Mục đích của Khoá luận nhằm đánh giá được đặc điểm phân bố của cây Trà hoa vàng tại khu vực nghiên cứu. Đánh giá được đặc điểm hoàn cảnh rừng nơi có loài Trà hoa vàng tại khu vực nghiên cứu. Nghiên cứu tri thức địa phương về cây Trà hoa vàng tại khu vực nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo!
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trên thế giới
Trà hoa vàng, thuộc chi Trà (Camelia), là một loại thực vật đa dạng với nhiều chủng loại và công dụng phong phú Theo thống kê toàn cầu, có hơn 200 loại trà hoa vàng khác nhau, mang lại lợi ích cho sức khỏe và được ưa chuộng trong việc chăm sóc sức khỏe tự nhiên.
300 loài và hàng chục biến chủng khác nhau
Vào những năm 60 của thế kỷ XX, Trà hoa vàng lần đầu tiên được phát hiện tại Quảng Tây, Trung Quốc, thu hút sự chú ý của nhiều nhà khoa học Kể từ đó, loại trà này đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều quốc gia nhờ vào những công dụng đặc biệt của nó.
Trà hoa vàng là loại cây ưa khí hậu nóng ẩm, thường phát triển ở những nơi có đất tơi xốp, bên bờ suối có bóng râm và thoát nước tốt Loài cây này có phạm vi phân bố tự nhiên rất hẹp, chỉ thấy mọc hoang tại vùng đồi gò ở độ cao từ 100-200m, cụ thể là ở huyện Ung Nhinh, Nam Ninh, Quảng.
Tây - Trung Quốc Được đưa vào danh sách các loài cây bảo hộ cấp I của Trung Quốc (Vũ Thị Luận, 2017) [8], (Nguyễn Văn Khương, 2011) [5]
Trà hoa vàng chứa nhiều nguyên tố vi lượng như Germanium, Selenium, Mangan, Molypden, Kẽm và Vanadium, mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe Các hoạt chất trong lá và hoa của trà giúp hạ huyết áp, giảm tiểu đường, hạ cholesterol và mỡ máu, đồng thời tăng cường hệ miễn dịch và kéo dài tuổi thọ Germanium có khả năng tăng cường hấp thu O2 của tế bào, hỗ trợ trao đổi chất và chống u bướu Selenium giúp chống oxy hóa, loại bỏ gốc tự do, nâng cao khả năng tự bảo vệ cơ thể Vanadium thúc đẩy sản xuất máu và giảm cholesterol trong huyết tương Nghiên cứu lâm sàng cho thấy Trà hoa vàng hiệu quả hơn alpha-Napthothiourea trong việc giảm mỡ máu, khẳng định giá trị của nó trong việc cải thiện sức khỏe.
Trà hoa vàng có khả năng ức chế sự phát triển của khối u lên đến 33,8%, vượt qua ngưỡng 30% được coi là thành công trong điều trị ung thư Ngoài ra, trà này giúp giảm 35% cholesterol trong máu, cao hơn so với mức giảm 33,2% từ các loại thuốc khác Chất chiết xuất từ trà còn làm giảm 36,1% lipoprotein trong cơ thể, hơn 10% so với các liệu pháp tân dược hiện tại Ông Lipuren, chuyên gia y học dân tộc nổi tiếng của Trung Quốc, đã khẳng định rằng Trà hoa vàng "có những công dụng y học vô giá" (Nguyễn Văn Khương, 2011).
Trung Quốc đã phát triển khu bảo tồn gen cho hơn 20 loài và biến chủng Trà hoa vàng, đồng thời tiến hành nghiên cứu sâu về cấu trúc gỗ, nhiễm sắc thể, đặc điểm hình thành phấn hoa, cũng như các phương pháp lai giống và nhân giống loại trà này.
Công ty Phú Tân tại Quảng Tây, Trung Quốc, đã thành công trong việc chế biến trà túi lọc từ Trà hoa vàng, tạo ra một loại nước uống bổ dưỡng cao cấp, đặc biệt là sản phẩm Golden Camellia với giá 4.67 triệu đồng/chai Sản phẩm này không chỉ mang lại hương vị độc đáo mà còn có lợi cho sức khỏe con người.
Trà hoa không chỉ có khả năng hấp thu CO2, H2S, Cl, HF và các khí độc hại khác mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ môi trường và làm sạch không khí Tại Nam Ninh, Trung Quốc, một công viên Trà hoa vàng đã được xây dựng để phục vụ du khách và bảo vệ nguồn gen cho các nghiên cứu khoa học (Vũ Thị Luận, 2017) [7], (Nguyễn Văn Khương, 2011) [5].
Tại Trung Quốc, các loài trong chi Camellia đã được nghiên cứu một cách nghiêm túc bởi các nhà khoa học và chuyên gia Quốc gia này dẫn đầu trong việc ứng dụng và khai thác các loài trà hoa, không chỉ trong nghệ thuật cây cảnh mà còn trong lĩnh vực dược phẩm và đồ uống.
Nghiên cứu trong nước
Trà hoa vàng được người Pháp phát hiện lần đầu tiên tại miền Bắc Việt Nam vào năm 1910, nhưng nghiên cứu về loại trà này vẫn còn hạn chế Hiện nay, ước tính có gần 20 loài Trà hoa vàng khác nhau tại Việt Nam Đến những năm 90 của thế kỷ XX, Trà hoa vàng mới bắt đầu được chú ý nghiên cứu về hình thái và phân loại (Trần Ninh, 2002).
Trà hoa vàng, một loại cây quý, thường phân bố ở các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc như Bắc Giang, Vĩnh Phúc, Yên Bái, và Lào Cai Loại trà này thường mọc ở độ cao từ 300 đến 800m so với mực nước biển, chủ yếu trong các khu rừng thứ sinh, xen kẽ giữa các nương rẫy, và xuất hiện ở những địa hình dốc hoặc có nhiều đá lộ ra, ven các khe suối cạn.
Mặc dù trà hoa vàng đã được phát hiện gần một thế kỷ, nhưng công tác bảo tồn và nghiên cứu ứng dụng vẫn chưa được chú trọng Không chỉ hai loài trà hoa vàng được ghi trong sách đỏ Việt Nam, mà còn hàng chục loài khác đang trong tình trạng nguy cấp Hiện tại, các nỗ lực bảo tồn chủ yếu tập trung vào việc bảo tồn tại chỗ và nghiên cứu di thực tại Đà Lạt và vườn Quốc gia Tam Đảo Để bảo tồn và quản lý bền vững nguồn gen quý này trong tương lai, cần tập trung vào việc nhân giống và trồng với quy mô lớn.
Trà hoa vàng là một loại cây thân gỗ nhỏ, thường xanh, có chiều cao từ 2-5m với cành thưa và vỏ cây màu vàng xám nhạt Lá của cây có hình dạng đơn, mọc cách, dài và hẹp, thường ra lộc và lá mới vào tháng 4-5 hàng năm Sau khoảng 2-3 năm, lá già mới bắt đầu rụng.
Hoa nở từ tháng 11 và kéo dài đến tháng 3 năm sau, thường mọc riêng lẻ ở nách lá mới Với màu vàng kim bóng bẩy, hoa mang đến vẻ đẹp long lanh và cảm giác nửa trong suốt Hoa có hình dạng cốc hoặc bát, thể hiện sự đa dạng và kiều diễm (Ngô Quang Đê và Cs, 2008).
Trà hoa vàng là một loại cây có giá trị kinh tế và y dược cao, với lá được sử dụng để pha trà, làm thuốc chữa kiết lỵ và rửa vết thương Hoa của cây có tác dụng chữa tiêu chảy ra máu và cũng có thể dùng làm màu thực phẩm Gỗ của trà hoa vàng cứng, thích hợp để làm đồ dùng gia đình và hàng mỹ nghệ, trong khi hạt của cây có thể ép lấy dầu.
Trà hoa vàng là cây gỗ nhỏ, ưa bóng, thường phát triển dưới tán cây khác trong rừng tự nhiên Loại cây này có khả năng trồng làm cây tầng dưới trong các đai rừng phòng hộ, giúp nuôi dưỡng nguồn nước và chống xói mòn Với nhiều lá và khả năng phân giải dễ dàng, trà hoa vàng có tác dụng giữ nước và cải tạo đất hiệu quả.
Trà hoa vàng nổi bật với thời gian ra hoa dài và hoa vàng rực rỡ, có kích thước từ 4 đến 8 cm Nhờ vẻ đẹp của hoa, nhiều người yêu cây cảnh đã sưu tầm và trồng Trà hoa vàng trong sân vườn, đặc biệt vào dịp Tết âm lịch Tuy nhiên, hiện tại chỉ có giá trị cảnh quan được chú trọng, trong khi các giá trị sinh học và dược học vẫn chưa được khai thác đúng mức (Nguyễn Văn Khương, 2011; Phạm Thị Bích Hòa, 2017).
Giảng viên Trần Ninh từ Đại học Quốc gia Hà Nội cùng các cộng sự đã phát hiện một loài trà hoa sắc vàng tươi tại Vườn Quốc Gia Tam Đảo, tuy nhiên vị trí cụ thể vẫn chưa được tiết lộ Nghiên cứu của Đỗ Đình Tiến (2000) về nhân giống bằng hom cho các loài trà như C petelotii, C tonkinensis và C euphlebia cho thấy tỷ lệ ra rễ đạt từ 70% đến 86% Hiện nay, thống kê cho thấy có khoảng 196 loài trà được phân loại.
Việt Nam có khoảng 26 loài trà, chủ yếu phân bố ở miền Bắc, với Trà hoa vàng là một giống đặc biệt thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu quốc tế từ Úc, Pháp, Anh và Nhật Loài trà này phát triển tốt trong điều kiện khí hậu á nhiệt đới, nóng ẩm và có mùa đông, đặc biệt phù hợp với miền Bắc và Đà Lạt Trà hoa có thể trồng trên nhiều loại đất, nhưng đất tơi xốp, thoát nước và có độ pH từ 4,5 - 5,5 là lý tưởng nhất Hiện nay, Trà hoa đang trở thành loài quý hiếm, chưa được trồng với diện tích lớn, và một số loài như bạch trà không có nhị, do đó không có quả.
Phương pháp nhân giống chủ yếu hiện nay là nhân giống vô tính, bao gồm chiết, ghép, giâm hom và nuôi cấy mô Trong số đó, giâm hom được đánh giá là phương pháp đơn giản và có tỷ lệ cây sống cao (Nguyễn Văn Khương, 2011).
Nghiên cứu về nhân mã hóa rARN 5,8s ở loài Trà hoa vàng C petelotii của vườn quốc gia Tam Đảo được thực hiện bởi Nguyễn Thị Nga và cộng sự
(2003) với mục đích xác định chính xác phân loại loài này với loài C chrysantha của Trung Quốc Kết quả cũng chỉ dừng ở việc tách chiết được
ADN tổng số đã được nhân đoạn gen mã hóa rARN 5,8S từ loài Trà C petelotii bằng cặp mồi thiết kế đặc hiệu cho chi Camellia Tuy nhiên, việc xác định xem C petelotii và C chrysantha của Trung Quốc có phải là cùng một loài hay không vẫn chưa được đề cập (Nguyễn Văn Khương, 2011) [5].
Viện Dược liệu thuộc Bộ Y tế đã thực hiện công trình nghiên cứu "Bước đầu khảo sát thành phần hóa học của một số loài trà hoa vàng Camellia spp ở Việt Nam" Kết quả nghiên cứu này hiện chỉ đạt được mức "khiêm tốn", khi xác định được một số nhóm chất của 5 trong số 20 loại trà hoa vàng thông qua phương pháp sắc ký lớp mỏng.
Đề tài nghiên cứu khả năng bảo tồn ngoại vi và nhân giống hai loài Trà hoa vàng C tonkinensis và C euphlebia nhằm bảo vệ và phát triển đã được thực hiện gần đây Nghiên cứu đã xác định điều kiện sống của hai loài trà hoa vàng tại Ba Vì và Sơn Động, làm cơ sở cho các biện pháp kỹ thuật trồng trọt sau này Việc phát hiện loài trà hoa vàng Ba Vì (Camellia tonkinensis) là một thành công lớn, đặc biệt khi trước đó vào năm 1995, Rosmann đã không tìm thấy và nghĩ rằng loài này đã tuyệt chủng Đề tài cũng đã tiến hành giâm hom cho hai loài với tỷ lệ ra rễ và sống đạt từ 50 đến 80,6% Đây là lần đầu tiên các nguyên tố vi lượng trong lá trà hoa vàng Ba Vì và Sơn Động được phân tích tại nơi sinh sống tự nhiên của chúng.
Trên báo Lâm Đồng điện tử số ra ngày 6/8/2008 của tác giả Sơn Tùng
Bài viết năm 2008 với tiêu đề “Camellia - Siêu trà bị lãng quên” nêu rõ các công dụng dược học của Trà hoa vàng, đồng thời chỉ ra rằng việc khai thác tài nguyên quý giá này tại Việt Nam vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Tổng quan khu vực nghiên cứu
Mỹ Phương là một xã thuộc huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn, Việt Nam
-Phía Bắc giáp xã Chu Hương
- Phía Đông giáp thị trấn Nà Phặc và xã Lãng Ngâm (Ngân Sơn)
- Phía Nam giáp xã Phước Linh và xã Vi Hương (Bạch Thông)
- Phía Tây giáp xã Đồng Phúc
Xã Mỹ Phương có diện tích 57,03 km², dân số năm 1999 là 3250 người, mật độ dân số đạt 57 người/km²
Xã Mỹ Phương có diện tích 57,05 km² và dân số khoảng 3.353 người, với mật độ dân số đạt 58,8 người/km² Tỉnh lộ 258 đi qua xã, kết nối với thị trấn Phủ Thông thuộc huyện Bạch Thông Khu vực này còn có nhiều khe suối lớn nhỏ, bao gồm suối Bản Hậu, suối Cốc Sâu, khuổi Phiên, khuổi Lùng và suối Thạch Khuất, nằm ở thượng nguồn sông Hà Hiệu.
Xã Mỹ Phương bao gồm nhiều thôn bản như Hậu, Nà Phiêng, Phiêng phường, Thạch Ngoã 1, Thạch Ngoã 2, Khuổi Sliến, Nà Lầu, Bjoóc Ve, Pùng Chằm, Vằng Kheo, Khuổi Lùng, Nà Cà, Nà Ngò, Cốc Muồi, Khuổi Khún và Cốc Sâu.
Ba Bể chủ yếu là đất lâm nghiệp, chiếm hơn 80%, trong khi đất nông nghiệp chỉ chiếm 10% Huyện có địa hình phức tạp với sông, suối và núi, gây khó khăn cho giao thông, đặc biệt ở các thôn bản vùng cao Nơi đây nổi bật với những ngọn núi cao và khối đá vôi hiểm trở, tạo thành những hình dạng kỳ thú do quá trình cacxtơ Đặc biệt, dãy núi Phja Bjooc với độ cao 1.578m được coi là mái nhà của ba huyện: Ba Bể, Chợ Đồn và Bạch Thông.
Huyện Ba Bể có hai con sông chính là Năng và Chợ Lùng, tạo nên đặc trưng địa hình hiểm trở của khu vực Sông Năng bắt nguồn từ dãy núi Phja Giạ, chảy theo hướng Đông - Tây vào huyện Ba Bể từ xã Bành Trạch Trong khi đó, sông Chợ Lùng xuất phát từ phía Nam huyện, chảy theo hướng Đông Nam - Tây Bắc, sau đó đổ vào hồ Ba Bể và nối với sông Năng Cùng với dòng sông Gâm, các con sông này tạo nên một hệ thống thủy văn phong phú, xuyên suốt địa giới huyện Ba Bể.
Ba Bể có nhiều tuyến giao thông quan trọng, bao gồm Quốc lộ 279, tỉnh lộ 201 và 254 Hiện tại, 15/16 xã ở Ba Bể đã được kết nối với đường ô tô đến trung tâm xã, tạo điều kiện thuận lợi cho việc di chuyển và phát triển kinh tế.
Khu vực này có nhiệt độ trung bình năm từ 21°C đến 23°C, với hiện tượng sương muối vào mùa đông và băng giá tại những khe núi Mặc dù là vùng khuất gió mùa đông bắc, nơi đây vẫn tiếp nhận gió mùa Tây Nam, dẫn đến lượng mưa trung bình trên 1.600 mm và sự phát triển phong phú của thảm thực vật.
Ba Bể, nằm ở độ cao từ 500 - 1000m so với mặt biển trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của động thực vật nhờ vào nhiệt độ, nắng và mưa Vùng hồ Ba Bể và sườn núi Phja Bjoóc hầu như luôn mát mẻ, nhưng thời tiết đôi khi rất khắc nghiệt Mùa đông, Ba Bể thường trải qua sương muối, băng giá và những đợt mưa phùn kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến sự sinh trưởng của động thực vật cũng như sức khỏe con người Vào mùa mưa, nhiều xã ven sông Năng thường xuyên bị ngập lụt.
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 21°C đến 23°C, với hiện tượng sương muối thường xảy ra vào mùa đông và băng giá có thể xuất hiện ở các khu vực khe núi Khu vực này nằm trong vùng khuất gió mùa đông bắc nhưng lại đón gió mùa Tây Nam, dẫn đến lượng mưa trung bình vượt quá 1.600 mm, góp phần tạo nên thảm thực vật phong phú.
Ba Bể, nằm ở độ cao từ 500 - 1000m so với mặt biển trong khu vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, có điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của động thực vật nhờ vào nhiệt độ, nắng và mưa phong phú Hồ Ba Bể và sườn núi Phja Bjoóc giữ được sự mát mẻ quanh năm, nhưng thời tiết đôi khi rất khắc nghiệt Mùa đông, khu vực này thường gặp sương muối, băng giá và mưa phùn kéo dài, ảnh hưởng tiêu cực đến sự sinh trưởng của động thực vật cũng như sức khỏe con người Ngoài ra, mùa mưa cũng gây ngập lụt cho nhiều xã ven sông Năng.
Số giờ nắng: Tổng số giờ nắng trung bình đạt 1586 giờ, thấp nhất là tháng 1 có 54 giờ, cao nhất là 223 giờ vào tháng 8 [11]
Chế độ mưa ở khu vực này có lượng mưa trung bình thấp, khoảng 1.115mm mỗi năm Tháng 6 và tháng 7 là thời điểm mưa nhiều nhất, với lượng mưa có thể lên tới 340mm trong một ngày Ngược lại, tháng 12 và tháng 1 là thời gian khô nhất, chỉ ghi nhận khoảng 1,5mm mưa mỗi ngày Mùa mưa diễn ra từ tháng 5 đến tháng 10.
10 và chiếm tới 75-80% lượng mưa cả năm Độ ẩm không khí trung bình 82%, thấp nhất vào tháng 2 với 79% và cao nhất vào tháng 7 tới 88% [11]
Ba Bể nổi bật với hệ thống sông, suối sâu, cung cấp nước tưới cho đồng ruộng, đặc biệt là các ruộng bậc thang Người dân tộc nơi đây có kinh nghiệm phong phú trong việc xây dựng mương, phai và guồng nước, tận dụng sức nước cho sản xuất và đời sống như xay gạo, làm bông, và thủy điện mini Hệ thống giao thông đường thủy sông Năng kết hợp với đường bộ tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao thương giữa các huyện Ba Bể, Chợ Đồn và Na Hang (Tuyên Quang).
Tài nguyên đất đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái, ảnh hưởng đến sự phát triển của mọi loài, bao gồm cả Trà hoa vàng Đất được hình thành từ sự tương tác của nhiều yếu tố, và chính cấu trúc của nó quyết định thành phần và sự phát triển của thảm thực vật Để đánh giá chất lượng đất, cần xem xét cả tính chất lý học và hóa học của nó.
Tính chất lý học của đất liên quan đến các quá trình vật lý diễn ra trong đất, thường được đánh giá qua độ ẩm và thành phần cơ giới của nó.
Tính chất hóa học của đất là yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng đất, dựa vào hàm lượng dinh dưỡng và các quy chuẩn liên quan Để xác định độ phì nhiêu, cần xem xét các yếu tố như phản ứng dung dịch đất, khả năng hấp phụ, hàm lượng mùn và các nguyên tố dinh dưỡng cơ bản Các chỉ số quan trọng bao gồm pHkcl, phần trăm mùn, dung tích trao đổi cation (CEC), và hàm lượng N, P2O5, K2O trong đất.
2.3.2 Điều kiện kinh tế - xã hội và dân số
- Điều kiện kinh tế - xã hội:
Trong phát triển kinh tế - xã hội, cấp ủy và chính quyền xã đã thống nhất lãnh đạo và triển khai phát triển kinh tế nông lâm nghiệp dựa trên tiềm năng và thế mạnh địa phương Nhờ sự quan tâm và hỗ trợ của Đảng và Nhà nước, nhiều giống cây trồng mới đã được đưa vào canh tác, góp phần nâng cao năng suất và sản lượng cho bà con.
ĐỐI TƯƠNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng và giới hạn nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu là cây Trà hoa vàng phân bố tự nhiên trên rừng hoặc gieo trồng tại xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn
- Giới hạn nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trong phạm vi địa bàn xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, Tỉnh Bắc Kạn.
Nội dung nghiên cứu
- Điều tra đánh giá đặc điểm sinh học của cây Trà hoa vàng
- Điều tra đánh giá tri thức địa phương về cây Trà hoa vàng
- Điều tra đánh giá phân bố loài Trà hoa vàng và cấu trúc rừng nơi Trà hoa vàng phân bố:
+ Đặc điểm phân bố loài Trà hoa vàng theo loại rừng và địa hình
+ Đặc điểm cấu trúc rừng nơi có loài Trà hoa vàng phân bố
- Đề xuất giải pháp quản lý và bảo tồn loài cây này tại khu vực nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Phương pháp kế thừa Đề tài có kế thừa một số tư liệu:
- Những tư liệu về điều kiện tự nhiên, khí hậu, thuỷ văn, đất đai, địa hình, tài nguyên rừng tại khu vực nghiên cứu
- Tư liệu về điều kiện dân sinh, kinh tế, xã hội
Nghiên cứu về cây trà hoa vàng đã được thực hiện cả trong và ngoài nước, tập trung vào các đặc điểm sinh thái, phân bố, cấu trúc và điều kiện lập địa của loài cây này Các kết quả nghiên cứu cho thấy cây trà hoa vàng có khả năng thích ứng tốt với môi trường sống đa dạng, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái địa phương Việc hiểu rõ về đặc điểm sinh thái và phân bố của cây sẽ hỗ trợ trong công tác bảo tồn và phát triển bền vững loài cây quý giá này.
3.3.2 Phương pháp nghiên cứu phân loại học Để xác định, làm quen và nhận rõ loài khi triển khai nghiên cứu thực địa thì việc nghiên cứu phân loại loài rất quan trọng Nghiên cứu này thực hiện tốt giúp nhà nghiên cứu không nhầm lẫn đối tượng nghiên cứu Ngoài ra, nó cũng chỉ rõ vi trí phân loại của loài trong các hệ thống phân loại Để thực hiện được nội dung này, đề tài đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu liên quan về hệ thống học của chi trà trên thế giới và trong nước, đồng thời tiến hành kiểm tra và được giảng viên hướng dẫn (Trần Đức Thiện, Đỗ Hòang Chung) hướng dẫn cách nhận biết cây Trà hoa vàng tại xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn để không bị nhầm lẫn với các cây khác Các đặc điểm hình thái của loài được ghi chép để phục vụ nghiên cứu hình thái loài
Sau khi thu thập thông tin sơ bộ về hình thái và phân bố của loài, đề tài sẽ xác định vị trí trên bản đồ khu vực cần điều tra Mục đích của việc điều tra sơ thám này là để hiểu rõ hơn về sự phân bố và đặc điểm của loài trong khu vực nghiên cứu.
- Nhận diện chính xác loài và xác định sơ bộ khu vực nghiên cứu của loài Trà hoa vàng
3.3.4 Phương pháp điều tra thu thập số liệu ngoài hiện trường a) Phương pháp nghiên cứu đặc điểm hình thái
Phương pháp nghiên cứu thực vật học của Nguyễn Hoàng Nghĩa (2001) bao gồm việc sử dụng quan sát mô tả trực tiếp đối tượng đại diện kết hợp với đối chiếu và so sánh với tài liệu có sẵn Đây là phương pháp phổ biến trong lĩnh vực này.
Quan sát hình thái và xác định kích thước các bộ phận của cây Trà hoa vàng là rất quan trọng, bao gồm thân cây, vỏ cây, sự phân cành, lá, hoa và hạt Để đo chu vi thân cây, chúng ta sử dụng thước dây tại vị trí D1.3 Đối với lá và quả, cần chọn những mẫu sinh trưởng bình thường, không bị sâu bệnh hay biến dạng, sau đó dùng thước kẻ hoặc thước dây để đo chiều dài và rộng, ghi lại các thông số vào bảng Thước kẹp cũng có thể được sử dụng để đo kích thước quả, mang lại độ chính xác cao và tiện lợi.
Lấy mẫu tiêu bản không chỉ từ loài nghiên cứu mà còn từ các loài khác trong quần xã để hỗ trợ việc định danh loài Việc so sánh các mẫu vật thu được với các tiêu bản trước đây hoặc những loài cây có hình thái tương tự là cần thiết nhằm xác định tính chính xác của loài (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2001).
Chúng tôi tiến hành đo đếm giá trị trung bình của lá và quả cây Trà hoa vàng bằng các dụng cụ như máy ảnh, thước dây, ống nhòm và GPS Để đánh giá sự hiểu biết và sử dụng các loài Trà hoa vàng trong khu vực nghiên cứu, chúng tôi phỏng vấn những người đã từng khai thác và sử dụng cây gỗ địa phương cho sinh hoạt và sản xuất Đối tượng phỏng vấn bao gồm người dân, các cụ già, cán bộ tuần rừng và kiểm lâm trong khu bảo tồn Chúng tôi sử dụng mẫu biểu thống nhất để thu thập thông tin về giá trị sử dụng và phân bố của cây thông qua các phiếu phỏng vấn.
Để điều tra cây cá thể, cần thực hiện việc khảo sát trong cộng đồng với sự hỗ trợ từ lãnh đạo huyện, giới thiệu cán bộ kiểm lâm và cán bộ lâm nghiệp dẫn dắt Việc thu thập thông tin sẽ được tiến hành theo mẫu biểu thống nhất, trong đó phỏng vấn người dân sẽ bao gồm việc trình bày mẫu loài cây và hình ảnh cụ thể Điều này giúp thu thập dữ liệu về giá trị sử dụng và phân bố của các loài cây trong vườn nhà của dân.
Các cây điều tra được điền vào mẫu bảng 01 phụ lục 02
Phương pháp thu hái và xử lý mẫu là bước quan trọng trong việc xác định tên loài và taxon, đồng thời đóng vai trò thiết yếu trong việc xây dựng bảng danh lục thực vật chính xác và đầy đủ.
Để thu hái mẫu cây hiệu quả, sử dụng túi nylon lớn để đựng và cồn để bảo quản mẫu lâu dài Ghi nhãn bằng bút chì trước khi gắn vào mẫu và ghi chép đầy đủ các đặc điểm loài cây trong sổ tay Mẫu thu thập cần được xác định tên địa phương và tên phổ thông thông qua sự hỗ trợ của cán bộ kiểm lâm, người địa phương và chuyên gia.
Phương pháp điều tra ô tiêu chuẩn điển hình được sử dụng để thu thập thông tin về đặc điểm hệ sinh thái rừng Tại mỗi điểm nghiên cứu, ba ô tiêu chuẩn được lập, được chọn tại những khu vực đại diện cho các điều kiện lập địa khác nhau Diện tích mỗi ô tiêu chuẩn là 1.000 m², với chiều dài hai cạnh lần lượt là 40m và 25m, phù hợp với quy định trong điều tra rừng tự nhiên và rừng tái sinh Kết quả thu thập được ghi vào biểu mô tả tình hình chung của ô tiêu chuẩn (xem phụ biểu 01).
Trà hoa vàng phân bố không đồng đều trong khu vực, với số lượng cá thể còn lại rất ít Các ô tiêu chuẩn được thiết lập tại những trạng thái rừng đại diện cho toàn bộ khu vực, nơi có độ tàn che trung bình và sự xuất hiện của Trà hoa vàng Trong mỗi ô tiêu chuẩn, các chỉ tiêu được điều tra bao gồm nhiều yếu tố quan trọng.
Để xác định độ tàn che của tầng cây cao, có hai phương pháp chính: phương pháp cho điểm theo hình zic zắc trải đều trên toàn bộ diện tích ô tiêu chuẩn và phương pháp tính tỷ lệ phần trăm.
Trong quá trình điều tra số lượng cây Trà hoa vàng trong ô tiêu chuẩn, các kết quả được ghi vào biểu điều tra tương ứng (phụ biểu 05) Điều tra thành phần loài cây dựa trên đường kính ngang ngực (D1.3) của tất cả các loài cây có đường kính tối thiểu lớn hơn 5 cm, được đo bằng thước dây với độ chính xác đến mm Chiều cao vút ngọn (Hvn) được xác định bằng thước đo cao Blumleiss với độ chính xác đến dm Đường kính tán (Dt) được đo theo hai hướng vuông góc Đông Tây - Nam Bắc, cũng với độ chính xác đến dm, và kết quả đo được ghi vào biểu điều tra tầng cây cao trên ô tiêu chuẩn (phụ biểu 02).
Điều tra tái sinh của Trà hoa vàng được thực hiện theo 5 ô dạng bản 5x5 m², với bốn ô ở bốn góc và một ô ở chính giữa Mục tiêu là đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố đến tái sinh tự nhiên của Trà hoa vàng thông qua quan sát Nếu có nhiều cây tái sinh cao hơn 1m, chúng có khả năng phát triển thành cây to và bảo tồn tốt, trong khi cây nhỏ dưới 1m dễ bị tác động Kết quả điều tra sẽ được ghi vào biểu điều tra tái sinh trà hoa vàng Ngoài ra, điều tra cây bụi và thảm tươi trong mỗi ô tiêu chuẩn sẽ bao gồm các loài cây, chiều cao trung bình và độ che phủ, với số liệu được ghi vào biểu điều tra tầng cây bụi và thảm tươi tương ứng.
- Hoạch và Thiết kế nông
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
Đặc điểm sinh học của loài cây Trà hoa vàng
Trà hoa vàng, hay còn gọi là trà mi, thuộc họ chè (Theaceae) và chi chè (Camellia), bao gồm nhiều loại chủng và biến chủng Đây là một trong những loài hoa quý hiếm tại Việt Nam và Trung Quốc, đồng thời cũng được ưa chuộng ở nhiều quốc gia trên thế giới nhờ vẻ đẹp đặc trưng của nó.
4.1.2 Đặc điểm hình thái cây Trà hoa vàng
Kết quả phỏng vấn người dân địa phương cho thấy cây Trà hoa vàng chủ yếu phân bố tại các thôn Khuổi Lùng, đồng thời cũng cung cấp thông tin về khả năng bắt gặp loài cây này trong khu vực.
Hình 4.1:Ý kiến người dân về đặc điểm nhận biết cây Trà hoa vàng
Cây trà hoa vàng được coi là cây gỗ nhỏ hoặc cây bụi, với 75% người dân cho rằng đây là cây gỗ nhỏ, trong khi 25% còn lại nhận định rằng nó là cây bụi.
Lá có phiến thuôn, không lông, mép có khía răng cưa nhỏ
Trà hoa vàng có hai dạng sinh trưởng khác nhau do ảnh hưởng của địa hình, khí hậu, đất đai, nhiệt độ và ánh sáng Mỗi cây trà sẽ phát triển khác nhau để thích ứng với môi trường sống Nếu môi trường không phù hợp, cây trà sẽ phát triển chậm, phân cành sớm và hình thành dạng cây bụi Ngược lại, trong môi trường thuận lợi, cây trà sẽ sinh trưởng và phát triển nhanh, tạo thành cây gỗ nhỏ trong một lâm phần.
-Thân cây Trà hoa vàng a, Cây trưởng thành b,Thân cây
Hình 4.2: Hình thái cây Trà hoa vàng
Trà hoa vàng, một loại cây gỗ nhỏ thường xanh, có chiều cao trung bình từ 2-3m, được tìm thấy rải rác trong rừng phục hồi tại xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn.
Lá của Trà hoa vàng có cuống dài từ 1-3mm, nhẵn và mọc cách Phiến lá hình bầu dục, với lá già có màu xanh đậm và láng ở mặt trên, xanh sáng ở mặt dưới, có nhiều điểm tuyến màu đen Cả hai mặt lá đều không có lông, dày, cứng và dài, với gốc lá hình niêm hoặc tròn, chóp lá nhọn và mép lá có răng cưa nhỏ cách đều nhau Hệ gân lá có 12-15 đôi, gân lõm ở mặt trên và nổi rõ ở mặt dưới Lá non có màu tím than đặc trưng và chồi lá màu nâu đỏ Tuy nhiên, lá non của cây hiện tại có hiện tượng bị sâu ăn cụt, chủ yếu xảy ra ở một số cây sống gần rìa rừng.
Hình 4.3: Hình thái lá Hoa cây Trà hoa vàng
Hoa Trà hoa vàng có màu vàng tươi, thường mọc ở đầu cành hoặc nách lá, với cuống hoa dài từ 5-8mm và đường kính khoảng 3-4cm khi nở Mỗi bông hoa sở hữu từ 13-16 cánh tràng và có khả năng duy trì vẻ đẹp lâu tàn, kéo dài từ 8-10 ngày Thời gian ra hoa của cây diễn ra từ tháng 10 đến tháng 12.
Hình 4.4: Hình thái hoa và cành mang nụ của cây Trà Hoa Vàng
- Màu hoa và mùa hoa :
Kết quả phỏng vấn người dân địa phương cho thấy cây Trà hoa vàng chủ yếu phân bố tại thôn Khuổi Lùng Qua phỏng vấn, người dân cung cấp thông tin về màu sắc hoa và thời gian nở hoa của cây trà tại khu vực này.
Hình 4.5: Ý kiến của người dân về khả năng bắt gặp màu hoa và mùa hoa của cây Trà hoa vàng
Kết quả phân tích phiếu phỏng vấn cho thấy 75% người dân địa phương đã gặp loài Trà hoa vàng với màu vàng tươi sáng, trong khi 25% còn lại cho biết hoa có màu vàng đậm Người dân thường bắt gặp hoa vào đầu tháng 10 khi hoa vừa nở, trong khi hoa có màu vàng đậm có thể được thấy vào tháng 1 hoặc tháng 2 năm sau Màu sắc của hoa phụ thuộc vào thời điểm hoa nở, sớm hay muộn.
Mùa hoa trà tại địa phương được người dân nhận định là hoa mọc đơn lẻ trên cuống, có màu vàng tươi và cao khoảng 3cm với nhiều nhị Thời điểm hoa bắt đầu nở là từ tháng 6 đến tháng 10, chiếm 65% ý kiến, trong khi 35% còn lại cho rằng mùa hoa kéo dài từ tháng 10 đến tháng 11.
- Qủa cây Trà hoa vàng
Kết quả phỏng vấn người dân địa phương cho thấy cây Trà hoa vàng chủ yếu phân bố tại thôn Khuổi Lùng Bên cạnh đó, phỏng vấn cũng cung cấp thông tin về khả năng bắt gặp màu quả và mùa quả của cây trà trong khu vực này.
Hình 4.6: Ý kiến của người dân về khả năng bắt gặp màu quả và mùa quả của cây Trà hoa vàng
Kết quả phân tích phiếu phỏng vấn cho thấy khả năng nhận diện màu sắc của quả Trà hoa vàng tại địa phương Theo ý kiến người dân, 75% quả trà có màu xanh thẫm (quả non) và nâu đỏ (quả khô), trong khi 25% ghi nhận màu xanh đen (quả non) và màu đen nâu (quả khô) Quả Trà thuộc dạng quả nang, có hình tròn; khi còn non, quả có màu xanh thẫm, khi già khô chuyển sang màu nâu đỏ, và khi chín sẽ nứt.
Mùa quả trà bắt đầu từ tháng 11 hoặc tháng 12, kéo dài đến tháng 12 năm sau, chiếm 80% thời gian tồn tại Phần còn lại, khoảng 20%, cho thấy quả có thể tồn tại từ tháng 10 hoặc tháng 11 đến tháng 10 năm sau Do đó, có thể kết luận rằng quả trà có thể tồn tại lên đến một năm cho đến khi chín và nứt.
4.1.3 Khả năng sinh trưởng của cây Trà hoa vàng
Cây Trà hoa vàng là một loại cây hiếm, có khả năng sinh trưởng kém và thường phân bố rải rác, không tập trung Chiều cao của cây trung bình từ 2 đến 3 mét, với đường kính khoảng 2 đến 3 cm.
Hình 4.7: Ý kiến của người dân về chiều cao và đường kính của cây Trà hoa vàng
Kết quả phân tích phiếu phỏng vấn cho thấy chiều cao của loài Trà hoa vàng tại địa phương chủ yếu nằm trong khoảng 2-3m, chiếm 50% Tiếp theo, chiều cao từ 1-2m và 3-4m đều chiếm 25%.
Tri thức địa phương về cây Trà hoa vàng
Tình hình khai thác, sử dụng và gây trồng :
Mùa thu hái: Người dân chủ yếu thu hái hoa vào tháng 10, tháng 11
Lá già được thu hái hái hầu hết các tháng trong năm
Cách thu hái: Hái hoa hoặc lấy lá già
Công dụng cây trà hoa vàng (trà rừng):
Tất cả các bộ phận của cây trà đều có giát trị sử dụng:
-Cây trà hoa hoa vàng có thể làm một loại cây cảnh
-Cây trà hoa vàng là một vị thuốc quý
+Phòng, điều trị ung thư hiệu quả
+Ngăn ngừa bệnh tim mạch
+Điều trị huyết áp cao (ngừa nguy sơ đột quỵ)
+Hỗ trợ điều trị bệnh tiểu đường
+Tăng cường khả năng giải độc gan
-Lá trà hoa vàng phơi khô nấu nước hoặc hãm trà,uống vào có thể giảm béo, giảm lượng đường trong máu
-Hoa trà vàng ướp trà thơm, hãm trà để uống, làm mỹ phẩm và thực phẩm chức năng
Tại địa phương, cây Trà hoa vàng vẫn chưa được trồng rộng rãi; chỉ có một số hộ dân trong thôn nhận thức được giá trị sử dụng của cây này và đã tiến hành trồng để phục vụ nhu cầu gia đình.
Tại thôn Khuổi Lùng, ba hộ gia đình đã trồng khoảng 30 gốc cây, trong đó gia đình bác Triệu Thanh Bảo nổi bật với việc trồng cây để phục vụ cho việc bốc thuốc chữa bệnh.
Cách thức gây trồng :ươm cây con,đào cả gốc đem trồng
Trồng tại vườn nhà, khả năng phát triển chậm,năng suất thu hoạch thấp.
Đặc điểm về phân bố loài Trà hoa vàng và cấu trúc rừng nơi Trà hoa vàng phân bố
4.3.1 Đặc điểm về phân bố Trà hoa vàng theo loại rừng
Kết quả phỏng vấn người dân địa phương cho thấy cây Trà hoa vàng chủ yếu phân bố ở các thôn Khuổi Lùng, Bản Phè và Bản Mún 1 Hình 4.1 minh họa khả năng bắt gặp loài cây này tại các loại rừng, bao gồm số phiếu phỏng vấn và tỷ lệ phần trăm tương ứng.
Hình 4.9: Ý kiến người dâm về khả năng bắt gặp loài Trà hoa vàng ở các loại rừng
Kết quả phân tích phiếu phỏng vấn cho thấy loài Trà hoa vàng có khả năng xuất hiện tại năm loại rừng, trong đó rừng phục hồi có tỷ lệ cao nhất đạt 33%.
12 rừng phục hồi rừng tự nhiên nghèo rừng hỗn giao tre nứa rừng trung bình rừng giàu rừng rất giàu số phiếu
Rừng tự nhiên nghèo chiếm 27%, trong khi rừng hỗn giao tre nứa có tỷ lệ 20% Rừng trung bình chiếm 13% và rừng giàu chỉ có tỷ lệ thấp 7% Đặc biệt, không có kiến thức nào cho thấy loài Trà hoa vàng xuất hiện trong các khu rừng tự nhiên rất giàu.
4.3.2 Đặc điểm về phân bố Trà hoa vàng theo địa hình
Dựa trên kết quả tham vấn cộng đồng, chúng tôi đã tiến hành điều tra theo tuyến và lựa chọn vị trí để lập ô tiêu chuẩn Đặc điểm phân bố của loài Trà hoa vàng theo địa hình được tổng hợp từ dữ liệu ghi nhận tại các ô tiêu chuẩn thông qua GPS và địa bàn 3 chân (Bảng 4.1).
Bảng 4.1 Đặc điểm địa hình nơi cây Trà hoa vàng phân bố
Ký hiệu OTC Địa điểm Độ cao
Dữ liệu từ bảng 4.1 cho thấy cây Trà hoa vàng có sự phân bố đa dạng ở các độ cao khác nhau, cụ thể từ 230m đến 349m so với mực nước biển.
4.3.3 Các nhân tố điều tra đặc trưng
Trà hoa vàng chủ yếu phân bố ở rừng phục hồi và rừng tự nhiên nghèo, vì vậy luận văn này tập trung thu thập dữ liệu từ hai loại rừng này Việc phân loại rừng được thực hiện dựa trên tiêu chí trữ lượng Các nhân tố điều tra tại các ô tiêu chuẩn được tổng hợp trong bảng 4.2.
Bảng 4.2 Tổng hợp các nhân tố điều tra đặc trưng
Kết quả điều tra tại 6 ô tiêu chuẩn ở thôn Khuổi Lùng cho thấy rừng trong khu vực nghiên cứu chủ yếu là rừng nghèo, với trữ lượng rất thấp chỉ đạt từ 10.01 đến 13.39 m³ Đối với loại rừng nghèo, đường kính trung bình (D1.3) dao động từ 15.23 đến 17.50 cm, chiều cao trung bình (Hvn) đạt từ 6.77 đến 9.71 m, và tiết diện ngang từ 2.30 đến 3.8 m².
Tổ thành rừng là yếu tố sinh thái quan trọng, ảnh hưởng đến các yếu tố và hình thái khác của rừng Nó là chỉ tiêu then chốt để đánh giá tính bền vững, ổn định và đa dạng sinh học trong hệ sinh thái rừng Tổ thành rừng không chỉ định hướng cho hoạt động kinh doanh và khai thác rừng mà còn phản ánh khả năng bảo vệ và cân bằng sinh thái Với sự phức tạp của tổ thành, hệ sinh thái rừng tự nhiên luôn được coi là hệ sinh thái tối ưu nhất cho sản xuất sinh khối.
Tổ thành là tỉ trọng của mỗi loài cây hoặc nhóm loài cây trong lâm phần, được thể hiện qua hệ số tổ thành Công thức tổ thành được sử dụng để tính toán hệ số này cho các loài cây trong khu vực Trà hoa vàng là một loài cây có biên độ sinh thái rộng và thường mọc tự nhiên.
Theo Daniel Marmillod, chỉ những loài cây có IV% > 5% mới có ý nghĩa sinh thái trong lâm phần, điều này là cơ sở quan trọng để xác định loài và nhóm loài Báo cáo này trình bày công thức tổ thành của các loài cây gỗ dựa trên tỉ lệ số cây và tỉ lệ tiết diện ngang (IV%) Kết quả đã tổng hợp công thức tổ thành loài cây gỗ trong các khu rừng nơi loài Trà hoa vàng phân bố, phân theo từng loại rừng.
Kết quả nghiên cứu cấu trúc tổ thành tầng cây gỗ tại 6 OTC ở thôn Khuổi Lùng, xã Mỹ Phương, huyện Ba Bể, tỉnh Bắc Kạn được trình bày chi tiết trong các bảng.
Bảng 4.3: Cấu trúc tổ thành tầng cây gỗ khu vực thôn Khuổi Lùng, xã
Mỹ Phương, huyện Ba Bể
STT Tên loài cây Ai Di RFI IVIi(%)
Từ kết quả thu được ở bảng 4.3 ta có được công thức tổ thành tầng cây gỗ như sau:
Công thức tổ thành tầng cây gỗ tại thôn Khuổi Lùng, xã Mỹ Phương 10.58Mo + 7.98Nh + 7.25Bua + 7.15Sui + 7.0Sau + 5.88Bđ + 5.3 Ph + 48.88 LK
Trong đó: Mo là mỡ, Nh là nhội, Bua là bứa, Sui là sui, Sau là sấu, Bđ là Bồ đề, Ph là phay, LK là loài khác
Tổ thành tầng cây gỗ tại thôn Nà Tông, nơi có sự phân bố của Trà hoa vàng, thể hiện sự đa dạng về loài Trong đó, loài Mỡ nổi bật và chiếm ưu thế trong tổng số các loài cây tại khu vực này.
Trong lâm phần, có 23 loài cây chiếm tỷ lệ 10.58%, tiếp theo là Nhội và Bứa với tỷ lệ tổ thành lần lượt là 7.98% và 7.25% Các loài Sui, Sấu, Bồ đề và Phay cũng đóng vai trò quan trọng về mặt sinh thái.
4.3.4 Đặc trưng về chiều cao lâm phần Ðặc trưng chiều cao của lâm phần là sự sắp xếp không gian phân bố của các thành phần sinh vật rừng theo chiều thẳng đứng, cả trên mặt đất và dưới mặt đất Ðể mô tả đặc trưng chiều cao của lâm phần nơi có Trà hoa vàng phân bố phần trên mặt đất đề tài đã phân tích và xử lý số liệu về chiều cao (Bảng 4.4)
Bảng 4.4: Chiều cao lâm phần và Loài Trà hoa vàng
Toàn lâm phần Loài Trà hoa vàng Hmax
Dữ liệu từ bảng 4.4 cho thấy chiều cao bình quân của loài trà hoa vàng chỉ đạt từ 1.38 – 2.14 m, thấp hơn đáng kể so với chiều cao bình quân của toàn lâm phần, nằm trong khoảng 6.77 – 9.71 m Điều này chỉ ra rằng trong các khu rừng phục hồi và rừng tự nhiên nghèo, trà hoa vàng thường phát triển ở tầng cây bụi, đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái rừng.
4.3.5 Đặc trưng về mật độ
Đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát triển loài
* Giải pháp về chính sách
Để nâng cao ý thức người dân về việc trồng, khai thác và sử dụng Trà hoa vàng, cần triển khai các giải pháp đồng bộ, bao gồm đầu tư nghiên cứu giá trị sử dụng, quy hoạch trồng và khai thác, chế biến, sử dụng và bảo tồn nguồn gen Điều này sẽ góp phần tạo dựng thương hiệu Trà hoa vàng Việt Nam.
Tăng cường hợp tác quốc tế trong việc bảo tồn đa dạng sinh học là cần thiết Cần khuyến khích các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước đầu tư vào công tác bảo tồn tài nguyên rừng, đặc biệt là các loài Trà hoa vàng.
Để bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên, Nhà nước cần tập trung vào việc ban hành các chính sách khuyến khích sự tham gia của các nhà khoa học, doanh nghiệp và cộng đồng dân cư.
Nâng cao nhận thức của cộng đồng và chính quyền địa phương về việc bảo vệ đa dạng sinh học là rất quan trọng, đặc biệt trong việc bảo tồn và phát triển cây Trà hoa vàng Việc giáo dục và tuyên truyền sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về giá trị của cây Trà hoa vàng và tầm quan trọng của việc bảo vệ môi trường sống tự nhiên.
Tổ chức các lớp tập huấn và hướng dẫn về chế biến, bảo quản hoa Trà hoa vàng nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, thay vì chỉ thu hái và bán cho thương lái.
* Nhóm các giải pháp về kỹ thuật
Cần thực hiện ngay việc bảo tồn in situ các nguồn gen quý, đồng thời triển khai bảo tồn ex situ thông qua nhân giống và trồng trong các vườn tập hợp hoặc mô hình thử nghiệm Những biện pháp này không chỉ bảo vệ các loài mà còn cung cấp nguồn vật liệu cho việc phát triển giống trong tương lai Nếu không hành động kịp thời, các loài này có nguy cơ bị mất mát trong thời gian tới.
Hướng dẫn người dân cách tạo giống trà hoa vàng bằng phương pháp giâm hom tại địa phương, bao gồm quy trình trồng và chăm sóc cây, cũng như xử lý thực bì ở những khu vực có trà hoa vàng phân bố.
Tiến hành điều tra để đánh giá hiện trạng các loài Trà hoa vàng trên địa bàn, thu thập và nghiên cứu thông tin về đặc điểm sinh thái học của các loài chủ yếu và các loài Trà hoa vàng quý giá Cần làm rõ loại hình rừng, sinh cảnh và điều kiện sống của các loài này, đồng thời lựa chọn các biện pháp kỹ thuật phù hợp để hỗ trợ sự phát triển của Trà hoa vàng.
Để khẳng định tính hiệu quả của nhân giống vô tính bằng phương pháp giâm hom, cần bổ sung các đề tài mới nhằm điều tra và nghiên cứu một cách toàn diện hơn Việc này sẽ giúp xác định rõ ràng hơn về quy trình nhân giống đại trà.