TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005………………………… 4 1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU THUỘC LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI………………………………………………………………… 6 1 Tình hình nghiên cứu trong nước
1.2.1 Tình hình nghiên cứu trong nước:
Kinh tế phát triển thúc đẩy hoạt động thương mại, dẫn đến việc các bên thiết lập hợp đồng thương mại dựa trên thỏa thuận tự do và quy định pháp luật Pháp luật tôn trọng sự tự do thỏa thuận trong giới hạn cho phép, từ giai đoạn đề nghị đến thực hiện hợp đồng Khi hợp đồng có hiệu lực, các bên thường tự thực hiện cam kết, nhưng nếu một bên không thực hiện đúng, cần có sự can thiệp của pháp luật Chế tài thương mại là biện pháp hiệu quả để đảm bảo thực thi hợp đồng và duy trì sự thông suốt trong hoạt động thương mại Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích, chế tài cũng có hạn chế cần phân tích và hoàn thiện Do đó, chế tài thương mại đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu từ nhiều tác giả, tập trung vào những vấn đề quan trọng liên quan.
Các biện pháp được áp dụng trong 7 trường hợp cụ thể đã đạt được hiệu quả như mong đợi của các nhà lập pháp hay chưa Từ đó, cần đưa ra những quan điểm hoàn thiện và đánh giá cá nhân về tính khả thi cũng như hiệu quả của các biện pháp này.
Theo Luật thương mại năm 2005, có 6 biện pháp chế tài thương mại, nhưng chỉ một số ít nghiên cứu khoa học đề cập toàn diện đến cả 6 biện pháp này Phần lớn các công trình chỉ tập trung vào một hoặc hai biện pháp cụ thể Dù nghiên cứu toàn diện hay hạn chế, các tác giả đều thể hiện tính khoa học và đánh giá thực trạng thực hiện các biện pháp chế tài thương mại, từ đó đưa ra quan điểm cá nhân nhằm hoàn thiện các biện pháp này cho phù hợp với thực tiễn xã hội Quan điểm của các tác giả rất đa dạng, giúp nhìn nhận các quy định pháp luật hiện hành từ nhiều góc độ khác nhau Việc hoàn thiện các quy định về chế tài thương mại cần được xem xét để phù hợp với sự phát triển của kinh tế xã hội và hoạt động thương mại trong tương lai.
Có thể kể đến một số công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu về chế tài thương mại trong thời gian qua như :
1) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam, tác giả Dương Anh Sơn, Lê Thị Bích Thọ
2) Bình luận về biện pháp phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng thương mại, tác giả Dương Anh Sơn
3) Chế tài trong thương mại – Một số bất cập và phương hướng hoàn thiện, tác giả Đồng Thái Quang
4) Mâu thuẫn giữa chế tài dân sự và chế tài thương mại – tác giả Nguyễn Tấn, Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh
5) Một số ý kiến về phạt vi phạm do vi phạm hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt nam, tác giả Mai Phương
6) Chế tài cho việc không thực hiện đúng hợp đồng, TS Đỗ Văn Đại
7) Vấn đề thực hiện không đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương, năm 2014
8) Khúa luận tốt nghiệp ôTỡm hiểu cỏc chế tài thương mại theo quy định của Luật thương mại năm 2005 ằ năm 2013
9) Khúa luận tốt nghiệp ôCỏc hỡnh thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mạiằ, năm 2013
10) Tiểu luận ô Phõn tớch cỏc hỡnh thức chế tài trong hợp đồng mua bỏn tài sản và các hình thức chế tài trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Luật thương mại ằ, năm 2013
11) Khúa luận tốt nghiệp ôMột số vấn đề phỏp lý về hợp đồng trong lĩnh vực thương mại tại Việt Nam, tác giả Nguyễn Phương Mai, năm 2013
12) Luận văn thạc sĩ ô So sỏnh cỏc chế tài vi phạm hợp đồng theo phỏp luật Việt Nam và theo Bộ nguyờn tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế ằ, Phạm Thị Ngọc Ánh, năm 2014
13) Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, tác giả Đỗ Văn Đại
14) Bàn về mối quan hệ giữa phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam, TS Phan Thị Thanh Thủy
1.2.2 Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Hoạt động thương mại không chỉ phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam mà còn ở nhiều quốc gia như Anh, Pháp và Mỹ, với các quy định pháp luật thương mại cụ thể Những hoạt động này thường được thiết lập qua hợp đồng thương mại, và nếu các bên không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, pháp luật sẽ áp dụng các biện pháp chế tài để đảm bảo tính thực thi của hợp đồng Chế tài thương mại ở các quốc gia này, tương tự như ở Việt Nam, bao gồm các biện pháp như buộc thực hiện hợp đồng, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng thực hiện hợp đồng và hủy hợp đồng Mặc dù có sự tương đồng, các biện pháp chế tài có thể khác nhau tùy thuộc vào sự phát triển kinh tế của từng quốc gia.
Các biện pháp chế tài thương mại được quy định nhằm đảm bảo hiệu quả trong hoạt động thương mại của mỗi quốc gia Nhiều tác giả trên thế giới đã nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan đến chế tài thương mại, tập trung vào việc áp dụng và đánh giá tính phù hợp của các biện pháp này Các nghiên cứu thường hướng đến việc dự đoán việc áp dụng các chế tài và đưa ra quan điểm về sự phù hợp của chúng Nếu xác định rằng các biện pháp chưa phù hợp, tác giả sẽ tìm ra nguyên nhân và đề xuất giải pháp hoàn thiện Các tác giả nước ngoài thường có cách tiếp cận khác so với các tác giả Việt Nam; trong khi tác giả Việt Nam chú trọng vào đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp, tác giả nước ngoài lại đưa ra quan điểm dự đoán mang tính chủ quan Đặc biệt, trong các quốc gia theo hệ thống pháp luật án lệ, nghiên cứu về chế tài thương mại có vai trò quan trọng, tạo cơ sở pháp lý và tập quán pháp lý để áp dụng trong thương mại Các quy định về chế tài thương mại ở những quốc gia này thường mang tính khái quát cao, dẫn đến việc các công trình nghiên cứu cũng được nhìn nhận một cách tổng quát.
1) E.A Vaxilep, Luật dân sự, thương mại ở các nước tư bản 1999
2) Albert H Kritzer CISG: table of Contracting States, accessed date 14/6/2014
3) Avery W Kats, Remedies for breach of contract under the CISG
4) Alexander von Ziegler, The right of suspension and stoppage in transit, Journal of Law and Commerce
5) Urich Magnus, The Remedy of Avoidance of Contract Under CISG – General Remarks and Special Cases
6) John Y Gotanda, Using the UNIDROIT principles to fill gaps in the CISG, Hart Publishing, 2008
7) UNCITRAL Digest of case law on the United Nations Convention on the International Sales of Goods, accessed date 2/6/2014
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐƯỢC XÁC LẬP VÀ TUYÊN BỐ TRONG ĐỀ TÀI
Đề tài tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản sau:
Bài viết này tập trung vào những vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến chế tài thương mại, đặc biệt là các quy định trong Luật Thương mại năm 2005 Nghiên cứu này nhằm làm rõ các khía cạnh pháp lý và thực tiễn của chế tài thương mại, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi luật pháp trong lĩnh vực thương mại.
- Nghiên cứu mối quan hệ giữa các chế tài thương mại trong hoạt động thương mại
Nghiên cứu chế tài thương mại theo Luật Thương mại Việt Nam và so sánh với quy định của một số quốc gia khác, cùng với Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa, giúp làm rõ sự khác biệt và tương đồng trong các quy định pháp lý Việc phân tích này không chỉ cung cấp cái nhìn tổng quan về hệ thống pháp luật thương mại mà còn hỗ trợ doanh nghiệp trong việc áp dụng hiệu quả các quy định liên quan đến chế tài thương mại.
Đề tài nghiên cứu thực trạng quy định pháp luật về chế tài thương mại theo Luật Thương mại năm [năm cụ thể] Nội dung tập trung vào việc phân tích các quy định hiện hành và đánh giá hiệu quả của chúng trong thực tiễn.
Bài viết này tập trung vào việc xác định những điểm hạn chế trong quy định pháp luật về chế tài thương mại Đồng thời, nó cũng đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến vấn đề này, căn cứ theo quy định của Luật thương mại năm 2005.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Chế tài thương mại là quy định quan trọng trong Luật thương mại, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thương mại và các hợp đồng giữa các chủ thể Để nghiên cứu một cách tổng quát và toàn diện, đề tài sẽ tập trung vào hai hướng mục tiêu cơ bản.
Bài viết so sánh quy định của Luật thương mại Việt Nam với chế tài thương mại của một số quốc gia như Mỹ, Pháp, Trung Quốc và Công ước Viên năm 1980 về mua bán hàng hóa, nhằm tìm ra điểm tương đồng và khác biệt Đồng thời, nghiên cứu quy định về chế tài thương mại trong Luật thương mại so với quy định pháp luật Dân sự Việt Nam, từ đó đánh giá và đưa ra cái nhìn tổng quát về việc điều chỉnh pháp luật liên quan đến chế tài thương mại tại Việt Nam.
Dựa trên các mục tiêu nghiên cứu đã đề ra và nghiên cứu pháp luật hiện hành về chế tài thương mại, bài viết nhằm đánh giá toàn diện vấn đề này, chỉ ra những bất cập và hạn chế Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về chế tài thương mại trong tương lai, đảm bảo sự phù hợp trong việc áp dụng các quy định pháp luật với thực tiễn hoạt động thương mại.
PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài này nghiên cứu các biện pháp chế tài dựa trên quy định của Luật thương mại năm 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành Bên cạnh đó, nghiên cứu còn so sánh chế tài thương mại của Việt Nam với quy định pháp luật của một số quốc gia khác, đặc biệt là giữa Công ước Viên năm 1980 và Luật Thương mại Việt Nam.
- Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về chế tài thương mại từ năm 2005 đến nay.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
Phương pháp thu thập tài liệu là một yếu tố quan trọng trong nghiên cứu lý luận pháp luật liên quan đến chế tài thương mại Phương pháp này được áp dụng xuyên suốt quá trình nghiên cứu và bao gồm việc thu thập tài liệu từ cả trong nước và quốc tế.
Đánh giá những bất cập trong quy định pháp luật về chế tài thương mại là cần thiết, đồng thời cần tham khảo các quy định của pháp luật nước ngoài để rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam Việc này sẽ giúp đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về chế tài thương mại.
Phương pháp so sánh được áp dụng để nghiên cứu chế tài thương mại không chỉ dựa vào quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam mà còn xem xét pháp luật của các quốc gia khác như Trung Quốc, Pháp và Công ước Viên 1980 về mua bán hàng hóa quốc tế Qua đó, bài viết tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa các quy định này với pháp luật Việt Nam, từ đó rút ra bài học quý giá cho việc hoàn thiện chế tài thương mại tại Việt Nam Tuy nhiên, những bài học này cần phải được điều chỉnh sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước.
Phương pháp phân tích và tổng hợp là cần thiết để đánh giá tổng quát các vấn đề lý luận liên quan đến quy định pháp luật về chế tài thương mại Việc này giúp đưa ra những đánh giá chung và đề xuất giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài có kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Những lý luận cơ bản của pháp luật về chế tài thương mại
- Chương 2: Thực trạng trong quy định của pháp luật về chế tài thương mại
- Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện quy định của pháp luật về chế tài thương mại
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI…………………………………………………………………… 12 2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005………………………………………… 12 2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của chế tài thương mại
Chế tài thương mại theo quy định của Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 – một vài điểm tương đồng và khác biệt 14 2.2 VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI 15 2.3 NỘI DUNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI THEO QUY ĐỊNH CỦA LUẬT THƯƠNG MẠI NĂM 2005…………………………… 17 2.3.1 Quy định của pháp luật về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng…
và Luật thương mại năm 2005 - một vài điểm tương đồng và khác biệt
Chế tài thương mại là một yếu tố thiết yếu trong pháp luật thương mại của mỗi quốc gia, giúp đảm bảo tính nghiêm túc trong hoạt động thương mại, đặc biệt khi xảy ra tranh chấp giữa các bên Bài viết này tập trung vào nghiên cứu các quy định của Công ước Viên năm 1980 về chế tài thương mại, với lý do là Công ước này có nhiều thành viên là các quốc gia khác nhau, thỏa thuận hoặc công nhận giá trị pháp lý của nó đối với hoạt động thương mại toàn cầu.
Nghiên cứu Công ước Viên năm 1980 cho thấy tinh thần trong quy định pháp luật về chế tài thương mại của các quốc gia Qua đó, tác giả so sánh và đối chiếu để làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt giữa pháp luật Việt Nam và các quốc gia khác về chế tài thương mại.
Có lẽ sự khác biệt lớn nhất giữa Luật thương mại và Công ước Viên năm
Năm 1980, việc mua bán hàng hóa không có quy định về chế tài phạt vi phạm hợp đồng, điều này phản ánh sự khác biệt về kinh tế - xã hội giữa các quốc gia Tính chất thương mại tại Việt Nam mang những đặc thù riêng, dẫn đến việc thiếu các chế tài cụ thể Tuy nhiên, không có nghĩa là các chế tài khác vẫn không được quy định trong Luật thương mại và Công ước Viên.
1980 có sự giống nhau hoàn toàn Thực tế cho thấy, giữa chúng có đôi chút khác biệt:
- Thứ nhất về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng:
Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 cho phép bên vi phạm thực hiện hai biện pháp là sửa chữa hoặc thay thế hàng hóa Tuy nhiên, Luật thương mại Việt Nam chưa quy định rõ cách thức áp dụng các biện pháp sửa chữa và thay thế này, điều này tạo ra sự thiếu sót trong việc thực thi các quy định liên quan đến hàng hóa.
Năm 1980, quy định rõ việc áp dụng biện pháp sửa chữa khi hành vi của một bên vi phạm cơ bản, trong khi các trường hợp vi phạm khác sẽ áp dụng biện pháp sửa chữa hàng hóa Điều này đặt ra yêu cầu cần xác định rõ vi phạm cơ bản và vi phạm thông thường Vi phạm cơ bản được hiểu là hành vi gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên vi phạm, khiến bên này không đạt được mục đích khi ký kết hợp đồng.
`- Thứ hai về chế tài bồi thường thiệt hại:
Luật thương mại năm 2005 và Công ước Viên 1980 đều quy định về việc bồi thường thiệt hại khi một bên vi phạm hợp đồng, bao gồm tổn thất và lợi ích bị mất Tuy nhiên, cách áp dụng các biện pháp bồi thường này có sự khác biệt nhỏ, phụ thuộc vào tính chất của thiệt hại.
Luật năm 1980 cho phép áp dụng bồi thường khi thiệt hại có thể dự đoán trước đối với bên vi phạm, trong khi Luật thương mại năm 2005 quy định bồi thường dựa trên tính trực tiếp và thực tế Cụ thể, giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm tổn thất thực tế và trực tiếp mà bên vi phạm phải chịu do hành vi vi phạm gây ra, cùng với khoản lợi trực tiếp mà bên bị thiệt hại mất đi.
17 bên vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” (Khoản 2 Điều
- Thứ ba là về chế tài hủy hợp đồng
Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 đều quy định rằng chế tài hủy hợp đồng chỉ áp dụng khi có vi phạm cơ bản Khoản 3 Điều 13 Luật thương mại năm 2005 định nghĩa "sự vi phạm cơ bản" là hành vi vi phạm gây thiệt hại cho bên kia đến mức không đạt được mục đích hợp đồng Trong khi đó, Điều 25 Công ước Viên năm 1980 xác định vi phạm cơ bản là khi bên vi phạm gây thiệt hại mà bên bị thiệt hại mất đi quyền lợi hợp pháp, trừ khi bên vi phạm không thể tiên liệu hậu quả Sự khác biệt giữa hai quy định này là Công ước Viên năm 1980 nêu rõ các trường hợp bất khả kháng không được coi là vi phạm nếu bên vi phạm không thể dự đoán hậu quả Quy định này của Công ước Viên thể hiện sự cụ thể hơn so với Luật thương mại năm 2005, giúp việc áp dụng cho hoạt động thương mại trở nên rõ ràng và chính xác hơn.
Công ước Viên năm 1980 và Luật thương mại năm 2005 có những điểm tương đồng và khác biệt đáng chú ý Trong khi Công ước Viên quy định chi tiết hơn, Luật thương mại năm 2005 không đưa ra dẫn chiếu cụ thể nhưng vẫn cho phép các bên áp dụng đúng theo tinh thần pháp luật Sự khác biệt giữa hai văn bản này không gây ra mâu thuẫn trong thực thi Hơn nữa, Công ước Viên hỗ trợ làm rõ và cụ thể hóa việc áp dụng chế tài thương mại theo Luật thương mại năm 2005.
2.2 VAI TRÒ CỦA CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG THƯƠNG MẠI
Chế tài thương mại đóng vai trò quan trọng trong hoạt động thương mại và hợp đồng thương mại, không thể phủ nhận tầm ảnh hưởng của nó.
Chế tài thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo thực hiện hợp đồng thương mại Khi hợp đồng có hiệu lực pháp luật, các bên phải tuân thủ thỏa thuận, nhưng thực tế cho thấy nhiều trường hợp một bên không thực hiện nghiêm túc các điều khoản, ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của bên kia và gây gián đoạn hoạt động thương mại Do đó, chế tài thương mại được xem là yếu tố then chốt để bảo đảm hợp đồng được thực hiện đúng cam kết.
Chế tài thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích của các bên trong hợp đồng thương mại Pháp luật quy định chế tài thương mại nhằm ngăn ngừa và hạn chế hành vi vi phạm hợp đồng, đồng thời yêu cầu các bên thực hiện các biện pháp khôi phục tình trạng ban đầu hoặc bồi hoàn tổn thất khi vi phạm xảy ra Nhờ vào các biện pháp chế tài này, quyền và lợi ích của các bên được đảm bảo một cách hiệu quả.
Chế tài thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao ý thức tuân thủ hợp đồng giữa các bên Tính chất răn đe của chế tài này ảnh hưởng đến nhận thức của các chủ thể, khiến họ ý thức rõ nghĩa vụ của mình đối với bên kia Khi một bên không thực hiện nghĩa vụ, họ sẽ phải chịu những hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm gây ra Do đó, các bên sẽ tự nhận thức và hành động theo đúng các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp đồng thương mại.
Chế tài thương mại đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa vi phạm pháp luật trong hợp đồng thương mại Việc áp dụng chế tài này giúp ngăn chặn các hành vi vi phạm, bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan và duy trì sự công bằng trong giao dịch thương mại.
Luật thương mại năm 2005 cho phép các bên trong hợp đồng thương mại áp dụng các chế tài khác nhau, bao gồm cả chế tài phạt vi phạm hợp đồng, nếu có sự thỏa thuận Ngay cả khi không có thỏa thuận, các bên vẫn có thể áp dụng biện pháp khác như bồi thường thiệt hại Quy định này không chỉ nâng cao tinh thần hợp tác giữa các bên mà còn góp phần ngăn ngừa vi phạm hợp đồng xảy ra.
Quy định của pháp luật về chế tài phạt vi phạm
Phạt vi phạm hiện nay được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau, với một số quan điểm cho rằng đây là biện pháp đảm bảo thực hiện hợp đồng hoặc khắc phục thiệt hại do vi phạm gây ra Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân, phạt vi phạm nên được hiểu là biện pháp ngăn ngừa hành vi vi phạm, và việc quy định cụ thể biện pháp này trong Luật thương mại năm 2005 đã trở thành một trong những quy định quan trọng nhằm bảo vệ các bên trong hoạt động thương mại, đặc biệt là trong hợp đồng thương mại.
Theo Luật thương mại năm 2005, phạt vi phạm được định nghĩa là yêu cầu bên vi phạm hợp đồng phải trả một khoản tiền phạt nếu trong hợp đồng có quy định về việc này Điều này cho thấy rằng việc phạt vi phạm là một phần quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của bên bị vi phạm.
4 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng trong thương mại, luận văn
5 Chế tài phạt vi phạm hợp đồng – ThS Nguyễn Việt Khoa – Giảng viên Khoa Luật kinh tế, Đại học TPHCM
Điều 23 chỉ có hiệu lực khi các bên đã có thỏa thuận cụ thể trong hợp đồng Điều này có nghĩa là một bên không thể yêu cầu bên kia chịu phạt vi phạm nếu không có thỏa thuận về vấn đề này trong hợp đồng Căn cứ để áp dụng chế tài phạt vi phạm bao gồm các điều khoản đã được các bên thống nhất.
Để áp dụng phạt vi phạm hợp đồng, cần phải có hành vi vi phạm từ một bên, thể hiện qua việc không thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ Một số luật gia cho rằng chỉ những vi phạm cơ bản, gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên kia, mới đủ điều kiện để áp dụng hình thức phạt này Tuy nhiên, điều quan trọng là bên bị vi phạm vẫn có quyền yêu cầu bên vi phạm chịu trách nhiệm pháp lý, bất kể thiệt hại thực tế đã xảy ra hay chưa.
- Chủ thể vi phạm phải có lỗi
- Phải tồn tại thỏa thuận về việc phạt vi phạm giữa các bên
Luật thương mại năm 2005 quy định rõ mức phạt đối với vi phạm hợp đồng, không vượt quá 8% giá trị phần nghĩa vụ bị vi phạm, trừ khi các bên có thỏa thuận khác Nếu không có mức phạt cụ thể hoặc mức phạt vượt quá quy định, mức phạt 8% sẽ được áp dụng khi xảy ra tranh chấp Mặc dù quy định này gây tranh cãi, nhưng nó phản ánh sự tự do ý chí của các bên trong hợp đồng Việc cho phép các bên tự thỏa thuận mức phạt có thể dẫn đến những mức phạt không hợp lý, gây khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ hợp đồng Do đó, quy định pháp luật về chế tài phạt vi phạm cần thiết để đảm bảo hiệu quả trong thực tế.
6 Chế tài phạt vi phạm hợp đồng - ThS Nguyễn Việt Khoa – Khoa Luật kinh tế, Đại học TPHCM
Công ty CP Thanh Mai (Ninh Bình) đã ký hợp đồng mua 50 máy bơm công nghiệp mới với tổng giá trị 1 tỷ VNĐ từ công ty Sông Đào, với thỏa thuận giao hàng nhiều đợt và phạt 8% giá trị nghĩa vụ nếu vi phạm Trong đợt giao hàng đầu tiên, Sông Đào đã giao 20 máy bơm trị giá 400 triệu VNĐ nhưng không đảm bảo chất lượng, không có giấy chứng nhận xuất xứ từ Italia, dẫn đến việc công ty Thanh Mai từ chối nhận hàng Hai bên xảy ra tranh chấp, và Thanh Mai đã kiện Sông Đào yêu cầu phạt 8% giá trị nghĩa vụ theo thỏa thuận Việc khởi kiện của Thanh Mai là hợp lý do có thỏa thuận rõ ràng về chế tài phạt vi phạm trong hợp đồng.
Việc áp dụng chế tài phạt vi phạm trong thương mại mang lại nhiều ưu điểm, đặc biệt là khả năng bù đắp thiệt hại nhanh chóng Khi có vi phạm hợp đồng thương mại, nếu không thuộc trường hợp bất khả kháng và đã được các bên thỏa thuận, người bị thiệt hại có quyền yêu cầu bên vi phạm thanh toán số tiền đã thỏa thuận Điều này giúp tránh các chi phí phát sinh trong việc chứng minh thiệt hại, vì việc xác định mức độ thiệt hại thực tế thường rất phức tạp.
Quy định của pháp luật về chế tài buộc bồi thường thiệt hại
Theo Luật thương mại năm 2005, bồi thường thiệt hại là trách nhiệm của bên vi phạm trong việc bù đắp tổn thất mà bên bị vi phạm phải chịu do hành vi vi phạm hợp đồng Giá trị bồi thường bao gồm tổn thất thực tế và trực tiếp mà bên bị vi phạm gánh chịu, cùng với khoản lợi mà họ lẽ ra đã nhận được nếu không xảy ra hành vi vi phạm.
Việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại trong thương mại là cần thiết khi có hành vi vi phạm hợp đồng, lỗi từ phía chủ thể vi phạm, và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế Những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định trách nhiệm bồi thường.
7 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Khóa luận tốt nghiệp, Đào Thị Ngọc Ánh, 2009
Để áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại, bên bị vi phạm phải chứng minh được thiệt hại thực tế đã xảy ra Hiện tại, Luật thương mại chưa có quy định cụ thể nào giải thích định nghĩa thiệt hại, nhưng có thể hiểu thiệt hại là sự mất mát về người, tài sản hoặc tinh thần Luật cũng quy định các trường hợp miễn trừ trách nhiệm như do thỏa thuận giữa các bên, sự kiện bất khả kháng, hoặc hành vi vi phạm hoàn toàn do lỗi của bên kia, cũng như vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước mà các bên không thể biết vào thời điểm ký hợp đồng.
Trong lĩnh vực pháp luật, có sự khác biệt rõ ràng giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc áp dụng chúng trong vi phạm hợp đồng thương mại Phạt vi phạm chỉ được áp dụng khi hai bên đã thỏa thuận trong hợp đồng, trong khi bồi thường thiệt hại phát sinh tự động khi có vi phạm hợp đồng, thiệt hại thực tế và hành vi vi phạm là nguyên nhân gây thiệt hại, không cần thỏa thuận Nếu không có thỏa thuận phạt vi phạm, các bên chỉ có thể yêu cầu bồi thường thiệt hại Khi có thỏa thuận phạt vi phạm, bên vi phạm có quyền áp dụng cả hai biện pháp Một điểm khác biệt nữa là phạt vi phạm có thể được áp dụng ngay cả khi chưa có thiệt hại hoặc thiệt hại nhỏ hơn mức phạt, trong khi bồi thường thiệt hại chỉ nhằm bù đắp cho thiệt hại đã xảy ra.
2.3.4 Quy định của pháp luật về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng
Luật thương mại năm 2005 đã bổ sung quy định về chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, điều mà Luật thương mại năm 1997 trước đây không có Cụ thể, nội dung pháp lý về chế tài này được quy định tại Điều 308 và Điều 309, nhằm đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Hiện hợp đồng là tình huống mà một bên không thực hiện nghĩa vụ của mình trong hợp đồng Mặc dù hợp đồng thương mại bị tạm ngừng, nhưng vẫn giữ nguyên hiệu lực.
Chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng được áp dụng khi có hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để ngừng hợp đồng Vi phạm được coi là cơ bản khi gây thiệt hại cho bên kia, làm họ không đạt được mục đích giao kết Để xác định vi phạm có phải là nghĩa vụ cơ bản hay không, cần xem xét tính chất, mức độ vi phạm và mục đích hợp đồng Ví dụ, trong hợp đồng mua bán hàng hóa, nếu bên giao hàng không đáp ứng chất lượng hoặc thời hạn đã thỏa thuận, cần xác định liệu hành vi này có ảnh hưởng trực tiếp đến mục đích của bên kia hay không Nếu bên bị vi phạm cần hàng gấp để thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba và bên vi phạm không giao hàng đúng hẹn, bên bị vi phạm có quyền tạm ngừng thực hiện hợp đồng Tuy nhiên, việc áp dụng chế tài này không đồng nghĩa với việc hợp đồng chấm dứt hiệu lực, mà hợp đồng vẫn có hiệu lực pháp lý sau khi chế tài được áp dụng.
2.3.5 Quy định của pháp luật về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng cho phép một bên chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng Khi hợp đồng thương mại bị đình chỉ, hiệu lực của hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên nhận thông báo đình chỉ, và các bên không còn nghĩa vụ thực hiện hợp đồng Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
8 http://tinmoi.vn/quyen-tam-ngung-thuc-hien-hop-dong-khi-mot-ben-vi-phạm-011266007.html
Theo quy định pháp luật, việc áp dụng chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng xảy ra khi có hành vi vi phạm từ các bên, mà các bên đã thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng, và một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng Để áp dụng biện pháp này, cần xác định rõ chủ thể vi phạm có thực hiện hành vi thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hay không Các trường hợp miễn trách nhiệm bao gồm: thỏa thuận giữa các bên, sự kiện bất khả kháng, vi phạm do lỗi của bên kia, và hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước mà các bên không thể biết tại thời điểm ký kết hợp đồng.
2.3.6 Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng là một biện pháp thương mại cho phép một bên chấm dứt hợp đồng và làm cho hợp đồng không còn hiệu lực từ thời điểm ký kết Hủy bỏ có thể diễn ra toàn bộ hoặc một phần; trong đó, hủy bỏ toàn bộ có nghĩa là chấm dứt toàn bộ nghĩa vụ trong hợp đồng, trong khi hủy bỏ một phần chỉ liên quan đến việc loại bỏ một số nghĩa vụ, phần còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật Do đó, khi hợp đồng bị hủy bỏ hoặc hủy bỏ một phần, các bên không cần thực hiện nghĩa vụ liên quan đến các phần đã bị hủy bỏ.
Căn cứ áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng xảy ra khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng, vi phạm hợp đồng trước thời hạn và theo thỏa thuận của các bên Vi phạm cơ bản nghĩa vụ của một bên gây thiệt hại cho bên kia, làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng Do đó, nếu vi phạm không được coi là vi phạm cơ bản, thì nó sẽ được xem là vi phạm không cơ bản.
Vi phạm không cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên nhưng không đủ nghiêm trọng để làm cho bên kia không đạt được mục đích của hợp đồng Để xác định vi phạm không cơ bản, cần làm rõ khái niệm vi phạm cơ bản Việc phân biệt giữa vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản là rất quan trọng trong việc hiểu rõ các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng không phải là một quyết định đơn giản, vì nó có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên Việc tuân thủ hợp đồng mang lại lợi ích cho cả hai bên và xã hội Do đó, một bên không thể lợi dụng vi phạm của bên kia để hủy bỏ hợp đồng.
Không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng là lý do thứ hai để các bên có thể hủy bỏ hợp đồng thương mại Khi hợp đồng có hiệu lực pháp luật, các bên cần tuân thủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận Yêu cầu này dựa vào ý thức tự giác của các bên, vì vậy nếu một bên không tôn trọng và thực hiện nghiêm túc, hợp đồng sẽ không thể thực hiện trong thực tế.
Vì vậy đây cũng là căn cứ quan trọng để các bên đưa ra yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thương mại đã được giao kết giữa các bên
Vi phạm hợp đồng thương mại trước thời hạn là lý do để một trong hai bên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng Trong trường hợp này, mặc dù các bên đã thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, nhưng nếu một bên vi phạm hợp đồng, bên kia có quyền yêu cầu hủy bỏ Vi phạm có thể xảy ra khi các bên thực hiện nghĩa vụ nhưng không đáp ứng đúng yêu cầu về số lượng hoặc chất lượng hàng hóa.
Quy định của pháp luật về chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng
Theo quy định của Luật thương mại năm 2005, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng cho phép một bên chấm dứt nghĩa vụ hợp đồng Khi hợp đồng thương mại bị đình chỉ, hiệu lực của hợp đồng chấm dứt từ thời điểm bên nhận thông báo đình chỉ, và các bên không còn nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng Bên đã thực hiện nghĩa vụ có quyền yêu cầu bên kia thanh toán hoặc thực hiện nghĩa vụ đối ứng.
8 http://tinmoi.vn/quyen-tam-ngung-thuc-hien-hop-dong-khi-mot-ben-vi-phạm-011266007.html
Theo quy định pháp luật, việc áp dụng chế tài đình chỉ hợp đồng xảy ra khi có hành vi vi phạm từ các bên, mà hành vi này đã được thỏa thuận là điều kiện để đình chỉ hợp đồng Một bên vi phạm nghĩa vụ cơ bản của hợp đồng sẽ dẫn đến việc áp dụng biện pháp này, trừ khi có trường hợp miễn trách nhiệm Để thực hiện quy định này, cần xác định rõ chủ thể vi phạm có thuộc trường hợp miễn trách nhiệm hay không Các trường hợp miễn trách nhiệm bao gồm: thỏa thuận giữa các bên, sự kiện bất khả kháng, vi phạm do lỗi của bên kia, hoặc hành vi vi phạm do thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Quy định của pháp luật về chế tài hủy bỏ hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng là một chế tài thương mại, cho phép một bên chấm dứt hợp đồng và làm cho hợp đồng không còn hiệu lực từ thời điểm giao kết Việc hủy bỏ có thể là toàn bộ hợp đồng, tức là chấm dứt tất cả nghĩa vụ, hoặc một phần hợp đồng, khi chỉ một số nghĩa vụ bị hủy bỏ, trong khi phần còn lại vẫn có hiệu lực pháp luật Do đó, hợp đồng bị hủy bỏ hoặc hủy bỏ một phần sẽ không có hiệu lực kể từ thời điểm giao kết, và các bên không cần thực hiện các nghĩa vụ đã bị hủy bỏ.
Chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng khi có vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng, không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng, vi phạm trước thời hạn hoặc theo thỏa thuận giữa các bên Vi phạm cơ bản của một bên gây thiệt hại nghiêm trọng cho bên kia, làm họ không đạt được mục đích của hợp đồng Ngược lại, nếu vi phạm không đủ nghiêm trọng thì được xem là vi phạm không cơ bản.
Vi phạm không cơ bản là hành vi vi phạm hợp đồng của một bên nhưng không đủ nghiêm trọng để làm hỏng mục đích của hợp đồng Để xác định liệu một vi phạm có phải là vi phạm không cơ bản hay không, cần phải hiểu rõ khái niệm vi phạm cơ bản Việc phân biệt giữa vi phạm cơ bản và vi phạm không cơ bản là rất quan trọng trong việc đánh giá tính chất của hành vi vi phạm hợp đồng.
Hủy bỏ hợp đồng không thể dựa trên các lý do không cơ bản, vì điều này có thể dẫn đến hậu quả nghiêm trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của các bên liên quan Việc tuân thủ hợp đồng mang lại lợi ích cho cả các bên và xã hội Do đó, một bên không thể lợi dụng việc vi phạm của bên kia để hủy bỏ hợp đồng.
Không thực hiện chế tài buộc thực hiện hợp đồng là một trong những lý do chính để các bên có thể hủy bỏ hợp đồng thương mại Khi hợp đồng đã có hiệu lực pháp luật, các bên cần phải tuân thủ đúng các nghĩa vụ đã thỏa thuận Yêu cầu này dựa trên ý thức tự giác của các bên; nếu một bên không tôn trọng và thực hiện nghiêm túc các nghĩa vụ, hợp đồng sẽ không thể được thực hiện trên thực tế.
Vì vậy đây cũng là căn cứ quan trọng để các bên đưa ra yêu cầu hủy bỏ hợp đồng thương mại đã được giao kết giữa các bên
Vi phạm hợp đồng thương mại trước thời hạn là căn cứ để một bên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng Trong trường hợp này, mặc dù các bên đã thực hiện nghĩa vụ theo thỏa thuận, nhưng nếu một bên vi phạm hợp đồng, bên còn lại có quyền yêu cầu hủy bỏ Vi phạm có thể xảy ra khi các bên không thực hiện đúng yêu cầu về số lượng, chất lượng hàng hóa.
Hủy bỏ hợp đồng thương mại có thể thực hiện nếu các bên đạt được thỏa thuận chung Dù không có vi phạm hợp đồng, các bên vẫn có quyền yêu cầu hủy bỏ hợp đồng, và pháp luật cho phép áp dụng chế tài thương mại trong trường hợp này Việc hủy bỏ chỉ diễn ra khi bên kia chấp nhận yêu cầu.
Hậu quả pháp lý của việc hủy bỏ hợp đồng thương mại là hợp đồng sẽ không còn hiệu lực từ thời điểm giao kết, khiến các bên không cần tiếp tục thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, ngoại trừ các điều khoản liên quan đến quyền và nghĩa vụ sau khi hủy bỏ và giải quyết tranh chấp Các bên có quyền yêu cầu hoàn trả lợi ích từ việc thực hiện nghĩa vụ trước đó.
9 http://luatsuphamtuananh.com/tu-van-soan-thao ky-ket-hop-dong/can-cu-huy-bo-hop-dong-thuong-mai/vn
Theo hợp đồng, các bên có nghĩa vụ hoàn trả tài sản; nếu cả hai bên đều có nghĩa vụ hoàn trả, việc thực hiện phải diễn ra đồng thời Nếu không thể hoàn trả bằng lợi ích đã nhận, bên có nghĩa vụ phải hoàn trả bằng tiền Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại theo quy định của Luật Ngoài ra, khi một bên hủy bỏ hợp đồng thương mại, họ phải thông báo cho bên kia theo quy định pháp luật; nếu không thông báo kịp thời và gây thiệt hại, bên hủy bỏ phải bồi thường (Điều 315 Luật thương mại năm 2005).
Quy định của pháp luật về mối quan hệ giữa các chế tài thương mại
Xem xét mối quan hệ giữa các chế tài thương mại cho thấy chúng có sự bổ sung lẫn nhau và trong nhiều trường hợp là không thể tách rời.
Luật thương mại năm 2005 quy định rõ về chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, theo đó, nếu không có thỏa thuận trước, bên có quyền lợi bị vi phạm không thể áp dụng chế tài phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc hủy hợp đồng Điều này nhấn mạnh rằng khi đã áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng, các bên không thể đưa ra lý do để yêu cầu bồi thường hoặc phạt vi phạm Ngược lại, nếu bên vi phạm không thực hiện chế tài trong thời hạn quy định, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi của mình.
Theo Điều 234, trong trường hợp không có thỏa thuận khác, bên có quyền lợi bị vi phạm có quyền lựa chọn giữa hai chế tài là phạt vi phạm hoặc bồi thường thiệt hại cho cùng một hành vi vi phạm Điều này cho thấy phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại có nhiều điểm tương đồng, với phạt vi phạm được xem như bồi thường thiệt hại ước tính, trong khi bồi thường thiệt hại lại dựa trên thiệt hại thực tế Do đó, nếu đã yêu cầu phạt vi phạm (bồi thường thiệt hại ước tính), bên bị vi phạm không thể yêu cầu bồi thường thiệt hại thực tế nữa.
Chế tài hủy hợp đồng cho phép các bên không chỉ hủy bỏ hợp đồng mà còn có thể áp dụng các chế tài khác một cách đồng thời Điều này giúp bảo vệ quyền lợi của các bên và đảm bảo sự công bằng trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Điều 237 quy định 30 chế tài thương mại khác nhau, nhằm hỗ trợ lẫn nhau trong việc bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia hợp đồng thương mại, đặc biệt là bên bị vi phạm.
Các chế tài thương mại hiện hành được quy định cụ thể trong pháp luật, nhưng mỗi chế tài riêng biệt có căn cứ áp dụng khác nhau Mối quan hệ giữa các chế tài này là bổ sung và hỗ trợ lẫn nhau Do đó, việc kết hợp đúng đắn các chế tài thương mại sẽ tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bên bị vi phạm.
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ
CHẾ TÀI THƯƠNG MẠI 3.1 THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI BUỘC THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG
Chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng là mong muốn của Nhà nước và các bên ký kết hợp đồng thương mại, nhằm đảm bảo mục đích của các bên được thực hiện Khi hợp đồng được thi hành, các bên đạt được lợi ích đã thỏa thuận Tuy nhiên, khi xảy ra vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, biện pháp chế tài thương mại chủ yếu được áp dụng là chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng Thực tế, quá trình áp dụng chế tài này gặp nhiều khó khăn, đặc biệt khi bên vi phạm từ chối thực hiện nghĩa vụ pháp lý đã cam kết, dẫn đến hiệu quả áp dụng chế tài chưa rõ nét.
Sự vướng mắc trong quy định pháp luật về chế tài thực hiện hợp đồng xuất phát từ khái niệm "buộc thực hiện đúng hợp đồng" Điều này có nghĩa là bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực hiện đúng hợp đồng hoặc áp dụng các biện pháp khác để đảm bảo hợp đồng được thực hiện, đồng thời bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh Tuy nhiên, từ định nghĩa này, có thể thấy rõ tính không khả thi khi pháp luật quy định rằng bên vi phạm phải chịu trách nhiệm trong quá trình thực hiện hợp đồng.
Việc "thực hiện đúng hợp đồng" là rất quan trọng, đặc biệt trong hợp đồng thương mại khi có vi phạm về thời gian Ví dụ, nếu hợp đồng quy định giao hàng vào lúc 9h ngày 1/2/2017 và bên giao hàng không thực hiện nghĩa vụ đúng hạn, bên bị vi phạm sẽ không thể yêu cầu thực hiện hợp đồng nữa, vì thời gian không thể quay ngược Điều này cho thấy quy định pháp luật hiện tại không phù hợp với thực tế và khó có thể thi hành theo yêu cầu, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng chế tài buộc thực hiện hợp đồng.
Theo quy định pháp luật, khi bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng trong thời hạn mà bên bị vi phạm ấn định, bên bị vi phạm có quyền áp dụng các chế tài khác để bảo vệ quyền lợi của mình Điều này nhằm đảm bảo lợi ích tối đa cho bên bị vi phạm khi quyền lợi của họ bị xâm phạm Bên bị vi phạm có thể yêu cầu các biện pháp như phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại, tạm ngừng hoặc hủy bỏ hợp đồng Tuy nhiên, quy định này cũng tạo ra kẽ hở, khiến chế tài buộc thực hiện hợp đồng có thể trở nên vô nghĩa, khi bên vi phạm lợi dụng để trì hoãn nghĩa vụ của mình mà không bị áp dụng các biện pháp chế tài kịp thời Hệ quả là quyền lợi của bên bị vi phạm không được bảo vệ đúng cách, dẫn đến việc không đảm bảo lợi ích mà họ mong muốn ban đầu.
3.2 THỰC TRẠNG TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ TÀI PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG
Chế tài phạt vi phạm hợp đồng được đánh giá là một trong những công cụ hiệu quả, giúp bù đắp tổn thất cho bên bị thiệt hại do hành vi vi phạm từ phía đối tác Nó cho phép bồi thường nhanh chóng khi có vi phạm hợp đồng, miễn là vi phạm không thuộc trường hợp bất khả kháng hoặc được miễn trừ trách nhiệm Hơn nữa, chế tài này còn giúp các bên tiết kiệm chi phí liên quan đến việc chứng minh thiệt hại, từ đó tạo ra một quy trình giải quyết tranh chấp hiệu quả hơn.
33 hại Việc chứng minh thiệt hại trên thực tế là điều rất khó khăn, có thể phát sinh nhiều chi phí không cần thiết
Tuy nhiên trong quá trình áp dụng chế tài phạt vi phạm hợp đồng, đã phát sinh một số khó khăn, vướng mắc nhất định Cụ thể là:
Việc áp dụng phạt vi phạm trong hợp đồng chỉ có hiệu lực khi các bên đã thỏa thuận rõ ràng về điều khoản này Tuy nhiên, nếu không có thỏa thuận về phạt vi phạm trong hợp đồng thương mại, các bên vẫn có quyền thiết lập một thỏa thuận khác độc lập với hợp đồng, có thể được ký kết sau khi hợp đồng đã được thực hiện Thỏa thuận này vẫn có giá trị pháp lý tương tự như điều khoản phạt vi phạm đã được thỏa thuận trong hợp đồng thương mại.
Luật thương mại quy định mức phạt tối đa là 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, tuy nhiên, liệu quy định này có hạn chế quyền tự do thỏa thuận của các bên hay không? Nếu các bên thỏa thuận mức phạt cao hơn 8%, thậm chí lên tới 100% hay 200% giá trị hợp đồng, pháp luật sẽ xử lý như thế nào? Thực tế cho thấy, mức phạt được áp dụng, dù là 8%, 100% hay 200%, đều xuất phát từ sự thỏa thuận giữa các bên Hiện tại, có hai luồng quan điểm khác nhau về vấn đề này.
Theo quan điểm thứ nhất, thỏa thuận giữa các bên về mức phạt vi phạm lên tới 100%, 200% sẽ không có giá trị pháp lý và được coi là vô hiệu Do đó, khi giải quyết tranh chấp và yêu cầu áp dụng chế tài phạt vi phạm, hai bên sẽ được xem như không có thỏa thuận nào.
Theo quan điểm thứ hai, khi các bên thỏa thuận mức phạt vi phạm vượt quá 8%, chỉ phần vượt quá sẽ bị vô hiệu, trong khi điều khoản phạt vi phạm hợp đồng vẫn có hiệu lực với mức tối đa 8% Thực tế xét xử các vụ tranh chấp thương mại cho thấy, các Tòa án thường áp dụng mức phạt 8% và không xem xét phần vượt quá Tác giả cũng đồng tình với quan điểm này, cho rằng quy định mức phạt không quá 8% giá trị hợp đồng không làm mất đi sự tự do thỏa thuận của các bên.
10 Các hình thức chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại – Khóa luận tốt nghiệp, Đào Thị Ngọc Ánh, 2009