TỔNG QUAN
ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 VÀ TỔN THƯƠNG THẬN DO ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2
1.1.1 Đái tháo đường type 2 1.1.1.1 Tổng quan về đái tháo đường type 2
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), bệnh tiểu đường (ĐTĐ) là một bệnh lý mạn tính do thiếu hụt sản xuất insulin hoặc do hoạt động không hiệu quả của insulin, dẫn đến tăng nồng độ glucose trong máu và gây tổn thương cho các hệ thống cơ thể, đặc biệt là hệ mạch máu và thần kinh Hiệp hội ĐTĐ Hoa Kỳ (ADA) định nghĩa ĐTĐ là nhóm bệnh chuyển hóa với đặc trưng là tăng đường huyết do thiếu hụt trong tiết insulin hoặc hoạt động của insulin ĐTĐ được chia thành bốn loại chính: type 1, type 2, ĐTĐ thai kỳ và ĐTĐ do nguyên nhân khác, trong đó type 1 và type 2 có triệu chứng và cơ chế bệnh sinh khác nhau ĐTĐ type 1 là tình trạng thiếu hụt insulin do tụy, trong khi ĐTĐ type 2 liên quan đến giảm đáp ứng insulin ban đầu và thường được chẩn đoán muộn, chiếm 90-95% tổng số ca ĐTĐ Tính đến tháng 1 năm 2018, khoảng 425 triệu người trên toàn thế giới mắc ĐTĐ, với tỷ lệ mắc ĐTĐ type 2 ở Mỹ là 8,5%.
2012, có khoảng 5,4% dân số mắc ĐTĐ, 13,7% trong tình trạng tiền ĐTĐ [8]
Báo cáo năm 2013 của Phạm Ngọc Minh cho thấy trên 16.282 đối tượng người dân miền Bắc Việt Nam từ 30 đến 69 tuổi, tỷ lệ mắc bệnh là 6% và 13,5% Đến cuối năm 2017, tổng số người mắc bệnh tại Việt Nam ước tính khoảng 3,54 triệu người.
Tỷ lệ mắc đái tháo đường (ĐTĐ) tại Việt Nam hiện đạt 5,5% dân số, cho thấy xu hướng gia tăng tỷ lệ mắc mới của căn bệnh này đang diễn ra không chỉ ở Việt Nam mà còn trên toàn thế giới Sự phát triển kinh tế cùng với chế độ ăn uống nhiều tinh bột là những yếu tố chính dẫn đến tình trạng gia tăng ĐTĐ tại Việt Nam Điều này tạo ra nhiều thách thức cho hệ thống y tế và kinh tế, đặc biệt đối với các quốc gia có thu nhập thấp như Việt Nam.
Các yếu tố liên quan tới tăng đường máu trong ĐTĐ type 2
Hiện nay, có 8 bất thường sinh lý bệnh riêng biệt liên quan đến sự hình thành bệnh tiểu đường type 2, được trình bày rõ ràng trong biểu đồ 1.1.
Biểu đồ 1.1 Các yếu tố liên quan tới tăng đường máu trong ĐTĐ type 2 [56]
Kháng insulin đặc trưng bởi giảm hấp thu glucose ngoại vi, chủ yếu ở cơ, kết hợp với tăng sản xuất glucose Tình trạng này dẫn đến tăng ly giải mỡ và axit béo tự do, làm gia tăng glucose máu và suy giảm chức năng tế bào beta của tụy Ban đầu, mức tiết insulin được bù đắp bởi sự tăng cường hoạt động của tế bào beta, nhưng chức năng này dần suy giảm theo thời gian Đồng thời, glucagon được giải phóng không phù hợp từ tế bào alpha của tụy, đặc biệt sau bữa ăn, góp phần vào khiếm khuyết increatin, tức là giảm giải phóng hoặc phản ứng kém đối với hormone increatin đường ruột Ngoài ra, kháng insulin vùng dưới đồi cũng làm giảm khả năng lưu thông của glucose.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU highlights the role of insulin in inhibiting glucose production and promoting glucose reabsorption in the kidneys A thorough understanding of these mechanisms is essential for selecting effective treatment methods for patients with Type 2 diabetes.
1.1.1.2 Các biến chứng của đái tháo đường type 2
Theo số liệu năm 2015, bệnh tiểu đường (ĐTĐ) đã gây ra gần 5 triệu ca tử vong trên toàn thế giới, trong khi ngân sách y tế dành cho bệnh này và các biến chứng của nó lên tới 12% Biến chứng của ĐTĐ type 2 được chia thành hai nhóm chính: biến chứng cấp tính và biến chứng mạn tính.
Hạ đường huyết và tăng áp lực thẩm thấu máu là hai biến chứng cấp tính thường gặp ở bệnh nhân ĐTĐ type 2, chủ yếu liên quan đến quá trình điều trị Hạ đường huyết xảy ra khi nồng độ glucose trong máu giảm quá thấp, với triệu chứng như nhịp tim nhanh, đổ mồ hôi, da nhợt, bồn chồn lo lắng, đau đầu, và có thể dẫn đến hôn mê nếu không được điều trị kịp thời Tình trạng này thường gặp ở bệnh nhân sử dụng insulin hoặc thuốc kích thích tiết insulin, đặc biệt khi họ ăn ít hơn hoặc hoạt động thể lực quá mức Ngược lại, tăng áp lực thẩm thấu máu là tình trạng nồng độ glucose trong máu tăng cao, dẫn đến mất cân bằng áp lực và các triệu chứng mất nước Biến chứng này hiếm gặp, thường xảy ra ở bệnh nhân kiểm soát đường máu kém, đặc biệt là người già hoặc những người có nhận thức hạn chế.
Biến chứng mạn tính của bệnh tiểu đường type 2 được chia thành hai loại chính: biến chứng mạch máu lớn và mạch máu nhỏ Biến chứng mạch máu nhỏ bao gồm bệnh lý thần kinh, thận và võng mạc, trong khi biến chứng mạch máu lớn liên quan đến bệnh tim mạch, đột quỵ và bệnh động mạch ngoại biên Biến chứng thần kinh thường dẫn đến loét bàn chân do các vấn đề về thần kinh, động mạch ngoại biên và nhiễm trùng Tỉ lệ mắc biến chứng mạch máu nhỏ cao hơn so với mạch máu lớn, điều này đã khiến nghiên cứu của chúng tôi tập trung vào biến chứng thận ở bệnh nhân tiểu đường.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
1.1.2 Tổn thương thận do đái tháo đường type 2
Bệnh thận ĐTĐ là tình trạng có protein liên tục trong nước tiểu, với mức protein lớn hơn 500 mg hoặc hơn 300 mg albumin trong mẫu nước tiểu 24 giờ, ở bệnh nhân không bị nhiễm trùng đường tiểu hoặc các bệnh lý khác gây ra protein niệu Đối với bệnh nhân ĐTĐ type 2, protein niệu có thể xuất hiện ngay tại thời điểm chẩn đoán Tỉ lệ mắc mới của bệnh thận ĐTĐ type 2 thường thấp trong giai đoạn đầu.
Trong 15 năm đầu, tỷ lệ biến chứng thận ở bệnh nhân tiểu đường tăng nhanh vào năm thứ 18 rồi giảm dần, với tỷ lệ mắc biến chứng thận khoảng 20-40% tùy theo nghiên cứu Đây là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến bệnh thận mạn giai đoạn cuối, chiếm tới 44% các ca mới theo CDC vào năm 2002, trong đó khoảng 153.730 người đã được ghép thận hoặc điều trị bằng lọc thận dài kỳ Tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh thận do tiểu đường dao động từ 27,6% đến 39,6% trong số bệnh nhân tiểu đường, và tỷ lệ này tiếp tục gia tăng song song với tỷ lệ mắc mới của tiểu đường toàn cầu Bệnh nhân tiểu đường type 2 có biến chứng thận cũng có nguy cơ cao phát triển các biến chứng khác, bao gồm biến chứng thận – võng mạc, và tăng nguy cơ mắc các bệnh lý mạch vành, đột quỵ so với nhóm không có bệnh thận.
1.1.2.1 Sinh lý bệnh của tổn thương thận do đái tháo đường
Cơ chế tổn thương thận trong ĐTĐ type 2 là đa yếu tố, bắt nguồn từ tăng đường máu, dẫn đến thay đổi cấu trúc và chức năng của bộ máy lọc thận, bao gồm siêu lọc cầu thận, phì đại biểu mô cầu thận và ống thận, cùng với sự xuất hiện microalbumin niệu Tiếp theo là dày màng lọc cầu thận, tích tụ chất nền mesangial, dẫn đến protein niệu, xơ hóa cầu thận và bệnh thận giai đoạn cuối Sinh lý bệnh tổn thương thận liên quan đến cơ chế chuyển hóa, huyết động, và gần đây có bằng chứng cho thấy cơ chế di truyền cũng đóng vai trò quan trọng.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Biểu đồ 1.2: Cơ chế tổn thương thận ĐTĐ [61]
PKC - protein kinase C, A II – Angiotensin II, P38-MAPK – P38-mitogen actived protein kinase, TGF- ò1 - Transforming growth factor ò1), MIP-1 – macrophage-inhibitor protein 1, VEGF - vascular endothelial growth factor
Quá trình vận chuyển glucose của tế bào mesangial, phụ thuộc vào protein GLUT1, đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa nhập glucose vào tế bào GLUT1 ảnh hưởng đến sự mở rộng và sản xuất chất nền của tế bào mesangial, cũng như quá trình tự chết tế bào và sự thay đổi cấu trúc Sự biểu hiện quá mức của GLUT1 có thể dẫn đến những thay đổi tương tự, ngay cả khi nồng độ glucose ở mức bình thường.
Quá trình glycosyl hóa không enzym dẫn đến sự hình thành các sản phẩm chuyển hóa gọi là AGEs (advanced glycosylation end products), cùng với sự kích hoạt protein kinase C (PKC) và tăng cường con đường polyol Những thay đổi huyết động này kích hoạt các chất trung gian như yếu tố phát triển nội mạc mạch máu (VEGF), yếu tố phát triển chuyển dạng TGF-β1, và các interleukin như IL-1, IL-6, IL-18, cũng như yếu tố hoại tử u (TNF-α) Tất cả các yếu tố này tương tác với nhau, góp phần vào sự gia tăng tính thấm của màng tế bào.
Albumin passes through the glomerular filtration barrier and accumulates in the extracellular matrix, resulting in increased proteinuria, glomerulosclerosis, and tubulointerstitial fibrosis.
Nồng độ cystatin C huyết thanh để đánh giá tổn thương thận ở bệnh nhân ĐTĐ type 2
Vào năm 1985, Simonsen đã chỉ ra rằng nồng độ cystatin C có mối liên hệ với mức lọc cầu thận Tên gọi Cystatin được chính thức sử dụng từ năm 1981, do Barrett, một nhà khoa học nghiên cứu các chất ức chế cystein proteinase, đặt ra Tuy nhiên, Clausen mới là người phát hiện cystatin C trong dịch não tủy vào năm 1961 khi ông điện di và phát hiện một “vết gamma” lạ, cùng thời điểm với Flynn và Butler khi họ tìm thấy chất này trong nước tiểu.
Cystatin C là một protein có trọng lượng phân tử thấp, khoảng 13.359 kDa, bao gồm 120 acid amin Protein này tồn tại dưới dạng monomer và có khả năng cuộn xoắn thành dimer, bao gồm hai phân tử.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Hình 1.1 : Cấu trúc không gian của cystatin C (A) mô hình cuộn xoắn dạng monomer của cystatin C (B) Mô hình cuộn xoắn 3D dimer [76]
Cystatin C có chức năng sinh lý quan trọng trong việc điều hòa các proteinase nội sinh do lysosome của tế bào chết hoặc bị bệnh tiết ra Ngoài ra, cystatin C còn đóng vai trò trong việc bảo vệ cơ thể chống lại sự xâm nhập của vi khuẩn và sự nhân lên của virus.
Cystatin C là một protein quan trọng được mã hóa bởi gene CST3, có cấu trúc gồm 3 exon và 2 intron với tổng chiều dài khoảng 4,3Kb Gene CST3 có những đặc điểm tương tự như các gene "giữ nhà" (housekeeping gene), bao gồm việc không có hộp CAAT, sự hiện diện của vùng đa GGGCGG và đoạn giàu AT trong vùng điều hòa phiên mã.
Trong thí nghiệm nghiên cứu trên chuột, protein gắn iodine cho thấy độ thanh thải của cystatin C đạt khoảng 94%, với mức giải phóng ở thận dưới 0,34 ml/phút, cho thấy cystatin C gần như hoàn toàn bị loại bỏ qua bộ lọc tiểu cầu thận Cystatin C cũng được chuyển hóa bởi papain protease và elastase bạch cầu trung tính, tạo ra các đoạn peptid nhỏ hơn hoặc acid amin Nếu không có tổn thương ống thận, cystatin C sẽ không rò rỉ từ mạch máu vào ống thận Những đặc điểm này làm cho cystatin C trở thành chỉ số ưu việt hơn creatinin trong việc đánh giá mức lọc cầu thận.
Nồng độ cystatin C ít bị ảnh hưởng bởi giới tính và độ tuổi, tuy nhiên, các nghiên cứu khác nhau có thể sử dụng các kỹ thuật định lượng khác nhau, dẫn đến sự khác biệt trong dải nồng độ cystatin C Dù vậy, trong cùng một nghiên cứu, không có sự khác biệt về nồng độ cystatin C giữa các độ tuổi.
Nồng độ cystatin C huyết thanh ở người trưởng thành khỏe mạnh dao động từ 0,5-1,2 mg/L, không có sự khác biệt đáng kể giữa nam và nữ.
1.2.2 Cystatin C trong vai trò là chất chỉ điểm tổn thương thận ĐTĐ
Cystatin C là một protein được sản xuất liên tục bởi tất cả các tế bào có nhân và được lọc qua cầu thận một cách tự do Tương tự như các protein có trọng lượng phân tử thấp khác, cystatin C sẽ được tái hấp thu và chuyển hóa tại ống lượn gần Các ống lượn này không bài xuất thêm cystatin C, chỉ có một lượng rất nhỏ được bài tiết ra ngoài thận.
Nồng độ cystatin C trong máu chủ yếu phụ thuộc vào mức lọc cầu thận và không bị ảnh hưởng bởi chế độ ăn uống, tình trạng dinh dưỡng, viêm nhiễm hay các bệnh lý ác tính Tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng cường giáp không điều trị có thể làm tăng nhẹ nồng độ cystatin C, trong khi suy giáp lại làm giảm nồng độ này Ngoài ra, việc sử dụng glucocorticoid liều cao có thể dẫn đến tăng nồng độ cystatin C sau ghép gan Các nghiên cứu dịch tễ học cũng cho thấy mối liên hệ giữa nồng độ cystatin C cao và gia tăng nguy cơ biến cố tim mạch, cả về tỉ lệ mắc và tỉ lệ tử vong, gợi ý rằng cystatin C có thể đóng vai trò bảo vệ trong tình trạng xơ vữa mạch.
Cystatin C có ưu điểm trong việc phát hiện bệnh thận mạn tính mà không cần điều chỉnh theo tuổi và các yếu tố nhân trắc học Nhiều nhóm nghiên cứu đã xây dựng các phương trình ước tính mức lọc cầu thận từ cystatin C huyết thanh, áp dụng các phương pháp tương tự như đối với creatinin Các công thức tính mức lọc cầu thận dựa trên cystatin C trong các nghiên cứu được trình bày trong bảng 1.4.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bảng 1.4: Các phương trình tính mức lọc cầu thận bằng cystatin C [62]
Tiêu chuẩn vàng xác định MLCT
MLCT= (78/cystatin C) + 4 PENIA 51 Cr-EDTA Người được ghép thận (n%) MLCT= (87,1/cystatin C) – 6,87 PETIA Iohexol Người lớn
MLCT= 77,239×cystatin C -1,2623 PENIA Iohexol Người lớn
(n0) MLCT= 99,434×cystatin C -1,5837 PETIA Iohexol Người lớn
(nE1) MLCT= (86,7/cystatin C) - 4,2 PENIA 99 -Tc-DTPA ĐTĐ (n%1) MLCT= 66,8 ×cystatin C -1.30
Người được ghép thận (n3) MLCT= (162/cystatin C) - 30 PETIA Inulin Bệnh thận mạn
PENIA 99 -Tc-DTPA Bệnh thận mạn
(nS6) MLCT= 87,62 × cystatin C -1,693 ×1,376 (nếu nhỏ hơn 14 tuổi) × 0,94 (nếu là nữ)
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Khác với phương trình MDRD được xây dựng từ dữ liệu của 1628 bệnh nhân trong nghiên cứu đa trung tâm, phương trình dựa trên cystatin C được phát triển từ các mẫu nhỏ hơn trong các nghiên cứu đơn trung tâm với các tiêu chuẩn vàng khác nhau Cả hai phương trình đều sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính giữa nghịch đảo của cystatin C hoặc giá trị log cystatin C và mức lọc cầu thận theo tiêu chuẩn vàng Mặc dù các phương trình này có thể được chấp nhận, nhưng vẫn chưa đủ chắc chắn để bao quát tất cả các biến đổi Hiện tại, dữ liệu có sẵn vẫn còn quá sơ bộ để xác định một phương trình ưu việt hơn các phương trình khác.
Các phương trình này đều cần phải được đánh giá lại trong các quần thể da dạng hơn ở các nghiên cứu đa trung tâm
Dù vậy, với các nghiên cứu hiện nay, cystatin C đã được chứng minh là một marker hữu ích cho việc phát hiện tổn thương thận sớm ở bệnh nhân ĐTĐ
Nghiên cứu của Y.K.Jeon (2011) trên 322 bệnh nhân ĐTĐ type 2 cho thấy sự gia tăng nồng độ cystatin C trong huyết thanh và nước tiểu tương ứng với mức độ tăng protein niệu Đặc biệt, ở nhóm bệnh nhân có albumin niệu bình thường, cystatin C huyết thanh được xác định là yếu tố độc lập liên quan đến mức lọc cầu thận ước tính dưới 60 mL/phút/1,73m² theo công thức MDRD Kết luận của nghiên cứu chỉ ra rằng cystatin huyết thanh có thể là một marker hữu ích trong việc đánh giá suy chức năng thận ở bệnh nhân ĐTĐ type 2.
2 có albumin niệu bình thường [21] So sánh với creatinin huyết thanh, cystatin
C được cho là tốt hơn trong phát hiện bệnh thận ĐTĐ ở mức độ nhẹ, tuy nhiên, ở mức độ nặng, creatinin huyết thanh có giá trị ngang bằng với cystatin C [47]
Nghiên cứu tổng hợp của Amanda V.C năm 2019 trên tạp chí Nature cho thấy các công thức tính mức lọc cầu thận dựa trên cystatin C mang lại kết quả tốt nhất cho bệnh nhân tiểu đường, với sự dao động tương đối giữa các công thức KDIGO cũng khuyến cáo xem xét cystatin C cùng với creatinin khi lựa chọn các marker đánh giá chức năng thận.
1.2.3 Một số nghiên cứu về cystatin C huyết thanh trong đánh giá tổn thương thận
Nghiên cứu về nồng độ cystatin C ở các nhóm đối tượng
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Nghiên cứu tiến cứu của tác giả Nguyễn Hồng Hà (2012) thực hiện trên
Nghiên cứu trên 130 bệnh nhân có bệnh lý cầu thận tại bệnh viện Chợ Rẫy từ tháng 12/2009 đến tháng 8/2010 cho thấy nồng độ cystatin C huyết thanh không khác biệt giữa nam và nữ, với nồng độ trung bình ở nam là 3,54 ± 1,54 mg/L và ở nữ là 2,93 ± 1,71 mg/L (p>0,25) Khi mức lọc cầu thận giảm xuống dưới 90 ml/phút/1,73 m², nồng độ cystatin C huyết thanh bắt đầu tăng có ý nghĩa thống kê và gia tăng mạnh hơn so với creatinin huyết thanh Diện tích dưới đường cong ROC của cystatin C cao hơn creatinin, cho thấy khả năng phát hiện sớm suy giảm mức lọc cầu thận của cystatin C Tương tự, nghiên cứu của Bùi Tuấn Anh (2012) tại bệnh viện Bạch Mai cũng chỉ ra rằng nồng độ cystatin C không có sự khác biệt đáng kể giữa hai giới ở cả nhóm khỏe mạnh và nhóm bệnh nhân.
Nghiên cứu của Đặng Anh Đào (2017) cùng các cộng sự trên 77 đối tượng không mắc bệnh tiểu đường và 70 bệnh nhân tiểu đường type 2 cho thấy nồng độ cystatin C ở nhóm bệnh nhân tiểu đường (1,45 ± 0,97 mg/L) cao hơn đáng kể so với nhóm chứng (0,97 ± 0,23 mg/L) với p < 0,001 Điều này cho thấy nồng độ cystatin C có xu hướng tăng dần theo mức độ albumin niệu.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành trên bệnh nhân tiểu đường type 2 điều trị nội trú tại Bệnh viện Bạch Mai trong giai đoạn 2018 - 2019, đảm bảo tuân thủ các tiêu chí lựa chọn và loại trừ.
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân trong nhóm bệnh bao gồm những người được chẩn đoán mắc bệnh đái tháo đường type 2, không phân biệt giới tính Đặc biệt, bệnh nhân cần phải có ít nhất một trong ba yếu tố xác định tổn thương thận để được đưa vào nhóm nghiên cứu.
Mức lọc cầu thận ước tính < 60mL/phút (ước lượng dựa vào creatinin)
Chỉ số ACR của xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu bất thường
Chỉ số protein niệu của xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu bất thường
Phân loại trong nhóm bệnh:
- Bệnh nhân có mức lọc cầu thận < 60mL/phút (ước lượng dựa vào creatinin) xếp vào nhóm “suy thận mạn tính”
- Bệnh nhân có protein dương tính trong xét nghiệm tổng phân tích xếp vào nhóm “protein niệu”
- Bệnh nhân có chỉ số ACR ≥ 17 và ≥ 33,9 xếp vào nhóm “ACR”
Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân nhóm chứng bao gồm những đối tượng được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường type 2, không phân biệt giới tính Bệnh nhân cần phải xác định không có tổn thương thận, với mức lọc cầu thận đạt ≥ 60mL/phút (ước tính dựa trên creatinin), chỉ số A/C bình thường và kết quả protein trong xét nghiệm tổng phân tích nước tiểu cũng phải trong giới hạn bình thường.
Loại trừ bệnh nhân đáp ứng ít nhất một trong các tiêu chuẩn sau:
ĐTĐ type 1, ĐTĐ thai kì, ĐTĐ thứ phát
Bệnh nhân có sỏi tiết niệu hoặc viêm thận bể thận mạn
Sử dụng corticoid trong vòng một tháng trước thời điểm nghiên cứu
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Mắc các bệnh lý nội tiết kèm theo: bệnh tuyến giáp, u tủy thượng thận, bệnh tuyến yên
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.2.1 Thiết kế nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang, lấy mẫu thuận tiện
2.2.2 Các biến số, chỉ số trong nghiên cứu
Thông tin của đối tượng nghiên cứu o Tuổi, giới tính, địa chỉ, lý do vào viện, tiền sử phát hiện bệnh ĐTĐ type
Khi thăm khám bệnh nhân, cần xem xét tiền sử các bệnh lý mắc kèm và thực hiện các phát hiện lâm sàng liên quan đến các cơ quan và toàn thân Các xét nghiệm cần thiết bao gồm tổng phân tích nước tiểu, định lượng nồng độ glucose trong huyết thanh, ure huyết thanh, creatinin huyết thanh và HbA1c huyết thanh Ngoài ra, việc áp dụng các công thức, tiêu chuẩn và phân loại trong nghiên cứu cũng rất quan trọng để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong quá trình chẩn đoán và điều trị.
Tiêu chuẩn chẩn đoán ĐTĐ (Hướng dẫn của Hiệp hội ĐTĐ Mỹ 2019)
Chẩn đoán bệnh tiểu đường (ĐTĐ) được thực hiện khi nồng độ glucose tĩnh mạch khi đói đạt ≥ 126 mg (7 mmol/L) sau ít nhất 8 giờ không ăn uống Ngoài ra, nếu glucose tĩnh mạch 2 giờ sau nghiệm pháp dung nạp đường huyết ≥ 200 mg/dL (11,1 mmol/L) thì cũng có thể chẩn đoán ĐTĐ, theo hướng dẫn của WHO Một chỉ số khác là giá trị HbA1c ≥ 6,5% (48 mmol/mol), cần được thực hiện tại phòng thí nghiệm với phương pháp được công nhận bởi NGSP và chuẩn hóa theo DCCT Cuối cùng, nếu bệnh nhân có các triệu chứng của tăng đường máu kèm theo kết quả glucose huyết tương ngẫu nhiên ≥ 200 mg/dL (11,1 mmol/L), cũng có thể xác định bệnh tiểu đường.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Tiêu chuẩn chẩn đoán biến chứng thận (Hướng dẫn của Hội đồng Thận học quốc gia Mỹ 2013): như trình bày mục 1.1.2.2 trên
Chẩn đoán tăng huyết áp được thực hiện thông qua việc đo huyết áp chính xác tại phòng khám, kết hợp với việc khai thác tiền sử cá nhân và gia đình, khám thực thể và thực hiện các xét nghiệm cần thiết Tăng huyết áp được phân độ theo các bảng tiêu chuẩn để xác định mức độ nghiêm trọng của tình trạng.
Bảng 2.1: Định nghĩa và phân loại tăng huyết áp theo huyết áp đo tại phòng khám[10]
Bình thường 120 - 129 Và/ hoặc 80 – 84 Bình thường cao 130 – 139 Và/ hoặc 85 – 89 Độ 1 140 – 159 Và/ hoặc 90 – 99 Độ 2 160 – 179 Và/ hoặc 100 – 109 Độ 3 ≥ 180 Và/ hoặc ≥ 110
Tâm thu đơn độc ≥ 140 Và < 90
The diagnostic criteria for dyslipidemia require meeting at least one of the following conditions: total cholesterol levels equal to or greater than 5.2 mmol/L, low-density lipoprotein cholesterol (LDL-C) levels equal to or greater than 3.4 mmol/L, high-density lipoprotein cholesterol (HDL-C) levels below 1.0 mmol/L for men or below 1.3 mmol/L for women, triglyceride levels equal to or greater than 1.7 mmol/L, and/or a history of dyslipidemia.
Công thức ước tính mức lọc cầu thận o Dựa vào creatinin: công thức MDRD (Modification of Diet in Renal Disease)
MLCT cre = 186,3 × creatinin -1,154 (mg/dL) × tuổi -0,203 × 0,742 (nếu là nữ) o Dựa vào Cystatin C: công thức xây dựng bởi CKD-EPI Với cystatin C > 0,8 mg/L:
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
MLCT cys = 133 × (cystatin C/0,8) -1,328 × 0,996 tuổi × 0,932 (nếu là nữ)
MLCT cys = 133 × (cystatin C/0,8) -0,499 × 0,996 tuổi × 0,932 (nếu là nữ)
Các kỹ thuật xét nghiệm quan trọng bao gồm: định lượng Glucose theo phương pháp hexokinase, định lượng Creatinin trong mẫu máu bệnh nhân sử dụng phương pháp động học hai điểm trên máy AU 5800 và ARCHITECT i2000SR, và định lượng triglycerid, HDL-C, LDL-C, cholesterol toàn phần bằng phương pháp so màu enzym Ngoài ra, định lượng HbA1c được thực hiện bằng phương pháp miễn dịch đo độ đục, trong khi định lượng cystatin C cũng sử dụng phương pháp miễn dịch đo độ đục (PETIA) trên máy Architect C8000 Cuối cùng, các thông số hóa sinh nước tiểu được định tính bán định lượng bằng thanh giấy thử và kỹ thuật đo phản quang trên máy phân tích nước tiểu Cliniteck Novus.
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 06 năm 2018 đến tháng 01 năm 2019
Khoa Hóa sinh, khoa Nội tiết và ĐTĐ, Bệnh viện Bạch Mai
Quản lý số liệu bằng phần mềm Microsoft Office Excel 2016
Số liệu được xử lý theo thuật toán thống kê, sử dụng phần mềm SPSS 20.0
Các đồ thị được vẽ tự động bằng phần mềm SPSS và Excel
Các thuật toán thống kê sử dụng trong nghiên cứu
- Kiểm định phân phối chuẩn bằng kiểm định Kolmogorov-Smirnov (mẫu >
- Biến liên tục: xác định giá trị trung bình ( X ), độ lệch chuẩn (SD ) với độ tin cậy 95%
- So sánh 2 hay nhiều tỉ lệ bằng test χ 2
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
- So sánh giá trị trung bình của 2 nhóm phân phối chuẩn bằng test t không ghép cặp
- So sánh giá trị trung bình nhiều hơn 2 nhóm phân phối chuẩn bằng test ANOVA
- So sánh giá trị trung bình 2 nhóm phân phối không chuẩn bằng test Mann-Whitney U
- So sánh giá trị trung bình nhiều hơn 2 nhóm phân phối không chuẩn bằng test Kruskal-Wallis
Tính hệ số tương quan
│r│ ≥ 0,7 tương quan rất chặt chẽ
0,5 > │r│ ≥ 0,3 tương quan vừa │r│ < 0,3 ít tương quan
Trong phân tích thống kê, nếu p < 0,05, điều này cho thấy mối tương quan giữa các biến là có ý nghĩa, trong khi p ≥ 0,05 cho thấy mối tương quan không có ý nghĩa Để xác định đường thẳng hồi quy, ta sử dụng phương pháp hồi quy tuyến tính với công thức y = ax + b, trong đó y là biến phụ thuộc, x là biến độc lập, còn a và b là các hệ số hồi quy.
VẤN ĐỀ ĐẠO ĐỨC Y HỌC TRONG NGHIÊN CỨU
Tất cả thông tin thu thập được đều được bảo mật và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu Bệnh nhân sẽ không bị gián đoạn trong quá trình điều trị Các xét nghiệm cystatin C huyết thanh sẽ được nhóm nghiên cứu chi trả.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Lựa chọn bệnh nhân (phù hợp tiêu chuẩn lựa chọn)
SƠ ĐỒ NGHIÊN CỨU
Hỏi bệnh Khám lâm sàng
Lấy mẫu xét nghiệm hóa sinh
Thông tin hành chính Triệu chứng lâm sàng
Glucose, creatinin, HbA1c, cystatin C, lipid
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
3.1.1 Đặc điểm tuổi, giới đối tượng nghiên cứu
Biểu đồ 3.1 Số lượng đối tượng nghiên cứu theo từng nhóm
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 45 bệnh nhân nam (57,0%) và 34 bệnh nhân nữ (43%), với tỉ lệ nam/nữ là 1,3/1 Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Hoàng Thị Ngọc Bích tại Bệnh viện Trung ương Huế năm 2016, nhưng khác với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Minh năm 2011 ở Thái Nguyên, nơi tỉ lệ nam/nữ là 0,82/1 Sự khác biệt này có thể do độ tuổi và vùng địa lý của hai nhóm nghiên cứu.
Giới tính là một yếu tố nguy cơ quan trọng đối với bệnh tiểu đường typ 2 và có ảnh hưởng đến sự hình thành cũng như tiến triển của bệnh thận do tiểu đường Theo số liệu từ USRDS và CDC năm 2016, tỷ lệ bệnh thận mạn giai đoạn cuối ở nam giới da trắng mắc tiểu đường cao hơn so với nữ giới, trong khi ở cộng đồng người da đen, tình hình lại diễn ra ngược lại.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nam giới bị tổn thương thận cao hơn nữ giới, với sự khác biệt rõ rệt về mức độ tổn thương giữa hai giới Điều này củng cố quan điểm rằng giới tính nam là yếu tố nguy cơ chính cho sự tiến triển của tổn thương thận so với nữ giới.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bảng 3.1 So sánh tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu, đối tượng mắc ĐTĐ type 2 có tuổi trung bình là 61,04 ± 14,69, trong đó nhóm có tổn thương thận có tuổi trung bình cao hơn (64,30 ± 14,12) so với nhóm chứng (55,41 ± 14,12), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,010) Độ tuổi trung bình của các đối tượng tương đồng với các nghiên cứu trước đó của Nguyễn Anh Dũng (56,3 tuổi) và Hoàng Thị Bích Ngọc (67 tuổi) Đặc biệt, estrogen ở nữ giới đã được chứng minh có tác dụng bảo vệ hệ mạch máu, giúp ngăn chặn tổn thương mạch trong diễn biến của ĐTĐ.
Tuổi trung bình của nữ giới trong nghiên cứu không khác biệt đáng kể so với nam giới (p = 0,336), có thể do các đối tượng nữ đã ở lứa tuổi mãn kinh với sự giảm sinh lý lượng estrogen Ngoài ra, trong điều kiện đường máu cao như ĐTĐ type 2, tác dụng bảo vệ của estrogen bị ảnh hưởng rõ rệt, và chức năng thận của nữ giới giảm nhanh hơn so với nam giới theo thời gian.
Bảng 3.2 So sánh tỉ lệ đối tượng nghiên cứu theo nhóm tuổi
Nhóm bệnh (nP) Nhóm chứng (n)) n % n %
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bệnh nhân có tổn thương thận chủ yếu trên 60 tuổi chiếm 68%, trong khi nhóm chứng có 62% dưới 60 tuổi, cho thấy sự gia tăng nguy cơ mắc bệnh theo độ tuổi Đái tháo đường type 2 và bệnh thận do đái tháo đường thường tiến triển âm thầm theo thời gian Tuổi cao và thời gian mắc bệnh kéo dài là yếu tố nguy cơ chính dẫn đến bệnh thận mạn Theo nghiên cứu UKPDS (2006), hàng năm có khoảng 2-3% bệnh nhân chuyển từ albumin niệu bình thường sang microalbumin hoặc macroalbumin niệu Sau khoảng 15 năm từ khi chẩn đoán, 40% bệnh nhân sẽ có microalbumin niệu, và khoảng 30% sẽ có mức lọc cầu thận dưới 60mL/phút hoặc nồng độ creatinin huyết thanh tăng gấp đôi Theo ADA, ở các nước đang phát triển như Việt Nam, phần lớn bệnh nhân đái tháo đường nằm trong độ tuổi 45-64, trong khi ở các nước phát triển, độ tuổi này thường lớn hơn 64.
Năm 2015, nghiên cứu của Phạm Quốc Toản về cystatin C trên 136 bệnh nhân ĐTĐ có tổn thương thận tại Việt Nam cho thấy 60,3% bệnh nhân trên 60 tuổi Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu khác, cho thấy đa số bệnh nhân có tổn thương thận thuộc nhóm tuổi trên 60 và có thời gian mắc ĐTĐ lâu năm.
3.1.2 Một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.3 Một số bệnh lý kèm theo của đối tượng nghiên cứu
Rối loạn mỡ máu là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, với tỷ lệ cao ở cả nhóm bệnh nhân bị tổn thương thận và nhóm chứng Cụ thể, tỷ lệ tăng huyết áp và rối loạn mỡ máu lần lượt là 54% và 64% ở nhóm bệnh, trong khi ở nhóm chứng, các tỷ lệ này là 41,4% và 65,6%.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Tình trạng tăng đường máu mạn tính trong bệnh tiểu đường (ĐTĐ) có thể dẫn đến nhiều rối loạn cơ quan, đặc biệt là hệ tim mạch và tăng huyết áp Tăng huyết áp không chỉ là một yếu tố nguy cơ mà còn góp phần vào vòng xoắn bệnh lý làm tổn thương thận, từ đó làm nặng thêm tình trạng suy giảm chức năng thận Thời gian mắc ĐTĐ không làm tăng tỷ lệ mắc tăng huyết áp, nhưng suy giảm chức năng thận lại có thể Tỷ lệ mắc tăng huyết áp tăng từ 36% ở bệnh thận mạn giai đoạn 1 lên khoảng 84% ở giai đoạn tiến triển 4.
Tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ chính dẫn đến tiến triển của bệnh thận và gia tăng tỷ lệ mắc bệnh động mạch trong cộng đồng bệnh nhân Theo các nghiên cứu từ giai đoạn 1990 đến 1999, khoảng 58% bệnh nhân mới được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường type 2 có liên quan đến tình trạng này.
Bệnh nhân không có protein niệu được chẩn đoán tăng huyết áp với tỷ lệ lên tới 70% Sự xuất hiện đồng thời của tăng huyết áp ở bệnh nhân đái tháo đường (ĐTĐ) có thể liên quan đến các yếu tố nguy cơ chung như béo phì và rối loạn lipid máu Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tăng huyết áp cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân có tổn thương thận so với nhóm không có Kết quả này được củng cố bởi nhiều nghiên cứu trước đó, chẳng hạn như nghiên cứu của Raven Press, cho thấy tỷ lệ mắc tăng huyết áp ở bệnh nhân có bệnh thận ĐTĐ tăng dần theo mức độ protein niệu, từ không có đến microalbumin và macroalbumin niệu.
[67] Như vậy, trong thực hành lâm sàng, 2 bệnh trên được đặt ra như là vấn đề được ưu tiên giải quyết trong kiểm soát lâu dài ĐTĐ
Rối loạn mỡ máu là hệ quả của sự mất cân bằng trong chuyển hóa lipid, đặc biệt ở bệnh nhân mắc bệnh thận mạn Tình trạng tăng đường huyết và kháng insulin ở những người có bệnh tiểu đường càng làm gia tăng mức độ rối loạn mỡ máu Một nghiên cứu từ Cơ quan ghi nhận ĐTĐ Hồng Kông đã chỉ ra rằng tăng macroalbumin niệu là yếu tố nguy cơ đối với mức cholesterol và LDL-C trong máu Hơn nữa, việc giảm mức lọc cầu thận cũng góp phần vào tình trạng này.
Mức giảm HDL-C (cholesterol lipoprotein mật độ cao) có thể được dự đoán ở mức 110 ml/phút/1,73 m² Đồng thời, rối loạn mỡ máu đã được xác định là yếu tố nguy cơ tiến triển bệnh thận mạn ở bệnh nhân tiểu đường type 2 Hiện tượng này xảy ra do sự tổn thương cầu thận và tăng tính thấm của màng, được gây ra bởi các sản phẩm chuyển hóa trung gian trong con đường TGF-β, con đường này được kích hoạt bởi sự gia tăng các lipoprotein giàu.
Nghiên cứu của chúng tôi tại Trường Y Dược, ĐHQG cho thấy không có sự khác biệt về tỷ lệ bệnh nhân rối loạn mỡ máu giữa hai nhóm (p = 0,53) Kết quả này có thể do cỡ mẫu nghiên cứu còn nhỏ và thiếu đủ dữ liệu xét nghiệm mỡ máu của bệnh nhân.
Bảng 3.4 Một số đặc điểm cận lâm sàng của đối tượng nghiên cứu
Chỉ số glucose và HbA1C trong máu không có sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu Tuy nhiên, nồng độ creatinin máu ở nhóm bệnh cao hơn đáng kể so với nhóm chứng với giá trị p = 0,02.
Nồng độ Cystatin C huyết thanh ở đối tượng nghiên cứu
3.2.1 Nồng độ cystatin C huyết thanh ở các nhóm theo tổn thương thận
Bảng 3.5 Nồng độ Cystatin C và thể bệnh
Suy thận mạn tính (𝑥̅± SD) Cystatin C
Các đối tượng trong nhóm bệnh được phân chia thành các phân nhóm cụ thể: suy thận mạn tính (khi MLCTcre < 60 mL/phút), protein niệu (khi protein trong xét nghiệm tổng phân tích ≥ 0,1 g/L) và ACR (khi chỉ số ACR trong xét nghiệm tổng phân tích ≥ 17 mmol/mg).
Nồng độ cystatin C giữa các nhóm đối tượng nghiên cứu có sự chênh lệch rõ rệt; nhóm chứng có nồng độ trung bình thấp nhất là 0,93 ± 0,21 mg/L, trong khi nhóm bệnh nhân suy thận mạn tính có nồng độ cao nhất là 2,01 ± 1,07 mg/L.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU có ACR bất thường và có protein niệu lại không có sự khác biệt (p ACR – protein niệu =0,911)
Trong diễn biến tự nhiên của đái tháo đường (ĐTĐ), màng lọc cầu thận bị ảnh hưởng bởi tình trạng tăng đường huyết mạn tính, dẫn đến rối loạn chuyển hóa và thay đổi huyết động, kết hợp với yếu tố di truyền, gây xơ khoảng kẽ và xơ hóa cầu thận Tổn thương này làm giảm khả năng lọc qua màng lọc cầu thận, dẫn đến tăng sản phẩm chuyển hóa trong máu và sự xuất hiện của các chất bất thường trong nước tiểu Cystatin C là một chất chỉ điểm quan trọng, nồng độ của nó trong huyết thanh tăng lên khi có tổn thương thận Nghiên cứu cho thấy nồng độ cystatin C ở bệnh nhân suy thận mạn tính cao hơn đáng kể so với các nhóm khác (p < 0,001), không có sự khác biệt giữa nhóm chứng và nhóm có chỉ số ACR và protein niệu dương tính Nghiên cứu năm 2011 của Jeon J.K trên 335 bệnh nhân ĐTĐ type 2 cũng xác nhận điều này.
Nghiên cứu cho thấy mức cystatin C huyết thanh tăng theo mức độ albumin niệu, với giá trị trung bình ở nhóm bình thường là 0,91 ± 0,26, nhóm microalbumin niệu là 1,05 ± 0,38, và cao nhất ở nhóm macroalbumin niệu là 2,04 ± 1,19 So sánh giữa các nhóm cho thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p < 0,01 và p < 0,001 Sự khác biệt này có thể do phân nhóm bệnh nhân khác nhau, trong đó nhóm albumin niệu bình thường của Jeon có thể bao gồm bệnh nhân có mức lọc cầu thận < 60 mL/phút Nghiên cứu của chúng tôi sử dụng chỉ số ACR thay vì microalbumin niệu như của Jeon, nhưng cả hai nghiên cứu đều chỉ ra sự gia tăng cystatin C liên quan đến sự giảm mức lọc cầu thận Kết quả tương tự cũng được ghi nhận trong nghiên cứu của Ogawa năm 2018 trên 101 bệnh nhân mắc bệnh thận mạn ĐTĐ.
3.2.2 Nồng độ cystatin C huyết thanh theo nhóm tuổi
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Bảng 3.6 Nồng độ Cystatin C huyết thanh (mg/L) theo nhóm tuổi
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nồng độ cystatin C tăng theo nhóm tuổi ở cả hai nhóm nghiên cứu Cụ thể, nồng độ cystatin C ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm chứng; ở nhóm bệnh, nồng độ tăng từ 0,81 lên 1,82 mg/L (tăng 125%), trong khi ở nhóm chứng chỉ tăng từ 0,80 lên 1,09 mg/L (tăng 36%).
Cystatin C được cho là ít bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nhân trắc học như tuổi, giới, khối lượng cơ và chế độ ăn so với creatinin Nghiên cứu của J.Y Tiao vào năm 2002 trên 98,688 bệnh nhân cho thấy nồng độ creatinin huyết thanh tăng dần theo tuổi, đặc biệt ở nữ giới bắt đầu từ năm.
Nghiên cứu cho thấy nồng độ creatinin huyết thanh chịu ảnh hưởng của độ tuổi, với 40 tuổi ở nữ và 60 tuổi ở nam là điểm mốc quan trọng Mặc dù có sự khác biệt trong các nghiên cứu về mức độ và độ tuổi, nhưng nhìn chung, nồng độ cystatin C ở nhóm đối tượng chưa có tổn thương thận không có sự khác biệt đáng kể theo nhóm tuổi Nghiên cứu của Knight (2004) cũng xác nhận mối liên quan giữa cystatin C với các yếu tố như tuổi, giới và cân nặng.
Theo sinh lý tự nhiên, mức lọc cầu thận giảm theo tuổi tác, ngay cả ở những người không mắc bệnh thận Sự giảm này càng rõ rệt hơn ở bệnh nhân có yếu tố nguy cơ như tiểu đường hoặc khi đã có tổn thương thận Khi mức lọc cầu thận giảm, khả năng lọc qua màng lọc cầu thận của cystatin C cũng giảm theo, dẫn đến những hệ quả nghiêm trọng cho sức khỏe thận.
Nghiên cứu tại Trường Đại học Y Dược, VNU cho thấy nồng độ cystatin C huyết thanh tăng cao hơn ở nhóm bệnh nhân lớn tuổi, đặc biệt rõ ràng ở nhóm trên 70 tuổi và dưới 49 tuổi (p=0,006), trong khi nhóm 50-59 và 60-69 tuổi không có sự khác biệt đáng kể (p=0,07 và p=0,08) Lu Wei và cộng sự (2014) cũng ghi nhận sự gia tăng nồng độ cystatin C ở 800 bệnh nhân, với nồng độ trung bình là 0,98 mg/L cho nhóm dưới 60 tuổi và 1,34 mg/L cho nhóm từ 60 tuổi trở lên (p < 0,01) A Ognibene (2006) khuyến nghị cần cân nhắc kỹ lưỡng khi sử dụng khoảng giá trị cystatin C do mối liên hệ rõ ràng với tuổi tác Sự gia tăng cystatin C theo nhóm tuổi trong nghiên cứu này phản ánh sự suy giảm nhanh chóng mức lọc cầu thận ở những bệnh nhân có tổn thương thận, khác với sự giảm từ từ ở nhóm chứng.
3.2.3 Nồng độ cystatin C theo giới tính
Bảng 3.7 Nồng độ cystatin C huyết thanh (mg/L) theo giới tính
Nghiên cứu cho thấy nồng độ cystatin C không khác biệt giữa nam và nữ trong cả nhóm bệnh và nhóm chứng, cũng như ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 Các nghiên cứu trước đây cũng hỗ trợ kết quả tương tự, khẳng định ưu điểm của cystatin C so với creatinin.
Nghiên cứu của Phạm Quốc Toản (2015) đã so sánh nồng độ cystatin C huyết thanh giữa hai nhóm bệnh nhân ĐTĐ type 2 có và không có tổn thương thận, và kết luận rằng không có sự khác biệt về nồng độ này giữa hai giới Điều này cho thấy cystatin C là một chỉ số độc lập với yếu tố giới ở bệnh nhân ĐTĐ type 2.
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Mối liên quan giữa Cystatin C huyết thanh và một số yếu tố
Bảng 3.8 Tương quan giữa nồng độ Cystatin C và creatinin huyết thanh
Biểu đồ 3.2 Đồ thị biểu diễn tương quan giữa nồng độ cystatin C với creatinin huyết thanh (A): Cả 2 nhóm, (B): nhóm bệnh
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Creatinin và cystatin C đều tăng nồng độ trong huyết thanh khi có tổn thương thận, với cystatin C được sử dụng để khắc phục các hạn chế của creatinin Việc đánh giá mối tương quan giữa cystatin C và creatinin là cần thiết trước khi sử dụng cystatin C như một chỉ điểm thay thế Kết quả phân tích cho thấy có sự tương quan chặt chẽ giữa hai chất này (r = 0,938), đặc biệt là ở nhóm bệnh nhân (r = 0,944) so với nhóm chứng (r = 0,462) Nghiên cứu của Buysschaert (2003) trên bệnh nhân ĐTĐ cũng cho thấy hệ số tương quan giữa cystatin C và creatinin là 0,92 Tương tự, nghiên cứu của Dsa (2017) trên 120 bệnh nhân có bệnh thận mạn cho kết quả tương quan là r = 0,875, p < 0,001 M Lipcsey (2011) cũng ghi nhận kết quả tương tự trong nhóm bệnh nhân điều trị tích cực Mặc dù có sự khác nhau về đối tượng và phương pháp nghiên cứu, các kết quả đều cho thấy mối tương quan chặt chẽ giữa cystatin C và creatinin, do cả hai chất đều có cùng một cơ chế tăng nồng độ, nhưng khác nhau về các yếu tố ảnh hưởng.
Bảng 3.9 Tương quan giữa mức lọc cầu thận ước tính bằng cystatin C huyết thanh và bằng creatinin huyết thanh
Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU
Biểu đồ 3.3 Đồ thị biểu diễn tương quan giữa mức lọc cầu thận ước tính bằng cystatin C huyết thanh và bằng creatinin huyết thanh
Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm phát triển các công thức toán học để ước lượng mức lọc cầu thận Nghiên cứu của chúng tôi áp dụng công thức MDRD dựa trên creatinin và CKD-EPI dựa trên cystatin C, với việc điều chỉnh theo tuổi và giới để đạt độ chính xác cao nhất Phân tích mức lọc cầu thận giữa hai công thức cho thấy có sự tương quan mạnh mẽ (r = 0,763), chứng tỏ tính đáng tin cậy của các phương pháp này trong việc đánh giá chức năng thận.
Copyright @ Trường Đại học Y Dược, ĐHQG ủng hộ việc sử dụng cystatin C thay cho creatinin trong việc ước tính mức lọc cầu thận Nghiên cứu của L.B.Wan năm 2007 trên 320 bệnh nhân tiểu đường type 2 đã so sánh mức lọc cầu thận ước tính bằng cystatin C với các công thức MDRD, C-G và độ thanh thải creatinin Kết quả cho thấy có mối tương quan chặt chẽ giữa mức lọc cầu thận ước tính bằng các công thức này, với hệ số tương quan lần lượt là 0,589, 0,569 và 0,479 (p < 0,05).
Nghiên cứu cho thấy rằng việc so sánh giá trị chẩn đoán của mức lọc cầu thận (MLCT) dựa vào hai chất thông qua hợp chất ngoại sinh được đánh dấu phóng xạ cho phép đo mức lọc cầu thận chính xác hơn Nghiên cứu của F J Hoek (2003) với 123 bệnh nhân chỉ ra rằng MLCT tính bằng 125I tương quan với nghịch đảo cystatin C (1/cystatin C) và độ thanh thải creatinin theo công thức Cockcroft – Gault Phân tích Bland-Altman cho thấy công thức tính MLCT dựa trên cystatin C có độ chính xác cao hơn (p < 0,0001) và độ chặt hơn (p = 0,024) so với công thức Cockcroft – Gault Theo dõi 2 năm ở bệnh nhân ĐTĐ cho thấy cystatin C có tương quan chặt (r = 0,66) với thay đổi mức lọc cầu thận Nghiên cứu năm 2014 của Kwang-Sook Woo trên 37 bệnh nhân bệnh thận mạn do ĐTĐ và 40 người khỏe mạnh cũng cho thấy mối tương quan thuận giữa MLCTcre và MLCTcys với giá trị tương quan lần lượt là r = 0,79.