Những vấn đề chung về ngân hàng thương mại1
Khái niệm
Theo Điều 20 của Luật Tín dụng năm 1997, ngân hàng thương mại được định nghĩa là ngân hàng trực tiếp giao dịch với công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan đoàn thể và cá nhân Ngân hàng thực hiện các hoạt động như nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, cho vay và cung cấp dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng này.
Luật này định nghĩa tổ chức tín dụng là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật, hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng Tổ chức tín dụng thực hiện việc nhận tiền gửi, sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cũng như cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Theo định nghĩa của Luật Ngân hàng nhà nước, hoạt động ngân hàng bao gồm các dịch vụ kinh doanh tiền tệ, chủ yếu là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng cũng như cung cấp các dịch vụ thanh toán.
Phân loại ngân hàng thương mại
a Dựa vào hình thức sở hữu :
Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTM) là loại ngân hàng mà nhà nước sở hữu 100% vốn, được thành lập nhằm thực hiện các hoạt động kinh doanh và hỗ trợ các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước Hiện nay, các ngân hàng thuộc loại này đóng vai trò quan trọng trong hệ thống tài chính quốc gia.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Bank for Agriculture and Rural Development Viet Nam – Agribank).
Ngân hàng công thương Việt Nam (Industrial and commercial Bank of VietNam – VietinBank).
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam (Bank for Investement of Viet Nam – BIDV).
Ngân hàng phát triển Việt Nam (Bank for Foreign Trade of Việt Nam - Vietcombank).
Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long (Housing Bank of Mekong Delta – MHB).
Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam.
Ngân hàng thương mại cổ phần là loại hình ngân hàng được thành lập dưới dạng công ty cổ phần, trong đó cá nhân hoặc pháp nhân sở hữu cổ phần theo quy định của ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Đến tháng 5/2008, Việt Nam có 36 ngân hàng thương mại cổ phần, trong đó bao gồm một số ngân hàng tiêu biểu như Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Á Châu và Ngân hàng Sài Gòn – Thương tín.
Ngân hàng liên doanh là tổ chức tín dụng được thành lập từ vốn góp giữa ngân hàng thương mại Việt Nam và ngân hàng thương mại nước ngoài, hoạt động theo quy định của pháp luật Việt Nam Hiện tại, Việt Nam có 6 ngân hàng liên doanh đang hoạt động.
Indovina Bank (Indonesia – Việt Nam).
Chi nhánh ngân hàng nước ngoài là một tổ chức tài chính được thành lập theo quy định của pháp luật nước ngoài và được phép hoạt động tại Việt Nam Các chi nhánh này tuân thủ các quy định pháp lý của Việt Nam trong quá trình hoạt động.
Hiện tại, Việt Nam có 44 chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động, bao gồm các ngân hàng tiêu biểu như ABN Amro Bank từ Hà Lan, ANZ của Australia và New Zealand, BANK OF CHINA từ Trung Quốc, BANK OF TOKYO MISUBISHI UFJ của Nhật Bản, và BANKOK BANK từ Thái Lan Các ngân hàng này áp dụng những chiến lược kinh doanh đa dạng để phát triển thị trường tài chính tại Việt Nam.
Có thể chia NHTM thành ngân hàng hội sở và các ngân hàng chi nhánh (cấp 1, cấp 2) và các phòng giao dịch.
Ngân hàng hội sở đóng vai trò quan trọng nhất trong hệ thống ngân hàng, nơi tập trung quyền lực và điều hành các hoạt động kinh doanh cùng với đầy đủ các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng.
Ngân hàng chi nhánh và phòng giao dịch nhỏ thường không cung cấp đầy đủ các dịch vụ giao dịch mà chỉ tập trung vào những dịch vụ phù hợp với thế mạnh và nhu cầu địa phương nơi ngân hàng hoạt động.
Vai trò và chức năng của ngân hàng thương mại
Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng và được thể hiện:
- Ngân hàng là nơi tập trung tiền nhàn rỗi và cung ứng vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh.
- Ngân hàng là trung gian thanh toán góp ph ần thúc đẩy lưu thông hàng hóa nhanh chóng.
- Góp phần điều tiết và kiểm soát thị trường vốn.
- Thu hút mở rộng đầu tư trong nước và cung cấp các dịch vụ tài chính khác.
Ngân hàng thương mại có các chức năng sau:
- Chức năng trung gian tài chính: bao gồm trung gian tín dụng và trung gian thanh toán giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
- Chức năng tạo ra tiền: tức là chức năng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế.
Chức năng sản xuất trong ngân hàng liên quan đến việc huy động và sử dụng các nguồn lực nhằm tạo ra các sản phẩm và dịch vụ ngân hàng, đóng góp tích cực cho nền kinh tế.
Những vấn đề chung về phân tích hoạt động kinh doanh
Khái niệm, vai trò, nhiệm vụ, ý nghĩa và nội dung của việc phân tích hoạt động kinh doanh
Phân tích hoạt động kinh doanh có nhiều đặc điểm khác nhau và phụ thuộc vào đối tượng cũng như giải pháp quản lý được áp dụng Mặc dù có nhiều loại hình phân tích kinh tế, chúng đều có một cơ sở chung và phụ thuộc vào đối tượng phân tích cụ thể Các phương pháp như phân tích kinh tế quốc dân hay phân tích lãnh thổ thường được nghiên cứu trong các môn học khác, trong khi phân tích kinh tế của ngành và doanh nghiệp được coi là một môn khoa học riêng biệt, thường được giảng dạy tại các trường đại học dưới tên gọi phân tích hoạt động kinh doanh.
Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình đánh giá toàn diện các hoạt động và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm xác định chất lượng và tiềm năng phát triển Qua đó, doanh nghiệp có thể đề xuất các phương án và giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Trước đây, trong bối cảnh sản xuất kinh doanh đơn giản và quy mô nhỏ, nhu cầu thông tin cho nhà quản trị không cao và công việc phân tích diễn ra khá đơn giản Tuy nhiên, khi sản xuất kinh doanh phát triển, nhu cầu thông tin trở nên đa dạng và phức tạp hơn Do đó, phân tích hoạt động kinh doanh đã hình thành và phát triển thành một môn khoa học độc lập nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng tăng của các nhà quản trị.
Phân tích hoạt động kinh doanh là một hoạt động thiết yếu, đóng vai trò quan trọng trong việc đưa ra quyết định kinh doanh Nó không chỉ là một công cụ thực tiễn mà còn là một ngành khoa học, nghiên cứu các phương pháp phân tích hệ thống nhằm tìm ra giải pháp tối ưu cho từng doanh nghiệp.
Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình nhận thức và cải thiện các hoạt động kinh doanh một cách tự giác và có ý thức Quá trình này cần phù hợp với các điều kiện cụ thể và yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là một công cụ quản lý kinh tế có hiệu quả
Phân tích hoạt động kinh doanh là công cụ quản lý quan trọng giúp doanh nghiệp tối ưu hóa hiệu suất Tuy nhiên, trong cơ chế bao cấp cũ, hoạt động này chưa phát huy hiệu quả do sự bảo trợ của Nhà Nước, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không phải chịu trách nhiệm khi thua lỗ Kết quả là, việc đánh giá kết quả kinh doanh không chính xác, thường xuyên xảy ra hiện tượng lời giả lỗ thật Điều này khiến giám đốc và nhân viên không mặn mà tìm tòi, sáng tạo, cũng như không chú trọng đến kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị mình.
Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển sang kinh tế thị trường, hiệu quả kinh doanh trở thành yếu tố quan trọng hàng đầu đối với các doanh nghiệp Để cạnh tranh và tồn tại trên thị trường, doanh nghiệp cần không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, tích lũy và mở rộng sản xuất, đồng thời đảm bảo đời sống cho người lao động và thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước Việc kiểm tra, đánh giá chính xác các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhận diện điểm mạnh và điểm yếu trong môi trường cạnh tranh là cần thiết để phát triển bền vững.
Phân tích hoạt động kinh doanh là yếu tố then chốt giúp doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển và phương án kinh doanh hiệu quả.
Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình đánh giá việc thực hiện các chỉ tiêu kinh tế và mục tiêu đã đề ra, từ đó nhận diện những tồn tại, nguyên nhân và đề xuất biện pháp khắc phục nhằm tối ưu hóa thế mạnh của doanh nghiệp Hoạt động này không chỉ là điểm kết thúc của một chu kỳ kinh doanh, mà còn cung cấp những kết quả quý giá từ giai đoạn trước và dự đoán cho điều kiện kinh doanh sắp tới, làm cơ sở quan trọng cho doanh nghiệp trong việc hoạch định chiến lược phát triển và xây dựng phương án kinh doanh hiệu quả.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là một công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế v à hoàn thiện chức năng đó
Phân tích hoạt động kinh doanh là một phần thiết yếu trong quá trình quản lý doanh nghiệp, giúp chỉ đạo mọi hoạt động sản xuất và kinh doanh Qua các lĩnh vực như chỉ đạo sản xuất, tổ chức lao động, mua bán, quản lý và tài chính, doanh nghiệp có thể điều hành hiệu quả từng hoạt động cụ thể với sự tham gia của các phòng ban chức năng Điều này không chỉ tạo ra sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận mà còn nâng cao hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp.
Phân tích hoạt động kinh doanh theo thời gian như quý, tháng, năm là rất quan trọng để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh những bất hợp lý trong hoạt động và đạt được mục tiêu đề ra Nhiều doanh nghiệp đã gặp khó khăn và thua lỗ vì không theo dõi cụ thể hoạt động của mình trong từng giai đoạn, dẫn đến việc không phát hiện ra vấn đề từ sớm Do đó, việc nhận thức và coi trọng phân tích hoạt động kinh doanh là cần thiết để tránh rủi ro và duy trì sự phát triển bền vững.
Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp diễn ra trong môi trường pháp lý do Nhà nước quy định, và cần có chính sách tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển Kết quả sản xuất kinh doanh là thước đo cho tính hợp lý của các chính sách này Phân tích hoạt động kinh doanh không chỉ đánh giá sự tuân thủ pháp luật mà còn chỉ ra những điểm bất hợp lý trong các chế độ chính sách, từ đó kiến nghị sửa đổi Thực tiễn kinh tế Việt Nam đã minh chứng rằng nhiều chính sách trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, đầu tư và thuế đã được điều chỉnh nhờ vào phản hồi từ doanh nghiệp và cơ quan chức năng Do đó, phân tích hoạt động kinh doanh đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Nhà nước quản lý kinh tế hiệu quả hơn.
- Phân tích hoạt động kinh doanh là cơ sở để cho các nhà đầu tư có hướng quyết định và dự án đầu tư
Phân tích hoạt động kinh doanh là quá trình quan trọng không chỉ diễn ra sau mỗi kỳ kinh doanh mà còn trước khi bắt đầu, bao gồm việc đánh giá tính khả thi của các dự án, kế hoạch và các luận chứng kinh tế kỹ thuật Hình thức phân tích này giúp các nhà đầu tư xác định hướng đầu tư và lựa chọn dự án phù hợp Trong bối cảnh mở cửa kinh tế hiện nay, Nhà nước khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước vào các lĩnh vực như cơ sở hạ tầng, khai thác dầu khí, công nghiệp chế biến và thương mại dịch vụ Nhiều doanh nghiệp đã thực hiện sát nhập và hình thành các công ty cổ phần, trong khi các nhà đầu tư ngày càng quan tâm đến tình hình tài chính của công ty, điều kiện môi trường và cơ hội đầu tư Họ cũng chú trọng đến các yếu tố rủi ro, khả năng thu hồi vốn và lợi nhuận, cũng như hiệu quả quản lý và khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính Công tác phân tích sẽ đáp ứng các yêu cầu này từ phía nhà đầu tư.
Phân tích hoạt động kinh doanh là một yếu tố thiết yếu cho mọi doanh nghiệp, vì nó liên quan chặt chẽ đến các hoạt động kinh doanh và là nền tảng cho nhiều quyết định quan trọng Hoạt động này không chỉ giúp xác định hướng phát triển mà còn góp phần nâng cao hiệu quả và sự bền vững của doanh nghiệp.
1 Kiểm tra đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh thông qua các chỉ ti êu kinh tế đã xây dựng
Phân tích có nhiệm vụ chính là đánh giá và so sánh kết quả đạt được với các mục tiêu, kế hoạch và định mức đã đề ra, nhằm khẳng định tính chính xác và khoa học của các chỉ tiêu xây dựng trong các khía cạnh quan trọng của hoạt động kinh doanh.
PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH TẠI CHI NHÁNH
GIỚI THIỆU CHUNG
2.1.1 Giới thiệu về NHNo& PTNT Việt Nam
Tên gọi : Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam
Tên thường gọi : Ngân hàng nông nghiệp Việt Nam.
Tên viết tắt : VBA RD
Trụ sở chính : 02 Láng Hạ, Ba Đình, Hà Nội.
SWIFT: VB AA VN VX
Email : nhnovn@org.com.vn
Slogan: AGRIBANK MANG PHỒN THỊNH ĐẾN VỚI KHÁCH H ÀNG
2.1.1.2 Quá trình hình thành và phát tri ển. Đi theo đường lối đổi mới của Đại hội Đảng lần thứ VI khởi x ướng năm 1986 và xác định đổi mới hệ thống Ngân hàng là khâu then chốt, ngày 26/3/1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ban hành nghị định 53/ HĐBT thành lập các ngân hàng chuyên doanh, trong đó có Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam- tiền thân của Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam ngày nay.Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam được thành lập từ năm26/03/1988 trên cơ sở Cục Tín dụng Nông nghiệp, một số phòng của Cục Tín dụngThương nghiệp, một bộ phận của Cục Tiết kiệm, Ph òng Tín dụng Nông nghiệp của các chi nhánh Ngân hàng Nhà nư ớc tỉnh, thành phố và toàn bộ các chi nhánh cấp huyện của Ngân hàng Nhà nước.
Vào ngày 14/11/1990, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ký quyết định số 400/CT thành lập Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam, thay thế Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Việt Nam Ngân hàng Nông nghiệp là một tổ chức đa năng, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông thôn, có tư cách pháp nhân và tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình theo quy định của pháp luật.
Ngày 01/03/1991, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quyết định số 18/NH-
QĐ thành lập văn phòng đại diện tại thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 22/12/1992, thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quyết định số 603/NH-
Quyết định thành lập chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo) tại các tỉnh, thành phố trực thuộc NHNo bao gồm 3 sở giao dịch: Sở giao dịch I tại Hà Nội, Sở giao dịch II tại văn phòng đại diện khu vực miền Nam và Sở giao dịch III tại văn phòng đại diện khu vực miền Trung Ngoài ra, NHNo còn có 43 chi nhánh tại các tỉnh, thành phố và 475 chi nhánh tại các quận, huyện, thị xã.
Năm 1993, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNo) đã ban hành quy chế thi đua khen thưởng, thiết lập các chuẩn mực để các cá nhân và tập thể phấn đấu trong công việc Đồng thời, tổ chức hội nghị tổng kết toàn quốc nhằm vinh danh các giám đốc chi nhánh xuất sắc nhất từ các tỉnh, huyện và thành phố.
Vào ngày 30/4/1994, theo quyết định số 160/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Tổng Giám Đốc NHNo Việt Nam đã ban hành văn bản số 927/TCCB/NHNo ngày 16/08/1994, xác định rằng NHNo Việt Nam hoạt động theo mô hình Tổng công ty nhà nước Cơ cấu tổ chức của NHNo bao gồm Hội đồng Quản trị, Tổng Giám Đốc, bộ máy giúp việc với bộ phận kiểm soát nội bộ, cùng các đơn vị thành viên như đơn vị hạch toán phụ thuộc, hạch toán độc lập và đơn vị sự nghiệp Mô hình này phân biệt rõ giữa chức năng quản lý và chức năng điều hành, trong đó Chủ tịch Hội đồng Quản trị không kiêm nhiệm Tổng Giám Đốc.
Vào ngày 20 tháng 6 năm 1994, thống đốc đã ban hành văn bản số 439/CV-TCCB, cho phép Ngân hàng Nông nghiệp thành lập văn phòng miền Trung tại thành phố Quy Nhơn, tỉnh Bình Định.
Vào ngày 15/11/1996, theo ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ký quyết định 280/QĐ - NHNN, chính thức đổi tên Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam thành Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam.
Năm 1998, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo) đã chú trọng nâng cao chất lượng tín dụng, xử lý nợ cũ và quản lý chặt chẽ công tác thẩm định cũng như xét duyệt các khoản vay mới Đồng thời, ngân hàng cũng thực hiện các biện pháp phù hợp nhằm giảm nợ xấu.
Năm 1999, chính phủ Việt Nam đã chú trọng đầu tư vào phát triển nông nghiệp nông thôn, tạo ra khung pháp lý cho hoạt động ngân hàng thông qua việc thực thi Luật ngân hàng và Luật tổ chức tín dụng Ngân hàng nông nghiệp đã đẩy mạnh huy động vốn trong và ngoài nước, tập trung vào việc thực hiện các dự án nước ngoài ủy thác và cho vay các chương trình dự án lớn, đồng thời mở rộng hỗ trợ sản xuất và hợp tác sản xuất, góp phần vào quá trình tăng trưởng bền vững.
Năm 2000, Ngân hàng Nông nghiệp đã mở rộng quan hệ quốc tế và kinh doanh đối ngoại, nhận tài trợ từ các tổ chức tài chính quốc tế như WB, ADB, FAD để đổi mới công nghệ và đào tạo nhân viên Ngân hàng đã triển khai 50 dự án nước ngoài với tổng vốn 1.300 triệu USD, chủ yếu đầu tư vào kinh tế nông nghiệp và nông thôn Hệ thống thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT đã được thiết lập cùng với hệ thống thanh toán điện tử và máy rút tiền tự động (ATM) trên toàn hệ thống Ngân hàng cũng tiến hành đổi mới mô hình tổ chức và mạng lưới kinh doanh, tinh giảm trung gian để tăng cường năng lực cho các đơn vị trực tiếp Công tác quản trị và quy trình nghiệp vụ được đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, đồng thời tập trung đào tạo cán bộ nhân viên chuyên môn hóa và hiện đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật.
Năm 2001, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (NHNo) đã triển khai đề án tái cơ cấu với các chính sách chủ yếu như cơ cấu lại nợ, lành mạnh hóa tài chính, nâng cao tài sản hiện có, và chuyển đổi hệ thống kế toán theo chuẩn mực quốc tế Đề án cũng tập trung vào việc sắp xếp lại bộ máy tổ chức theo mô hình ngân hàng thương mại hiện đại, tăng cường đào tạo lại cán bộ, đổi mới công nghệ ngân hàng, và xây dựng hệ thống thông tin quản lý hiện đại.
Vào năm 2003, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (NHNo&PTNT) đã phát triển mạnh mẽ về quy mô, chất lượng và hiệu quả Với những thành tích xuất sắc trong thời kỳ đổi mới, NHNo&PTNT đã đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp – nông thôn Ngày 07/05/2003, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký quyết định số 226/2003/QĐ/CTN phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động thời kỳ đổi mới cho ngân hàng này.
Vào tháng 10/2007, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã được Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) vinh danh là doanh nghiệp số 1 trong số 200 doanh nghiệp lớn nhất hoạt động tại Việt Nam.
AGRIBANK là ngân hàng lớn nhất Việt Nam, dẫn đầu về vốn, tài sản và đội ngũ nhân viên Tính đến tháng 3/2007, tổng nguồn vốn của AGRIBANK đạt gần 267.000 tỷ đồng, với vốn tự có gần 15.000 tỷ đồng và tổng dư nợ gần 239.000 tỷ đồng Tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng chỉ ở mức 1,9%, đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế AGRIBANK có hơn 2200 chi nhánh và điểm giao dịch trên toàn quốc, phục vụ gần 30.000 cán bộ nhân viên.
AGRIBANK là ngân hàng tiên phong trong việc đầu tư đổi mới và ứng dụng công nghệ ngân hàng, phục vụ cho quản trị kinh doanh và phát triển mạng lưới dịch vụ tiên tiến Ngân hàng đã hoàn thành giai đoạn 1 Dự án Hiện đại hóa hệ thống thanh toán và kế toán khách hàng (IPCAS) do Ngân hàng Thế giới tài trợ và đang tích cực triển khai giai đoạn II Hiện tại, AGRIBANK đã vi tính hóa hoạt động kinh doanh từ Trụ sở chính đến hầu hết các chi nhánh trên toàn quốc, cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại như chuyển tiền điện tử, thanh toán thẻ tín dụng quốc tế, dịch vụ ATM và thanh toán quốc tế qua mạng SWIFT AGRIBANK hoàn toàn có đủ năng lực cung ứng sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiên tiến và tiện ích cho mọi đối tượng khách hàng trong và ngoài nước.