tây, với địa hình đơn giản và đồng nhất Khu vực này bao gồm hai quả đồi nối tiếp nhau, tạo thành một dải dài, trong đó đỉnh cao nhất đạt 133m so với mực nước biển và đỉnh cao thứ hai là 90m Độ dốc trung bình của khu vực nghiên cứu là 15 độ.
Theo nghiên cứu của bộ môn Đất trường Đại học Lâm nghiệp, đất khu vực núi Luốt có nguồn gốc từ đá mẹ chủ yếu là đá Poocfiarit, với một tỷ lệ nhỏ đá Poocfia thạch anh Đá Poocfiarit là loại đá mắc ma trung tính, chứa các thành phần chính như Al2O3, FeO, MgO, CaO, NaCl và SiO2.
Fe2O3 là thành phần chính trong đá Poocfiarit, loại đá này dễ bị phong hóa do điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm và mưa nhiều Hiện tượng phong hóa này thể hiện rõ ở tầng C, nơi có độ dày lớn và dễ bị bóp vụn Đá lộ đầu chủ yếu xuất hiện ở đỉnh và sườn đỉnh của đỉnh 133m, trong khi ở đỉnh 90m rất hiếm gặp.
Đất ở khu vực nghiên cứu tương đối đồng nhất, phát triển trên loại đá mẹ Poocfiarit, chủ yếu là đất Feralit nâu vàng Màu sắc đất dao động từ vàng nâu đến nâu vàng, với tầng đất từ trung bình đến dày, tập trung chủ yếu ở chân hai quả đồi Tầng đất mỏng chủ yếu nằm ở đỉnh đồi và sườn Đông Bắc của quả đồi thấp cùng sườn Tây Bắc của quả đồi cao Đất trong khu vực có độ chặt khá cao, đặc biệt là lớp đất mặt ở chân đồi và lớp đất sâu ở đỉnh Kết von thật và giả xuất hiện phổ biến, với một số nơi chiếm tới 60 - 70% trọng lượng đất, cho thấy sự tích luỹ sắt đáng kể Đá ong được phát hiện chủ yếu ở chân đồi phía Tây Nam và Đông Nam Hàm lượng mùn trong đất nhìn chung thấp, cho thấy quá trình tích lũy mùn kém.
Những đặc điểm trên phần nào nói lên mức độ Feralít khá mạnh trong khu vực núi Luốt
Trong những năm gần đây, tình trạng xói mòn và rửa trôi đất đã trở nên nghiêm trọng, thể hiện qua cấu trúc phẫu diện đất Tầng A thường mỏng và có tỷ lệ sét cao, khiến đất trở nên dính khi có mưa Tầng B nằm trong khoảng 10 - 110 cm với tỷ lệ sét từ 25 - 26% Tầng C dày hơn, có sự xuất hiện của một số đá lẫn đã bị phong hóa, tạo thành tầng BC xen kẽ Đất ở đây có hàm lượng chất dinh dưỡng cao, với hàm lượng mùn từ 2 - 4% và độ ẩm từ 6 - 9%, trong khi tỷ lệ đá lẫn trong đất ở mức độ trung bình.
Theo kết quả nghiên cứu của trạm thuỷ văn Đại học Lâm nghiệp từ năm
1996 đến năm 2007 (Bảng 3.1) cho thấy, khu vực Xuân Mai thuộc tiểu vùng khí hậu 3 của miền Bắc Việt Nam, hàng năm có hai mùa rõ rệt
- Mùa mưa bắt đầu từ giữa tháng 4 đến tháng 10
- Mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Trong thời gian này lượng mưa nhỏ hơn lượng bốc hơi
- Nhiệt độ trung bình năm là 23,9 0 C
- Nhiệt độ trung bình tháng nóng nhất (tháng 6): 28,5 0 C
_ Nhiệt độ trung bình tháng lạnh nhất (tháng 1):15,7 0 C
Bảng 3.1: Một số chỉ tiêu Khí hậu khu vực Xuân Mai (1996-2007)
Tháng Nhiệt độ ( o C ) Lượng mưa (mm) Độ ẩm không khí (%)
(Nguồn trạm khí tượng thuỷ văn Đại học Lâm nghiệp)
Lượng mưa trung bình năm là 1677,7 mm Phân bố không đều qua các tháng trong năm
- Lượng mưa trung bình tháng cao nhất (tháng 7): 304,3 mm
- Lượng mưa bình quân thấp nhất (tháng 1): 13,8 mm
- Số ngày mưa trong năm 210 ngày
Khu vực nghiên cứu có độ ẩm không khí tương đối cao nhưng phân bố không đều giữa các tháng trong năm
- Độ ẩm không khí trung bình năm là 81,6%
- Tháng có độ ẩm không khí bình quân cao nhất (tháng 3): 85,5%
- Tháng có độ ẩm không khí bình quân thấp nhất (tháng 12): 78,4%
Khu vực nghiên cứu chịu ảnh hưởng của hai luồng gió chính:
- Gió Đông - Bắc thổi từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau
- Gió Đông - Nam thổi từ tháng 4 đến tháng 7
- Ngoài ra từ tháng 4 đến tháng 6 khu vực còn chịu ảnh hưởng của gió Lào
Trước năm 1984, khu vực này chủ yếu có các loài cây bụi thảm tươi như Sim, Mua, Cỏ tranh, Cỏ lào và Xấu hổ Sau năm 1984, Trường Đại học Lâm nghiệp đã bắt đầu trồng rừng nhằm phủ xanh đất trống và đồi núi trọc, với các loài cây trồng chính như Thông mã vĩ (Pinus massonianna Lamb), Keo lá tràm (Acacia auriculiformis Cunn) và Keo tai tượng (Acacia mangium Will) Đến năm 1993, khu vực này đã có sự chuyển biến rõ rệt về mặt cây xanh.
Trung tâm nghiên cứu thực nghiệm rừng, Trường Đại học Lâm nghiệp đã tiến hành trồng thử nghiệm một số loài cây bản địa tại khu vực này
Thảm thực vật đa dạng không chỉ phát huy tác dụng phòng hộ mà còn cải thiện môi trường sinh thái khu vực Tuy nhiên, hiện tại đang tồn tại mâu thuẫn giữa các loài thực vật về nhu cầu dinh dưỡng và ánh sáng.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu
Theo kết quả điều tra 3 loài cây bản địa nghiên cứu được trồng dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ được xác định tại bảng 4.1
Bảng 4.1 Bảng phân bố 3 loài cây bản địa được nghiên cứu
Lâm phần Keo lá tràm Lâm phần Thông mã vĩ Lim xanh
Re hương Đinh thối Lim xanh
4.1.1 Đặc điểm điều tra của lâm phần Keo lá tràm – Lim xanh
Do sự phân bố không đồng đều của các loài cây bản địa trong khu vực nghiên cứu, rừng trồng tại đây có điều kiện lập địa tương đối đồng nhất Chúng tôi đã thiết lập một OTC với diện tích 1.000m2 (40m x 25m) để nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của loài Lim xanh trong môi trường có các loài cây được nghiên cứu tồn tại Kết quả điều tra cho thấy những thông tin cụ thể về sinh trưởng của lâm phần trong khu vực này.
4.1.1.1 Đặc điểm tầng cây cao
Chúng tôi tập trung vào một số đặc trưng chính của tầng cây cao mà không đi sâu vào nghiên cứu chi tiết Dựa trên những đặc trưng này, chúng tôi xác định các biện pháp kỹ thuật nhằm tác động tích cực đến tầng cây cao, từ đó thúc đẩy sự sinh trưởng và phát triển của các loài cây bản địa ở phía dưới.
Tầng cây cao trong khu vực trồng Lim xanh là loài Keo lá tràm, trồng từ năm
1985, đến nay đã được 26 tuổi Từ kết quả điều tra, qua tính toán, chúng tôi thu được các đặc trưng sinh trưởng của tầng cây cao thể hiện ở bảng 4.2
Bảng 4.2: Đặc điểm điều tra tầng cây cao lâm phần
Keo lá tràm - Lim xanh
Tầng cây cao trong lâm phần đã được tỉa thưa để loại bỏ cây kém phát triển và sâu bệnh, tuy nhiên, mật độ và độ tàn che vẫn còn thấp Hiện nay, do nhu cầu ánh sáng và dinh dưỡng của cây bản địa tầng dưới gia tăng, tầng cây cao đang ảnh hưởng tiêu cực đến sự sinh trưởng của chúng Đường kính ngang ngực là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức sinh trưởng của cây rừng, cho thấy hiệu quả của các biện pháp kỹ thuật lâm sinh và khả năng thích ứng của cây với điều kiện môi trường.
Kết quả tính toán cho thấy, đường kính ngang ngực trung bình (D1.3) tăng trưởng hàng năm dao động từ 24,1 đến 26,3 cm, với hệ số biến động S% từ 11,9 đến 14,2% Điều này cho thấy sự phân hoá về đường kính, mặc dù không mạnh.
Chiều cao vút ngọn (Hvn) của cây rừng là chỉ tiêu quan trọng phản ánh sức sinh trưởng và cấu trúc rừng theo mặt phẳng thẳng đứng Nghiên cứu cho thấy Hvn trung bình tăng trưởng hàng năm dao động từ 20,1 đến 20,8m, với hệ số biến động từ 7,2 đến 9,5%, cho thấy sự phân hoá về chiều cao vút ngọn trong lâm phần, mặc dù không rõ rệt.
Chiều cao dưới cành trung bình của cây rừng dao động từ 6,0 - 8,3m với hệ số biến động từ 20,6 - 31,3%, cho thấy sự phân hoá nhỏ về chiều cao Đường kính tán lá (Dt) phản ánh phạm vi không gian dinh dưỡng của cây, với kết quả nghiên cứu cho thấy đường kính tán dao động từ 5,9 - 7,3m và hệ số biến động từ 9,8 - 15,0% Điều này cho thấy mức độ phân hoá về đường kính tán lá là không đáng kể.
4.1.1.2 Đặc điểm tầng cây bản địa
Bảng 4.3: Các chỉ tiêu sinh trưởng của loài Lim xanh lâm phần
Keo lá tràm - Lim xanh
Bảng 4.4: Các chỉ tiêu sinh trưởng bình quân của loài
Lim xanh dưới tán rừng Keo lá tràm năm N/ha (cây) Chất lượng sinh trưởng (%)
Kết quả từ bảng 4.3 và 4.4 cho thấy rằng các chỉ tiêu sinh trưởng trung bình của loài Lim xanh dưới tán rừng Keo lá tràm khá nhỏ, với hệ số biến động (S%) thấp, cho thấy sinh trưởng của loài này chưa có sự phân hoá mạnh Chất lượng sinh trưởng không cao, với tỷ lệ cây xấu và trung bình dao động từ 14,3 – 28,6% Nguyên nhân có thể do ảnh hưởng bất lợi của tầng cây cao đối với sự phát triển của loài Lim xanh.
Bảng 4.5: Tăng trưởng và trữ lượng của Lim xanh dưới tán rừng Keo lá tràm
Zd 1.3 d 1.3 Zh vn h vn ZH dc H dc ZD t D t
Bảng 4.5 cho thấy rằng lượng tăng trưởng hàng năm và mức tăng trưởng bình quân năm của loài Lim xanh trồng dưới tán rừng Keo lá tràm trong suốt sáu năm quan sát đều có xu hướng tích cực và tăng trưởng nhanh chóng.
4.1.2 Đặc điểm điều tra của lâm phần Keo lá tràm - Re hương
4.1.2.1 Đặc điểm tầng cây cao
Bảng 4.6: Đặc điểm điều tra tầng cây cao lâm phần
Keo lá tràm - Re hương
Năm 2011, chúng tôi đã thiết lập bốn ô thử nghiệm (OTC) cho loài Re hương, mỗi ô có diện tích 1.000m² (40m x 25m) nhằm nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của lâm phần Khu vực trồng Re hương có tầng cây cao là loài Keo lá tràm 26 tuổi, được trồng thuần loài và đồng tuổi Kết quả tính toán cho thấy các chỉ tiêu sinh trưởng trung bình hàng năm của tầng cây cao được thể hiện trong bảng 4.6.
Kết quả tính toán cho thấy, đường kính ngang ngực trung bình trong sáu năm dao động từ 17,9 đến 23,1 cm, với hệ số biến động từ 28,1% đến 31,7% Điều này cho thấy sự phân hoá về đường kính, mặc dù không mạnh.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, Hvn trung bình trong sáu năm dao động từ 14,8
Hệ số biến động của Hvn đạt 17,8m, dao động trong khoảng 16,1 - 19,0%, cho thấy sự phân hoá về chiều cao vút ngọn trong lâm phần, mặc dù mức độ phân hoá không mạnh.
Chiều cao dưới cành trung bình dao động từ 4,7 - 5,5m với hệ số biến động từ 41,2 - 49,6%, cho thấy sự phân hóa về chiều cao dưới cành nhưng không lớn Đường kính tán trung bình của lâm phần nằm trong khoảng 4,8 - 5,2m, với hệ số biến động từ 26,0 - 29,0%, điều này cho thấy mức độ phân hóa sinh trưởng đường kính tán không mạnh.
4.1.2.2 Đặc điểm tầng cây bản địa
Bảng 4.7: Các chỉ tiêu sinh trưởng của loài Re hương lâm phần
Keo lá tràm - Re hương
OTC Năm N/ha D1,3 (cm) Hvn (m) Hdc (m) Dt (m)
Bảng 4.8: Các chỉ tiêu sinh trưởng bình quân của loài
Re hương dưới tán Keo lá tràm năm mật độ cây/ha Chất lượng sinh trưởng (%)
Kết quả từ bảng 4.7 và 4.8 chỉ ra rằng, đường kính ngang ngực trung bình trong sáu năm dao động từ 4,0 đến 9,6 cm, với hệ số biến động từ 29,5% đến 62,9%, cho thấy sự phân hoá rõ rệt về đường kính.
Chiều cao trung bình của Hvn trong sáu năm dao động từ 4,9 đến 8,7 mét, với hệ số biến động từ 18,7% đến 37,0% Sự chênh lệch này cho thấy có sự phân hóa mạnh mẽ về chiều cao vút ngọn trong lâm phần.
Chiều cao dưới cành trung bình dao động từ 1,7 - 4,9m với hệ số biến động từ 18,4 - 37,4%, cho thấy sự phân hoá mạnh về chiều cao Đường kính tán trung bình của lâm phần nằm trong khoảng 2,8 - 3,9m, với hệ số biến động từ 28,7 - 35,7%, phản ánh mức độ phân hoá sinh trưởng đường kính, nhưng không mạnh.
Đặc điểm, điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu
4.2.1 Tính chất vật lý của đất tại khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu tính chất vật lý của đất là rất quan trọng để đánh giá tiềm năng và độ phì nhiêu của đất Những tính chất này không chỉ quyết định đến công cụ làm đất mà còn có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến các chỉ tiêu khác trong nông nghiệp.
Tỷ trọng đất là chỉ số quan trọng để xác định độ xốp và phản ánh thành phần khoáng vật cùng hàm lượng chất hữu cơ trong đất Kết quả phân tích tỷ trọng đất dưới tán rừng Thông và Keo được trình bày trong bảng 4.26.
Bảng 4.26: Kết quả phân tích tỷ trọng (g/cm 3 ) của đất dưới tán rừng núi Luốt Loại rừng Độ sâu (cm) Năm 2006 Năm 2010 Biến động (%) Thông
Biểu đồ 4.1: Biến động tỷ trọng đất dưới rừng Thông và Keo
Từ bảng 4.26, tỷ trọng đất dưới rừng trồng Thông và Keo dao động từ 2,55 đến 2,77 g/cm³, cho thấy đất tại khu vực nghiên cứu có tỷ trọng tương đối cao, điều này chứng tỏ đất có lượng mùn trung bình.
Biểu đồ 4.1 cho thấy tỷ trọng đất dưới tán rừng Thông có sự biến động lớn hơn so với đất dưới rừng trồng Keo So với năm 2006, sau 5 năm, sự thay đổi này càng trở nên rõ rệt.
Từ năm 2006 đến 2010, tỷ trọng đất dưới tán rừng Thông có xu hướng tăng dần theo độ sâu, trong khi đó, tỷ trọng đất dưới rừng Keo lại giảm theo thời gian, đặc biệt giảm mạnh ở độ sâu 20 - 30cm Tỷ trọng đất càng nhỏ thì chất lượng đất càng tốt So sánh giữa hai loại rừng, đất dưới rừng Keo được đánh giá là tốt hơn so với đất dưới rừng Thông.
Dung trọng đất là khối lượng (g) của một đơn vị thể tích đất (cm³) trong trạng thái tự nhiên (có khe hở) sau khi đã được sấy khô hoàn toàn, và được biểu thị bằng đơn vị g/cm³.
Kết quả phân tích dung trọng đất tại khu vực nghiên cứu được trình bày ở bảng 4.27
Bảng 4.27: Kết quả phân tích dung trọng (g/cm 3 ) của đất dưới tán rừng
Thông và Keo tại khu vực nghiên cứu
Loại rừng Độ sâu (cm) Năm 2006 Năm 2010 Biến động (%) Thông
Biểu đồ 4.2: Biến đổi dung trọng đất dưới rừng Thông và Keo
Theo bảng 4.27, dung trọng trung bình của đất dưới tán rừng Thông và Keo có xu hướng tăng theo thời gian và độ sâu Tuy nhiên, dung trọng ở tầng đất mặt (0 - 10cm) dưới rừng trồng Thông lại giảm rõ rệt, với mức biến động -18,45% sau 5 năm so với năm 2006, cho thấy Thông có khả năng cải thiện dung trọng đất tầng mặt.
Dung trọng đất ở độ sâu 0 - 10cm dưới rừng trồng Keo tại khu vực nghiên cứu lại tăng chậm Sau khoảng 5 năm, dung trọng trung bình tăng lên 0,02g/cm 3
Nghiên cứu so sánh đất dưới hai loại rừng trồng là Thông và Keo cho thấy dung trọng đất dưới rừng Keo thấp hơn, cho thấy đất ở đây ít bị nén hơn và giàu mùn cũng như chất hữu cơ hơn so với đất dưới rừng Thông.
4.2.1.3 Độ xốp của đất dưới tán rừng Thông và Keo Độ xốp là chỉ tiêu quan trọng dùng để đánh giá đất, độ xốp phản ánh kết cấu của đất “ đất càng tốt, độ xốp càng cao” Mặt khác, độ xốp ảnh hưởng quyết định đến chế độ nhiệt, chế độ ẩm và chế độ không khí của đất Đặc biệt vùng đồi núi nếu đất có độ xốp cao thì phần lớn nước mưa được thấm xuống sâu, hạn chế hiện tượng chảy tràn trên mặt đất Vì vậy, đây là căn cứ quan trọng cho việc quyết định các biện pháp tác động vào đất, liên quan đến quá trình xói mòn và rửa trôi đất Kết quả xác định độ xốp thể hiện ở bảng 4.28
Bảng 4.28: Tổng hợp độ xốp (%) của đất dưới tán rừng
Thông và Keo tại khu vực nghiên cứu Loại rừng Độ sâu (cm) Năm 2006 Năm 2010 Biến động (%) Thông
Biểu đồ 4.3: Biến động độ xốp của đất dưới rừng Thông và Keo
Độ xốp của đất dưới rừng Thông và Keo có sự khác biệt rõ rệt Theo bảng 4.28, độ xốp của đất ở tầng mặt (0 - 10cm) dưới rừng Thông đã tăng sau 5 năm, trong khi ở rừng Keo, độ xốp giảm 1,68% từ 65,71% (2006) xuống còn 64,03% (2010) do khí hậu khắc nghiệt năm 2010 Mức độ xốp của đất dưới cả hai loại rừng dao động trong khoảng 53,67 – 64,03%, cho thấy đất dưới tán rừng khá xốp Độ xốp giảm dần theo chiều sâu, với biến động nhỏ từ -5,67% đến 0,1% Rừng Thông có xu hướng tăng độ xốp chậm, chứng tỏ khả năng cải thiện độ xốp của đất, trong khi rừng Keo ghi nhận mức giảm 2,55% ở tầng mặt 0 – 10cm so với năm 2006, với biến động không rõ rệt ở các tầng sâu hơn.
4.2.2 Tính chất hóa học của đất tại khu vực nghiên cứu
Tính chất hóa học của đất đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá tình trạng môi trường đất, đồng thời ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa đất và cây trồng.
Trong quá trình sinh trưởng và phát triển, thực vật cần một số nguyên tố thiết yếu từ nước và không khí, bao gồm cacbon (C), hydro (H) và oxi (O) Ngoài ra, các nguyên tố khác như nitơ (N), photpho (P), kali (K), canxi (Ca) và magiê (Mg) cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của chúng.
S cùng với các nguyên tố như Fe, Mn, B, Zn, Mo được lấy từ đất, được gọi là các chất dinh dưỡng trong đất Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá chất lượng và độ phì nhiêu của đất.
4.2.2.1 Độ chua của đất Độ chua của đất ảnh hưởng đến cây trồng thông qua việc trao đổi dinh dưỡng của thực vật đối với đất Đồng thời, độ chua của đất còn ảnh hưởng lớn đến khả năng hoạt động của vi sinh vật trong đất Đối với độ chua của đất đề tài nghiên cứu đi sâu phân tích độ chua hoạt động của đất (pHKCl)
Kết quả phân tích pHKCl của đất dưới rừng Thông và Keo tại khu vực nghiên cứu được thể hiện dưới bảng 4.29 sau:
Bảng 4.29: Độ chua hoạt động (pH KCl ) của đất dưới rừng Thông và Keo tại khu vực nghiên cứu Loại rừng Độ sâu (cm) Năm 2006 Năm 2010 Biến động (%) Thông
Biểu đồ 4.4: Biến động độ chua hoạt động của đất dưới rừng Thông và Keo
Biểu đồ 4.4 cho thấy độ chua hoạt động (pHKCl) giảm rõ rệt ở tầng mặt Cả hai loại rừng trồng Thông và Keo đều cho thấy mức biến động đáng kể tại độ sâu này.
Ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa được nghiên cứu…59 1 Sinh trưởng của cây Lim xanh dưới các độ tàn che khác nhau
Dựa trên kết quả điều tra từ 8 ô tiêu chuẩn, tác giả đã nghiên cứu việc trồng 3 loài cây bản địa dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ, đồng thời xác định độ tàn che trong năm.
2011 của các loài được thể hiện thông qua bảng 4.34
Bảng 4.34 Tổng hợp độ tàn che của 8 OTC năm 2011
STT OTC Độ tàn che
Loài cây bản địa Lim xanh Re hương Đinh thối
4.3.1 Sinh trưởng của cây Lim xanh dưới các độ tàn che khác nhau
Dựa trên kết quả điều tra thực tế từ hai khu vực trồng cây Lim xanh với độ tán che khác nhau là 0,4 và 0,5, sinh trưởng của loài này trong giai đoạn 2010-2011 được thể hiện rõ qua bảng 4.35.
Bảng 4.35: Tổng hợp sinh trưởng và chất lượng của loài Lim xanh dưới các độ tàn che khác nhau
Trong giai đoạn 2010 - 2011, bảng 4.35 chỉ ra rằng sinh trưởng của Lim xanh dưới các lâm phần Keo lá tràm và Thông mã vĩ với độ tàn che 0,4 và 0,5 thể hiện sự phân cấp rõ rệt về chất lượng sinh trưởng.
Theo số liệu ở bảng 4.35, Lim xanh sinh trưởng dưới tán Keo lá tràm có đường kính trung bình 9,3cm với hệ số biến động đường kính S% là 12,0 và chiều cao vút ngọn là 11,0% Trong khi đó, Lim xanh trồng dưới tán Thông mã vĩ có đường kính trung bình 11,7cm, với hệ số biến động đường kính S% là 27,2 và chiều cao vút ngọn S% là 22,7.
Như vậy, ta thấy rằng với độ tàn che 0,4 và 0,5 cho các chỉ số về đường kính
Chiều cao, hệ số biến động và chất lượng thân cây của Lim xanh có sự khác biệt rõ rệt, với độ tàn che 0,5 cho thấy loài này sinh trưởng tốt hơn ở độ tàn che 0,4 Nghiên cứu của Trần Ngũ Phương (1970), Thái Văn Trừng (1978), Phùng Ngọc Lan (1980) tại Lạng Sơn về diễn thế rừng Sau sau - Lim xanh và nghiên cứu của Đỗ Thị Quế Lâm về cây Lim xanh dưới tán rừng Thông mã vĩ cho thấy sự tương thích tương đối Các tác giả đều cho rằng Lim xanh tái sinh tốt dưới tán rừng Sau sau ở độ tàn che 0,50 - 0,60, nhưng do Sau sau là loài cây tán thưa và rụng lá mùa đông nên độ tàn che không ổn định Trong khi đó, rừng Thông mã vĩ có độ tàn che cao nếu không có tác động của con người, dẫn đến việc sinh trưởng của Lim xanh bị ức chế do thiếu ánh sáng sau giai đoạn chịu bóng Tác giả đã gộp độ tàn che thích hợp vào từng cấp tương ứng để so sánh và phân tích phương sai, kết quả được tổng hợp trong bảng 4.36.
Bảng 4.36: Kết quả so sánh và phân tích phương sai sinh trưởng của cây Lim xanh
Cấp tàn che Độ tàn che
D 1.3 SigF Sigt K.luận Hvn SigF Sigt K.luận
Theo bảng 4.36, sinh trưởng đường kính tán D1.3 và chiều cao của loài Lim xanh cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ở hai cấp độ tàn che, với giá trị sigt của D1.3 và Hvn đều nhỏ hơn 0,05.
Sinh trưởng của Lim xanh trồng xen dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ cho thấy sự khác biệt rõ rệt về đường kính và chiều cao vút ngọn, tùy thuộc vào hai cấp độ tàn che.
4.3.2 Sinh trưởng của cây Re hương dưới các độ tàn che khác nhau
Kết quả điều tra thực tế cho thấy 5 OTC trồng loài Re hương có độ tán che khác nhau, cụ thể là 0,2; 0,3; 0,4; 0,48 và 0,5, trong giai đoạn từ năm 2010.
2011 sinh trưởng của loài này thể hiện thông qua bảng 4.37
Bảng 4.37: Tổng hợp sinh trưởng và chất lượng của loài Re hương dưới các độ tàn che khác nhau
14 0,3 9,1 1,2 13,2 0,6 9,0 1,3 14,4 0,6 62,1 21,7 16,2 Qua bảng 4.37 cho thấy sinh trưởng của loài Re hương dưới các lâm phần theo
5 độ tàn che có sự phân cấp về chất lượng sinh trưởng khá rõ rệt Cụ thể ở độ tàn che
Đường kính trung bình D đạt cao nhất là 14,3cm tại độ tàn che 0,5, trong khi độ tàn che 0,2 và 0,3 chỉ đạt 9,1-9,2cm Lượng tăng trưởng bình quân về đường kính cũng cao nhất ở độ tàn che 0,5 với 0,9cm/năm, thuộc cấp tăng trưởng nhanh Tiếp theo là độ tàn che 0,4, trong khi độ tàn che 0,2 và 0,3 chỉ đạt 0,6cm/năm, thuộc cấp tăng trưởng trung bình.
Khả năng sinh trưởng chiều cao trung bình của loài Re hương đạt tối đa 12,8m ở độ tàn che 0,5, tiếp theo là độ tàn che 0,4 Trong khi đó, chiều cao trung bình ở các độ tàn che 0,2, 0,3 và 0,48 chỉ đạt từ 7,2 đến 9,3m.
Trong 5 độ tàn che 0,2; 0,3; 0,4; 0,48 và 0,5 thì ở độ tàn che 0,4 và 0,5 cây thuộc cấp chất lượng tốt là nhiều nhất giao động từ 70,2 - 75,3%, và ở độ tàn che 0,2 có nhiều cây thuộc cấp chất lượng xấu chiếm 23,4%
Với năm mức độ tàn che khác nhau, độ tàn che 0,5 cho thấy chất lượng và khả năng sinh trưởng tốt nhất, với đường kính D 1.3 và chiều cao cũng như hệ số biến động đạt mức cao nhất so với các mức độ tàn che khác.
Re hương là cây ưa bóng, sinh trưởng phụ thuộc vào độ che sáng của tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ Để đánh giá ảnh hưởng của độ tàn che đến sự phát triển của Re hương, tác giả đã tiến hành kiểm tra sai dị về các chỉ tiêu sinh trưởng tại khu vực nghiên cứu Phương pháp phân tích phương sai được áp dụng bằng cách gộp độ tàn che phù hợp vào từng cấp tương ứng, và kết quả được tổng hợp trong bảng 4.38.
Bảng 4.38: Kết quả so sánh và phân tích phương sai sinh trưởng của cây Re hương
Cấp tàn che Độ tàn che D 1.3 Sigt Kết luận H vn Sigt Kết luận
Bảng 4.38 cho thấy sự khác biệt rõ rệt trong sinh trưởng của cây Re hương về đường kính và chiều cao dưới ba cấp tàn che, với giá trị sigt của cả hai yếu tố đều nhỏ hơn 0,05 Điều này chỉ ra rằng sinh trưởng của cây Re hương sẽ khác nhau khi trồng dưới các cấp tàn che khác nhau Trong khu vực nghiên cứu, lượng tăng trưởng bình quân về đường kính đạt từ 0,6 đến 0,9 cm/năm, với đường kính D 1.3 của cây Re hương tăng khoảng 0,8 cm mỗi năm, cho thấy mức tăng trưởng khá nhanh.
Kết quả phân tích phương sai chỉ ra rằng trong 5 mức độ tàn che nghiên cứu, cây Re có sự sinh trưởng tốt nhất về đường kính và chiều cao ở mức độ tàn che từ 0,4 đến 0,5.
4.3.3 Sinh trưởng của cây Đinh thối dưới các độ tàn che khác nhau
Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến tính chất đất
Rừng Thông và Keo trong khu vực nghiên cứu là rừng trồng thuần loài, đều tuổi với cấu trúc đơn giản và mật độ thấp, dẫn đến độ tàn che không cao Điều này tạo điều kiện cho tầng cây bản địa phát triển, nhưng cũng làm chậm quá trình cải thiện chất lượng đất dưới tán rừng Sau khi trải qua một lần tỉa thưa, các cây còn lại sinh trưởng đồng đều, với sự phân hoá ở mức độ thấp Hiện tại, rừng vẫn đang trong giai đoạn phát triển, mối quan hệ giữa Đất - Cây - Đất đang ở giữa, cây lấy dinh dưỡng từ đất và bắt đầu trả lại chất hữu cơ, ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu môi trường đất dưới tán rừng Thông và Keo.
Các thành phần chính của rừng có mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau để phát triển bền vững Nghiên cứu về đặc điểm của tầng cây cao trong rừng Thông và Keo cho thấy sự tương tác quan trọng giữa các loài cây này.
Biểu đồ 4.9: Biến động (S%) D 1.3 giữa rừng Thông và rừng Keo giai đoạn 2006 -2010
Các biểu đồ 4.9, 4.10 và 4.11 cho thấy sự sinh trưởng ổn định của rừng Thông và rừng Keo trong khu vực nghiên cứu Điều này cho thấy rằng lượng dinh dưỡng mà cây rừng lấy từ đất đang giảm dần, trong khi rừng bắt đầu cung cấp lại chất dinh dưỡng cho đất Đặc biệt, với tán lá dày và dễ phân hủy, rừng Keo đã cải thiện chất lượng đất tốt hơn so với rừng Thông ở cùng độ tuổi.
Biểu đồ 4.10: Biến động (S%) độ tàn che giữa rừng Thông và rừng Keo giai đoạn 2006 -2010
Biểu đồ 4.11: Biến động (S%) Hvn giữa rừng thông và rừng Keo giai đoạn 2006 -2010
Trong những năm gần đây, sự thay đổi rõ rệt đã diễn ra ở tầng lớp cây trong rừng trồng Thông và Keo thuần loài Việc trồng các loài cây bản địa dưới tán rừng không chỉ mang lại lợi ích cho đất mà còn giúp tầng cây bản địa và cây bụi thảm tươi sinh trưởng tốt nhờ vào chất dinh dưỡng từ đất Mặc dù cây bụi thảm tươi có vòng đời ngắn, nhưng chúng nhanh chóng trả lại chất dinh dưỡng cho đất rừng, góp phần duy trì sự cân bằng sinh thái.
Sau 5 năm (từ 2006 - 2010), chất lượng đất rừng Thông và Keo đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt về độ xốp, hàm lượng mùn và đạm dễ tiêu.
Tầng cây bụi và thảm tươi có độ che phủ thấp và chất lượng trung bình, với thành phần loài đơn giản Hiện nay, chúng không ảnh hưởng nhiều đến lớp cây bản địa, nhưng vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc che phủ mặt đất rừng, chống rửa trôi và xói mòn, giữ ẩm cho đất, đồng thời cung cấp chất dinh dưỡng cho đất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của cây bản địa và tầng cây cao.
Dựa trên kết quả phân tích các chỉ tiêu lý hóa học, tôi đã tổng hợp bảng các chỉ tiêu có xu hướng tăng (+) hoặc giảm (-) ảnh hưởng đến độ phì của đất Qua đó, chúng ta có thể đánh giá tác động của rừng trồng Thông và Keo đối với môi trường đất dưới tán rừng tại khu nghiên cứu.
Bảng 4.41: Tổng hợp các chỉ tiêu có lợi và bất lợi đến tính chất đất dưới tán rừng Thông và Keo tại khu vực nghiên cứu
STT Các chỉ tiêu Loại rừng
6 Hàm lượng đạm dễ tiêu NH4 + + +
7 Hàm lượng lân dễ tiêu P2O5 + -
8 Hàm lượng kali dễ tiêu K2O - -
Tổng hợp Số chỉ tiêu có lợi 6 2
Dưới tán rừng trồng Keo, chỉ tiêu đất có khả năng cải thiện rõ rệt với các chỉ số có lợi cao hơn so với rừng trồng Thông, như thể hiện trong bảng tổng hợp 4.41 Tuy nhiên, độ chua pHKCl và hàm lượng NH4+ của đất dưới tán rừng Thông cũng cho thấy sự cải thiện theo thời gian.
So sánh giữa rừng trồng Thông và rừng trồng Keo, rừng Keo có khả năng cải tạo đất tốt hơn Tuy nhiên, trong điều kiện đất chua, cây Thông lại cho hiệu quả cao hơn so với cây Keo.
Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng
4.5.1 Biện pháp kỹ thuật nuôi dưỡng các loài cây bản địa được nghiên cứu
Kết quả điều tra và phân tích cho thấy sự sinh trưởng của cây trồng dưới tán có mối liên hệ chặt chẽ với tầng cây cao Độ tàn che của tầng cây cao ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cây bản địa.
Trong bối cảnh hiện tại, cây bản địa ở khu vực nghiên cứu đang bị ảnh hưởng bởi độ tàn che của tầng cây cao Để cải thiện điều kiện sinh trưởng cho cây bản địa tầng dưới, cần áp dụng các biện pháp như tỉa thưa và tỉa cành nhằm mở tán rừng và tạo ra độ tàn che hợp lý Mỗi nhóm sinh trưởng của các loài cây bản địa sẽ cần những phương pháp mở tán phù hợp để phát triển tốt hơn.
Chúng tôi xin được đề xuất phương hướng mở tán cho từng nhóm sinh trưởng của các loài cây bản địa mà đề tài nghiên cứu như sau:
Loài Lim xanh phát triển tốt trong điều kiện tàn che từ 0,4 - 0,5, do đó không cần thiết phải can thiệp vào tầng cây cao phía trên Nếu cần, chỉ nên cắt bỏ những cành sâu bệnh hoặc cành vướng vào tán cây bản địa để tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
Nghiên cứu cho thấy loài Đinh thối phát triển tốt nhất ở độ tàn che 0,3, trong khi độ tàn che 0,2 cũng cho kết quả khả quan Do đó, không cần tác động vào tầng cây cao, chỉ cần tỉa bỏ cành sâu bệnh và cành vướng vào tán để tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của cây bản địa.
Re hương sinh trưởng tốt nhất tương ứng với độ tàn che trong khoảng 0,4 - 0,5 Vì vậy, chúng tôi xin đề xuất như sau:
Nhóm cây sinh trưởng tốt hiện đang có độ tàn che và cường độ ánh sáng phù hợp, vì vậy không cần can thiệp vào tán cây cao phía trên.
Các nghiên cứu chỉ ra rằng, để cải thiện sự sinh trưởng của nhóm cây sinh trưởng trung bình và xấu, cần giảm tỷ lệ giữa cường độ ánh sáng chiếu xuống tán cây và cường độ ánh sáng ngoài chỗ trống, đồng thời tăng độ tàn che lên một mức phù hợp.
Nhóm cây sinh trưởng trung bình và kém cần nâng cao độ tàn che từ 0,15 đến 0,25 Điều này tương ứng với việc giảm tỷ lệ giữa cường độ ánh sáng chiếu xuống tán cây và cường độ ánh sáng bên ngoài khu vực trống.
4.5.2 Kỹ thuật chăm sóc các loài cây bản địa được nghiên cứu
- Vệ sinh rừng, phát dọn cây bụi, dây leo:
Trong giai đoạn này, cây bụi và dây leo cạnh tranh mạnh mẽ với cây bản địa về không gian và dinh dưỡng, do đó, việc vệ sinh rừng và phát dọn cây bụi, dây leo là cần thiết Cần lưu ý giữ lại khoảng 40% độ che phủ của cây bụi để duy trì độ ẩm cho đất, tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây bản địa Việc phát dọn nên được thực hiện mỗi năm một lần, trước mùa khô.
KẾT LUẬN, TỒN TẠI VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
- Về đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu
+ Rừng ở khu vực nghiên cứu là rừng trồng thuần loài, đều tuổi, đã được tỉa thưa một lần để loại bỏ những cá thể sinh trưởng kém, sâu bệnh
+ Rừng trong khu vực trồng các loài cây nghiên cứu có cấu trúc đơn giản, mật độ còn lại thấp, độ tàn che không cao
Nghiên cứu cho thấy, các loài cây bản địa trồng dưới tán cây cao như Keo lá tràm có sự sinh trưởng chậm Tỷ lệ cây sinh trưởng trung bình và xấu khá cao, cụ thể: Lim xanh dao động từ 14,3% đến 28,6%, Re hương từ 4,6% đến 32,3%, và Đinh thối từ 7,4% đến 51,9%.
Cây bản địa trồng dưới tán Thông mã vĩ phát triển tốt hơn, với tỷ lệ cây sinh trưởng trung bình và xấu thấp Cụ thể, tỷ lệ sinh trưởng của Lim xanh dao động từ 6,3 - 18,7%, Re hương từ 11,1 - 25,0%, và Đinh thối từ 8,3 - 14,6% Sự biến động lớn trong các chỉ tiêu sinh trưởng cho thấy sự phân hoá cao giữa các cây bản địa cùng loài.
- Đặc điểm, điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu
Nghiên cứu về tính chất lý hóa học của đất dưới tán rừng Thông và Keo cho thấy chất lượng đất tầng mặt (0 - 10cm) được cải thiện đáng kể Tuy nhiên, khi xuống sâu hơn, độ xốp của đất giảm, đồng thời hàm lượng mùn và các chất dinh dưỡng dễ tiêu như đạm, lân, kali cũng giảm theo.
Trong giai đoạn 2006 - 2010, hàm lượng đạm trong đất dưới rừng Thông đã được cải thiện, nhưng tốc độ cải thiện này chậm và không bằng rừng Keo.
Sau 5 năm trồng rừng Keo (2006 - 2010), đất tầng mặt đã có những cải thiện đáng kể Kết quả phân tích cho thấy dung trọng và tỷ trọng của đất giảm dần, trong khi độ xốp, hàm lượng mùn và đạm dễ tiêu lại tăng lên rõ rệt.
+ Nghiên cứu và đánh giá chung môi trường đất dưới tán rừng trong khoảng
5 năm giai đoạn từ 2006 -2010 tôi rút ra kết luận rằng rừng trồng Keo có khả năng cải tạo đất tốt hơn rừng Thông
- Ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa được nghiên cứu
Sinh trưởng về đường kính và chiều cao của Lim xanh trồng xen dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa hai cấp độ tàn che Cụ thể, Lim xanh phát triển tốt hơn về đường kính và chiều cao vút ngọn trong điều kiện tàn che phù hợp.
+ Kết quả phân tích phương sai cho thấy rằng trong 5 độ tàn che nghiên cứu
Re hương sinh trưởng đường kính và chiều cao tốt nhất với độ tàn che từ 0,4 - 0,5
Phân tích phương sai cho thấy rằng Đinh thối có sự sinh trưởng tốt nhất về đường kính và chiều cao ở độ tàn che 0,3 trong hai mức độ tàn che nghiên cứu là 0,2 và 0,3.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến tính chất đất
Đất dưới rừng Thông có sự thay đổi đáng kể về tính chất, với độ chua hoạt động (pHKCl) giảm, hàm lượng đạm tăng, tỷ trọng và dung trọng tăng, trong khi độ xốp và hàm lượng các chất dễ tiêu như P2O5 giảm.
K2O) Đất dưới rừng Keo có tỷ trọng, dung trọng giảm, tăng độ xốp, tăng hàm lượng mùn, hàm lượng đạm và lân dễ tiêu
Rừng trồng Keo có khả năng cải tạo đất tốt hơn so với rừng trồng Thông Tuy nhiên, trong trường hợp đất chua, trồng Thông lại mang lại hiệu quả cao hơn so với trồng Keo.
- Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng
Đối với hai loài Lim xanh và Đinh thối, chỉ nên cắt tỉa những cành bị sâu bệnh hoặc những cành vướng vào tán của cây bản địa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
Để cải thiện điều kiện sinh trưởng cho cây Re, cần giảm tỷ lệ cường độ ánh sáng chiếu xuống tán cây so với cường độ ánh sáng ngoài chỗ trống Đồng thời, cần tăng độ tàn che cho nhóm cây sinh trưởng trung bình và xấu khoảng 0,15.
0,25; tương ứng với việc giảm tỷ lệ giữa cường độ ánh sáng chiếu xuống tán cây với cường độ ánh sáng ngoài chỗ trống lên.
Tồn tại
Qua quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy đề tài còn một số tồn tại nhất định sau:
- Các loài cây bản địa được nghiên cứu thử nghiệm gây trồng còn ít, mới chỉ có 3 loài, cần nghiên cứu mở rộng trên nhiều đối tượng
Các biện pháp kỹ thuật được đề xuất trong bài viết chỉ mang tính tạm thời và chưa có kế hoạch cụ thể để thúc đẩy sự phát triển bền vững cho các loài cây bản địa trong tương lai.
Do thời gian nghiên cứu có hạn, chúng tôi chưa thể theo dõi toàn bộ quá trình sinh trưởng của cây bản địa cũng như sự diễn biến của đất và thảm thực vật sau khi trồng các loài cây này.
Kiến nghị……………… ……………………………………………… 72 TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cần mở rộng nghiên cứu về nhiều loài cây bản địa và các yếu tố ngoại cảnh ảnh hưởng đến sự sinh trưởng của chúng Việc nghiên cứu ở các địa điểm khác nhau sẽ giúp đánh giá chính xác hơn khả năng thích ứng của các loài cây bản địa.
Cần tiến hành thử nghiệm mở rộng trồng cây bản địa dưới tán rừng Thông mã vĩ và Keo lá tràm ở các cấp tuổi khác nhau, nhằm xác định thời điểm thích hợp nhất để trồng xen cây bản địa.
Cần tiến hành điều tra và đánh giá khả năng thích ứng của các loài cây trong suốt chu kỳ sống khi được trồng dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ.
Cần theo dõi liên tục sự phát triển của đất và thảm thực vật sau khi trồng các loài cây bản địa dưới tán rừng Keo lá tràm và Thông mã vĩ tại khu thực nghiệm núi Luốt, Xuân Mai.
Danh mục các chữ viết tắt………i
Danh mục các bảng……….ii
Danh mục các hình………iii
Danh mục các biểu đồ……… iv ĐẶT VẤN ĐỀ……….……… 1
Chương1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ……… … 3
1.2.1 Nghiên cứu về trồng rừng hỗn giao……… ………… 7
1.2.2 Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng trồng……… 12
1.2.3 Các nghiên cứu về cây bản địa trồng dưới tán rừng Thông mã vĩ 13
Chương 2: MỤC TIÊU- NỘI DUNG- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.……… 17
2.2.1 Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu 17
2.2.2 Đặc điểm điều kiện thổ nhưỡng khu vực nghiên cứu ……….17
2.2.3 Ảnh hưởng của tầng cây cao đến sinh trưởng cây bản địa khu vực nghiên cứu……… 17
2.2.4 Nghiên cứu ảnh hưởng của rừng trồng đến tính chất đất… ………… 18
2.2.5 Đề xuất giải pháp thúc đẩy sinh trưởng cây bản địa dưới tán rừng…… 18
2.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ……… 18
2.4.3 Phương pháp nghiên cứu từng nội dung cụ thể……….20
2.4.3.1 Phương pháp nghiên cứu một số đặc điểm sinh lý……….20
Chương 3: ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ - XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU 23
3.2 Điều kiện kinh tế xã hội……… 27
Chương 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ……… 28
4.1 Đặc điểm sinh trưởng tầng cây cao và cây bản địa khu vực nghiên cứu…… 28
4.1.1 Đặc điểm điều tra của lâm phần Keo lá tràm – Lim xanh……….28
4.1.1.1 Đặc điểm tầng cây cao……… 28
4.1.1.2 Đặc điểm tầng cây bản địa……… 30
4.1.2 Đặc điểm điều tra của lâm phần Keo lá tràm - Re hương……….31
4.1.2.1 Đặc điểm tầng cây cao……… 31
4.1.2.2 Đặc điểm tầng cây bản địa……… 32
4.1.3 Đặc điểm điều tra của lâm phần Keo lá tràm – Đinh thối……….…34
4.1.3.1 Đặc điểm tầng cây cao……… 34
4.1.3.2 Đặc điểm tầng cây bản địa……….………….35
4.1.4 Đặc điểm điều tra của lâm phần Thông mã vĩ – Lim xanh 38
4.1.4.1 Đặc điểm tầng cây cao……… 38
4.1.4.2 Đặc điểm tầng cây bản địa……… 39