Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
2.1.1.1 Khái niệm về phát triển
Theo Nguyễn Văn Tài và Phạm Văn Sinh (2014), phát triển là quá trình chuyển biến từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, và từ chất cũ sang chất mới ở trình độ cao hơn Lý luận biện chứng duy vật khẳng định rằng mọi sự vật hiện tượng không chỉ thay đổi về số lượng mà còn biến đổi, chuyển hóa từ hiện tượng này sang hiện tượng khác, tạo nên sự kế thừa liên tục trong quá trình phát triển Nguyên nhân của sự phát triển xuất phát từ mối liên hệ và tác động qua lại của các mặt đối lập trong bản thân sự vật Hình thức phát triển diễn ra từ biến đổi lượng sang biến đổi chất và ngược lại, với xu hướng không theo đường thẳng hay vòng tròn khép kín, mà theo đường xoắn ốc, tiến dần từ đơn giản đến phức tạp, từ thấp đến cao, và từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn.
Phát triển được định nghĩa bởi Viện Ngôn ngữ học (2008) là quá trình biến đổi theo hướng gia tăng, từ ít đến nhiều, từ hẹp đến rộng, từ thấp đến cao, và từ đơn giản đến phức tạp.
Trong nghiên cứu này, khái niệm phát triển được hiểu là sự tăng trưởng và tiến bộ, thể hiện sự thay đổi tích cực về cả lượng lẫn chất Phát triển không chỉ diễn ra theo thời gian mà còn liên quan đến không gian, ảnh hưởng đến sự vật, hiện tượng và con người trong xã hội.
2.1.1.2 Khái niệm về nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực được hiểu là tập hợp con người của một quốc gia, vùng lãnh thổ hoặc địa phương cụ thể, những người đang và có khả năng tham gia vào quá trình phát triển xã hội.
Theo Trần Xuân Cầu và Mai Quốc Chánh (2008), nguồn nhân lực được định nghĩa là nguồn lực con người có khả năng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội, thể hiện qua số lượng và chất lượng tại một thời điểm nhất định Nguồn nhân lực không chỉ phản ánh sức mạnh tiềm ẩn của dân cư mà còn khả năng tham gia vào quá trình sản xuất của cải cho xã hội hiện tại và tương lai, với sự chú trọng đến số lượng, chất lượng và cơ cấu dân số, đặc biệt là những người đủ điều kiện tham gia vào nền sản xuất xã hội.
Theo Nguyễn Trọng Điều (1997), nguồn nhân lực được định nghĩa là "nguồn lực con người", bao gồm dân số trong độ tuổi lao động có khả năng và nhu cầu làm việc Lực lượng lao động là tập hợp những người trong độ tuổi lao động có khả năng và nhu cầu lao động Thời gian qua, các tổ chức chủ yếu tập trung vào việc khai thác nguồn nhân lực về mặt thể lực, trong khi tiềm năng trí lực vẫn chưa được phát huy tối đa Tuy nhiên, hiện nay, việc phát triển và sử dụng tiềm năng trí lực ngày càng được chú trọng hơn (Trần Thị Tuyết Mai, 1998).
Nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục tại huyện Đông Anh bao gồm đội ngũ cán bộ, giáo viên và nhân viên làm việc tại các trường dạy nghề Đây là nguồn nhân lực chất lượng cao, được đào tạo bài bản, sở hữu chuyên môn và kỹ năng làm việc vững vàng.
2.1.1.3 Khái niệm về phát triển nguồn nhân lực
Hiện nay, có nhiều định nghĩa về phát triển nguồn nhân lực UNESCO định nghĩa phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa hẹp, nhấn mạnh việc đảm bảo sự lành nghề của dân cư phù hợp với yêu cầu phát triển quốc gia Trong khi đó, Tổ chức Lao động Thế giới (2010) mở rộng khái niệm này, không chỉ tập trung vào trình độ lành nghề và đào tạo, mà còn bao gồm phát triển năng lực, sử dụng hiệu quả năng lực đó trong công việc, cũng như đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân Liên hiệp quốc cũng nghiêng về khái niệm phát triển nguồn nhân lực theo nghĩa rộng, bao gồm giáo dục, đào tạo và khai thác tiềm năng con người để thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo Đỗ Thị An Châu (2015), phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi về số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực, bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần Điều này đồng thời tạo ra những biến đổi tiến bộ trong cơ cấu nguồn nhân lực Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực là việc xây dựng và sử dụng năng lực toàn diện của con người nhằm thúc đẩy tiến bộ kinh tế - xã hội và sự hoàn thiện cá nhân.
Nguồn nhân lực trong giáo dục đóng vai trò thiết yếu trong sự phát triển kinh tế - xã hội, vì vậy việc phát triển nguồn nhân lực giáo dục cần được chú trọng Sự phát triển này không chỉ bao gồm thể lực và trí lực mà còn cả nhân cách Đội ngũ giáo viên có vai trò quyết định trong chất lượng giáo dục, được xã hội tôn vinh và ghi nhận Như Bác Hồ đã nói, nghề dạy học là vinh quang nhất, vì nó đào tạo những thế hệ tương lai góp phần xây dựng xã hội Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng nhấn mạnh rằng nghề dạy học là một nghề cao quý và sáng tạo nhất, vì nó tạo ra những con người sáng tạo Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành trung ương Đảng khẳng định tầm quan trọng của đội ngũ giáo viên trong giáo dục (Đảng cộng sản Việt Nam, 2008).
Nghiên cứu của Đặng Bá Lãm (2012) nhấn mạnh vai trò quan trọng của giáo dục đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực (NNL), cho rằng việc này không chỉ tăng cường kinh nghiệm cho người lao động mà còn nâng cao khả năng thực hiện công việc của họ Đặc biệt, chất lượng phát triển NNL cần tập trung vào bốn nhóm năng lực cơ bản: năng lực kỹ thuật, năng lực kinh doanh, năng lực nhân cách và năng lực trí tuệ Những năng lực này là nền tảng giúp người lao động hình thành kỹ năng cần thiết Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu thay đổi nhanh chóng, các quốc gia chậm trễ trong cải cách giáo dục sẽ khiến người lao động thiếu hụt năng lực kỹ thuật và trí tuệ, từ đó không thể phát huy tối đa khả năng của mình trong môi trường làm việc quốc tế.
Phát triển nguồn nhân lực là quá trình biến đổi về số lượng và chất lượng của con người, bao gồm thể lực, trí lực, kỹ năng, kiến thức và tinh thần Điều này đồng nghĩa với việc tạo ra những cải tiến trong cơ cấu nguồn nhân lực Tóm lại, phát triển nguồn nhân lực không chỉ nhằm nâng cao năng lực toàn diện của mỗi cá nhân mà còn góp phần vào sự tiến bộ kinh tế - xã hội.
2.1.1.4 Phân loại nguồn nhân lực trong giáo dục Đặc điểm của nhân lực trong lĩnh vực giáo dục được phân loại theo trình độ. Phân loại theo bằng cấp dựa trên phân loại giáo dục; Phân loại theo nghề nghiệp; Phân loại theo chuẩn khác (giới tính, độ tuổi, vùng miền ) Mỗi cách tiếp cận này đều có ưu điểm và nhược điểm Cách tiếp cận theo bằng cấp có vai trò quan trọng trong việc xây dựng cơ sở dữ liệu về tổng số nhân lực và để dự báo cung/ cầu của nhân lực giáo dục, tuy nhiên cách này làm phát sinh vấn đề đối với khả năng so sánh, do có những khác biệt về cấp học và cơ cấu hệ thống giáo dục ở mỗi quốc gia Cách tiếp cận theo đặc điểm ngành nghề phản ánh được tình hình sử dụng hiện tại của nguồn nhân lực trong các khu vực, từ đó có thể so sánh các loại hình nhân lực trong các khu vực với nhau.( Vũ Trọng Lâm, 2004) a, Phân loại nhân lực theo trình độ đào tạo/ bằng cấp
Theo Đỗ Thị Anh Châu (2015), bảng phân loại giáo dục theo tiêu chuẩn quốc tế (ISCED) phân loại nhân lực trong lĩnh vực giáo dục thành các nhóm cụ thể.
– Nhóm nhân lực có trình độ trên đại học: là những người đã tốt nghiệp bậc trên đại học về một lĩnh vực/ ngành….
Nhóm nhân lực có trình độ đại học bao gồm những cá nhân đã hoàn thành chương trình đại học hoặc những người làm việc trong lĩnh vực giáo dục mà không có đào tạo chính thức nhưng vẫn đáp ứng yêu cầu về trình độ chuyên môn cao.
– Nhóm nhân lực có trình độ dưới đại học (nhân viên): là những người có một trong các điều kiện sau:
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Những chủ trương chính sách về phát triển nguồn nhân lực Đảng và Nhà nước ta luôn nhận định đào tạo phát triển nguồn nhân lực là quốc sách hàng đầu; trong các văn kiện trình Đại hội, Đảng ta nhấn mạnh sự quan tâm đặc biệt và làm rõ hơn lập trường, quan điểm, tính nhất quán về sự cần thiết phải đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, đã từng được khẳng định trong các văn kiện Đảng trước đây, đặc biệt là trong Nghị quyết số 29 của Hội nghị Trung ương 8, khóa XI, khẳng định đây không chỉ là quốc sách hàng đầu, là “chìa khóa” mở ra con đường đưa đất nước tiến lên phía trước, mà còn là “mệnh lệnh” của cuộc sống.
Sau khi đổi mới đất nước vào năm 1986, Đảng và Nhà nước đã triển khai nhiều chính sách và văn kiện nhằm định hướng phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo, với trọng tâm là nâng cao chất lượng giảng viên.
- Các chủ trương chính sách của Đảng:
Nghị quyết số 02-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII ngày 24/12/1996 đã xác định giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục và cần được xã hội tôn vinh Để thực hiện chiến lược phát triển giáo dục trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cần đặc biệt chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và tiêu chuẩn hóa đội ngũ giáo viên cùng cán bộ quản lý giáo dục về chính trị, tư tưởng đạo đức và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ Tổng Bí Thư Đỗ Mười nhấn mạnh rằng đây là giải pháp quan trọng trong bốn giải pháp chủ yếu của nghị quyết.
Hội nghị Trung ương khóa IX nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo và bồi dưỡng nhà giáo cùng cán bộ quản lý, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm của công tác cán bộ Các cấp ủy Đảng cần thường xuyên chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị và phẩm chất lối sống của nhà giáo Đồng thời, cần xây dựng kế hoạch đào tạo và đào tạo lại đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đảm bảo số lượng, cơ cấu cân đối và đạt chuẩn để đáp ứng yêu cầu trong thời kỳ mới.
Chỉ thị 40/CT-TW ngày 15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo cùng với quản lý giáo dục.
Mục tiêu xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đạt chuẩn, đảm bảo chất lượng và số lượng, với sự đồng bộ trong cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống và tay nghề Điều này nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Tuy nhiên, đội ngũ nhà giáo hiện nay còn nhiều hạn chế, thiếu giảng viên và mất cân đối giữa các môn học, bậc học, trong khi chất lượng chuyên môn chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục Trong bối cảnh Việt Nam gia nhập WTO và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, Đại hội lần thứ X của Đảng khẳng định “con người là vốn quý nhất”, với giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là “quốc sách hàng đầu”.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước:
Nhà nước đã ban hành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật toàn diện nhằm điều chỉnh thể chế đường lối và chính sách của Đảng về phát triển giáo dục và nâng cao chất lượng giảng viên.
Chỉ thị số 18/2001/CT-TTg, ban hành ngày 27/8/2001 bởi Thủ tướng Chính phủ, đề ra các biện pháp cấp bách nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân Nội dung chỉ thị nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng đội ngũ này để đáp ứng yêu cầu phát triển giáo dục và đào tạo trong bối cảnh mới.
- Nghị quyết số 09/2003/NQ-CP góp phần quan trọng trong việc sắp xếp đội ngũ, giải quyết giáo viên không đáp ứng yêu cầu nhiệm
- Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg ngày 11/01/2005 của Thủ tướng Chính phủ về:"Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục";
- Quyết định số 579/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020” ngày 19 tháng 4 năm 2011;
Quyết định số 641/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 28 tháng 4 năm 2011, đã phê duyệt “Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030” Đề án này nhằm nâng cao sức khỏe và tầm vóc của người dân Việt Nam trong suốt thập kỷ tới.
- Quyết định số 630/QĐ-TTg, của thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển Dạy nghề thời kỳ 2011-2020 ngày 29 tháng 5 năm 2012
- Quyết định 761/QĐ-TTg ngày 23/5/2014 của Thủ tướng chính phủ về việc phê duyệt Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020
Thông tư số 11/2014/TT-BNV ngày 09/10/2014 của Bộ Nội vụ quy định các tiêu chuẩn nghiệp vụ chuyên môn cho các ngạch công chức chuyên ngành hành chính, bao gồm hai tiêu chí chính: năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ đào tạo, bồi dưỡng.
Thông tư 30/2010/TT-BLĐTBXH quy định về chuẩn giảng viên dạy nghề bao gồm ba tiêu chí chính: năng lực chuyên môn, năng lực sư phạm dạy, và năng lực phát triển nghề nghiệp.
Thông tư 36/2014/TTLT-BGDĐT-BNV quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức giảng dạy, trong đó đề ra hai tiêu chuẩn chính: năng lực chuyên môn, nghiệp vụ và trình độ đào tạo, bồi dưỡng.
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cùng Tổng cục dạy nghề đã tổ chức nhiều hội thảo nhằm nâng cao chất lượng giáo dục nghề nghiệp Các hội thảo tập trung vào các vấn đề như đảm bảo chất lượng các trường dạy nghề, đào tạo giáo viên dạy nghề, quản lý quá trình dạy nghề và nâng cao năng lực cán bộ quản lý trong lĩnh vực này.
2.2.2 Kinh nghiệm của một số địa phương trong nước về phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực giáo dục
2.2.2.1 Một số kinh nghiệm thu hút và phát triển nguồn nhân lực của Thành phố Hồ Chí Minh
Thành phố Hồ Chí Minh luôn dẫn đầu cả nước trong việc thu hút nhân tài và lực lượng lao động có trình độ cao nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội Tuy nhiên, sức hấp dẫn của các chính sách này đã giảm do sự cạnh tranh từ khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài và các địa phương khác Để khắc phục tình trạng này, Thành phố đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi cho người có trình độ cao, như tuyển dụng không phân biệt quốc tịch, trả lương tương xứng với tài năng, ưu tiên đề bạt vào vị trí quan trọng, hỗ trợ nhà ở cho người chưa có chỗ ở, và nhiều phúc lợi khác Những chính sách này thể hiện quyết tâm của Thành phố trong việc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm trở thành trung tâm phát triển mạnh mẽ và thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
2.2.2.2 Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở Thành phố Đà Nẵng
Thành ủy Đà Nẵng đã ban hành quyết định số 922 - QĐ/TU vào ngày 11/02/2011, nhằm triển khai đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao Đề án này bao gồm các tiêu chí lựa chọn cho những cá nhân được cử đi học theo quy định đã được xác định.