Mục đích nghiên cứu của Luận văn nhằm xem xét tính bền vững của nợ công Việt Nam đồng thời tìm hiểu mối quan hệ giữa quy mô nợ và tốc độ tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Từ đó đưa ra những gợi ý và để xuất nhằm tăng hiệu quả sử dụng nợ cũng như nâng cao tính bền vững của nợ công Việt Nam. Mời các bạn cùng tham khảo!
GIỚI THIỆU
Đặt vấn đề
Để tài trợ cho đầu tư và chi tiêu công, các chính phủ thường gia tăng vay mượn hoặc áp dụng thuế cao hơn Tuy nhiên, việc đánh thuế cao có thể làm méo mó cấu trúc giá cả, gây ra vấn đề giữa các thế hệ và dẫn đến chuyển dịch nguồn lực đầu tư ra khỏi quốc gia Do đó, nhiều chính phủ phải vay nợ để bù đắp thâm hụt ngân sách.
Nợ công đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng tại Việt Nam Tuy nhiên, tình trạng thâm hụt ngân sách kéo dài và việc vay nợ liên tục thông qua phát hành trái phiếu chính phủ đã dẫn đến tỷ lệ nợ trên GDP gia tăng nhanh chóng.
Từ năm 2010 đến 2014, nợ công của Việt Nam đã tăng gấp đôi, đạt hơn 1,8 triệu tỷ đồng, tương đương gần 86 tỷ USD và chiếm 60,3% GDP, đặt ra lo ngại về tính an toàn của nợ công Trong khi nợ nội địa ít được chú ý hơn so với nợ nước ngoài ở các quốc gia đang phát triển, việc phát hành nợ nội địa giúp tránh những cú sốc từ kinh tế bên ngoài và loại bỏ rủi ro tỷ giá Tuy nhiên, nợ nội địa có thể chèn lấn đầu tư tư nhân, khi chính phủ vay mượn từ thị trường nội địa làm giảm nguồn vốn cho vay còn lại, dẫn đến tăng chi phí tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp tư nhân Hệ quả là nhu cầu đầu tư tư nhân giảm, ảnh hưởng đến tích lũy vốn và tăng trưởng kinh tế Do đó, nợ nội địa có thể trở thành gánh nặng so với các khoản vay ưu đãi từ thị trường vốn quốc tế, làm gia tăng rủi ro cho nền kinh tế.
Theo Bản tin nợ công số 4 của Bộ Tài chính (MoF) năm 2016, nợ nước ngoài tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng trong những năm gần đây, điều này tiềm ẩn nguy cơ khủng hoảng nợ Nợ có thể trở nên kém an toàn nếu lãi suất thế giới tăng cao hơn lãi suất trong nước, hoặc khi đồng tiền Việt Nam bị phá giá, hay lạm phát trong nước tăng cao so với các nước khác.
Một thách thức lớn đối với Việt Nam hiện nay là duy trì tăng trưởng cao và bền vững, đặc biệt sau cuộc khủng hoảng 2008 đã chỉ ra sự dễ bị tổn thương của nền kinh tế trước biến động thị trường toàn cầu Sự hội nhập sâu rộng vào kinh tế quốc tế đã làm lộ rõ những điểm yếu của nền kinh tế, như mô hình tăng trưởng phụ thuộc vào đầu tư công, tín dụng, và các yếu tố vốn, lao động Việc vay nợ trong thời gian qua nhằm hỗ trợ đầu tư và kích thích tăng trưởng, nhưng cần xem xét liệu nó có thực sự thúc đẩy kinh tế hay chỉ làm tăng gánh nặng trả nợ Nhiều nghiên cứu trước đây đã phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế, nhưng kết quả không đồng nhất, với nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng nợ có tác động tiêu cực đến tăng trưởng.
(1993), Siddiqui và Malik (2001), Alfredo Schclanek (2004), Safia & Shabbir
(2009), Andrea F Presbitero (2010), Vanlalramsanga (2012) Một số khác lại cho thấy nợ có tác động tích cực đến tăng trưởng Singh (1999), Muhammad Ayyoub
Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra mối quan hệ phi tuyến giữa nợ và tăng trưởng kinh tế, bao gồm các công trình của Chowdhury (2001), Pattilo (2002), Carmen M Reinhart và Kenneth S Rogoff (2010), Natia Kutivadze (2011), Checherita và Rother (2012), cùng với Hemantha Kumara và N.S Cooray (2013).
Nghiên cứu về mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam đã chỉ ra những kết quả không thống nhất Nguyễn Hoàng Bảo và Đoàn Kim Thành (2009) phát hiện tác động tiêu cực của nợ đối với tăng trưởng, trong khi Sử Đình Thành (2012) xác định ngưỡng nợ công là 75,8% GDP Bài nghiên cứu này nhằm xem xét lại mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng trong bối cảnh nợ công gia tăng và rủi ro nợ cao Việc đánh giá tính an toàn và bền vững của nợ công hiện nay là rất cần thiết, đồng thời đưa ra các kịch bản nợ có thể xảy ra trong tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này phân tích tính bền vững của nợ công Việt Nam và mối quan hệ giữa quy mô nợ với tốc độ tăng trưởng kinh tế Mục tiêu là đưa ra những gợi ý và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nợ và cải thiện tính bền vững của nợ công trong nước.
Câu hỏi nghiên cứu
Nghiên cứu này bao gồm 2 câu hỏi nghiên cứu:
Nợ công Việt Nam liệu có bền vững trong hiện tại và tương lai gần?
Trong bối cảnh Việt Nam, mối quan hệ giữa quy mô nợ công và tăng trưởng kinh tế rất quan trọng Nợ công có thể thúc đẩy đầu tư vào cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, nhưng nếu không được quản lý hợp lý, nó cũng có thể gây ra áp lực tài chính và cản trở tăng trưởng Do đó, việc cân bằng giữa việc sử dụng nợ công để phát triển và duy trì sự bền vững tài chính là cần thiết để đảm bảo tăng trưởng kinh tế ổn định trong tương lai.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này đƣợc tiến hành cho Việt Nam trong giai đoạn 1990-2015 Đối tượng nghiên cứu là nợ công và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu áp dụng nhiều khung phân tích và mô hình khác nhau để đánh giá tính bền vững của nợ công, bao gồm khung phân tích nợ bền vững từ Ngân hàng Thế Giới (WB) và Quỹ Tiền Tệ Quốc tế (IMF) năm 2006, mô hình cây nhị phân của Manasse và Roubini (2005), cùng với mô hình hệ phương trình đồng thời dạng tĩnh lược của Jaim de Pines (1989).
Nghiên cứu áp dụng mô hình hồi quy có trọng số để phân tích mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam Ngoài nợ công, nghiên cứu còn xem xét các biến vĩ mô khác trong bối cảnh tổng thể các yếu tố có thể tác động đến sự phát triển kinh tế.
Cấu trúc luận văn
Nghiên cứu được chia thành 5 chương, bắt đầu với chương 1 giới thiệu tổng quan về đề tài Chương 2 trình bày các khái niệm và lý thuyết liên quan đến nợ công, nợ bền vững, và tăng trưởng kinh tế, cùng với các nghiên cứu trước đây về tác động của quy mô nợ công đến tốc độ tăng trưởng kinh tế Chương 3 đánh giá thực trạng và tính bền vững của nợ công tại Việt Nam Chương 4 thực hiện nghiên cứu thực nghiệm để đánh giá mối quan hệ giữa nợ và tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam Cuối cùng, chương 5 đưa ra kết luận và các gợi ý chính sách liên quan.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Nợ công
Nợ công là khoản nợ của khu vực công, phát sinh khi chi tiêu của chính quyền vượt quá thu nhập, buộc phải vay để bù đắp chênh lệch Quy mô thâm hụt nợ công thường tương ứng với thâm hụt ngân sách tích lũy qua các năm Bài viết này sẽ trình bày khái niệm nợ công, phân loại và những rủi ro liên quan.
Nợ công là khoản nợ của khu vực công, khác với nợ quốc gia, là tổng nợ của tất cả các đối tượng mang quốc tịch của một quốc gia, bao gồm cả nợ của khu vực công và nợ khu vực tư nhân không được bảo lãnh Hiện nay, có nhiều cách định nghĩa khác nhau về nợ công.
Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (2002), nợ công bao gồm tổng tất cả các khoản nợ trong nước và nước ngoài của khu vực công, bao gồm chính phủ trung ương, các bộ, các bang, tỉnh thành, và các cấp chính quyền địa phương Nợ công còn bao gồm các khoản nợ của các cơ quan nhà nước tự điều hành, như doanh nghiệp nhà nước hoặc các doanh nghiệp liên doanh với tư nhân mà nhà nước nắm giữ phần lớn Ngoài ra, các nghĩa vụ nợ của các tổ chức công cộng không thuộc chính quyền trung ương, dù có sự bảo đảm hay không, cũng được tính vào nợ công.
Theo IMF (2010), nợ công được định nghĩa là nghĩa vụ trả nợ của khu vực công, bao gồm chính phủ và các tổ chức công.
Hình 2.1: Các thành phần của khu vực công theo định nghĩa của IMF
According to the Public Sector Debt Statistics guide by the IMF (2013), Vietnam's public debt, as defined by the Public Debt Management Law No 29/2009/QH12 enacted by the National Assembly in 2009, encompasses three main components: (a) government debt, (b) debt guaranteed by the government, and (c) local government debt.
- Nợ chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh chính phủ
2 http://www.tffs.org/pdf/method/2013/psds2013.pdf (trang 8)
3 http://www.moit.gov.vn/vn/Pages/VanBanDieuHanh.aspx?TypeVB=1&vID18
Các tổ chức công phi tài chính
Các tổ chức công tài chính
Các tổ chức nhà nước nhận tiền gửi (trừ NHTW)
Các tổ chức tài chính công khác
Khu vực công bao gồm các tổ chức và khoản vay do Bộ Tài chính ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành theo quy định pháp luật Tuy nhiên, nợ chính phủ không bao gồm các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng giai đoạn cụ thể.
- Nợ đƣợc chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được chính phủ bảo lãnh
Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ được ký kết, phát hành hoặc ủy quyền phát hành bởi Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thường được gọi là UBND cấp tỉnh.
Quan điểm về nợ công giữa các quốc gia có sự khác biệt, trong đó khái niệm nợ công của Việt Nam hẹp hơn so với định nghĩa của các tổ chức tài chính quốc tế Cụ thể, nợ công ở Việt Nam không bao gồm nợ của các doanh nghiệp nhà nước, trong khi tại các nước phát triển, khu vực này chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ, khiến nợ công và nợ chính phủ gần như tương đương Ngược lại, do doanh nghiệp nhà nước chiếm tỉ trọng lớn trong nền kinh tế Việt Nam, khái niệm nợ công hiện nay chủ yếu tương đương với nợ chính phủ.
Có nhiều cơ sở và tiêu chí để phân loại nợ công khác nhau Có thể phân loại theo các tiêu chí nhƣ: 4
Theo nguồn gốc địa lý Có thể phân loại nợ công gồm nợ nước ngoài và nợ trong nước
Theo loại tiền tệ cho vay: Nợ bằng nội tệ hoặc nợ bằng ngoại tệ
Bài viết của CIEM năm 2013 cung cấp thông tin chuyên đề về đầu tư công, nợ công và mức độ bền vững ngân sách tại Việt Nam Tài liệu này phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công và nợ công, đồng thời đánh giá khả năng duy trì ngân sách quốc gia trong bối cảnh hiện tại Các số liệu và phân tích trong báo cáo giúp hiểu rõ hơn về tình hình tài chính công và những thách thức mà Việt Nam đang đối mặt.
Theo thời hạn vay: Nợ công vay dưới 1 năm là nợ ngắn hạn, dưới 10 năm là nợ trung hạn và trên 10 năm là nợ dài hạn
Theo phương thức huy động vốn, nợ công được chia thành hai loại: nợ công vay từ các thỏa thuận vay trực tiếp và nợ công từ công cụ nợ do các cơ quan có thẩm quyền phát hành.
Theo trách nhiệm đối với chủ nợ, nợ công được phân loại thành hai loại chính: nợ công phải trả, bao gồm nợ của chính phủ và chính quyền địa phương, và nợ công bảo lãnh, trong đó chính phủ bảo lãnh cho người vay nợ.
Nợ công được phân loại theo tính chất ưu đãi của khoản vay thành ba loại chính: nợ công từ vốn vay ODA, nợ công từ vốn vay ưu đãi và nợ thương mại thông thường.
2.1.3 Rủi ro của nợ công
Trong nghiên cứu về khả năng xảy ra khủng hoảng nợ toàn cầu, Manasse và Roubini (2005) đã chỉ ra ba rủi ro chính liên quan đến nợ công, bao gồm: (a) rủi ro thanh toán, (b) rủi ro thanh khoản, và (c) rủi ro bất ổn vĩ mô.
Rủi ro thanh toán xảy ra khi một quốc gia không thể chi trả các khoản nợ của mình, đặc biệt trong bối cảnh thâm hụt ngân sách và thương mại Để bù đắp các khoản thâm hụt, quốc gia thường phải vay nợ, và khả năng thanh toán phụ thuộc vào tổng nợ so với khả năng trả nợ của nền kinh tế Khả năng này có thể được đo lường qua thu nhập, kim ngạch xuất khẩu hoặc nguồn thu của chính phủ Một khoản nợ được coi là có khả năng thanh toán khi giá trị chiết khấu của dòng ngân sách trong tương lai lớn hơn hoặc bằng giá trị hiện tại ròng (NPV) của tổng nợ công Đối với nợ công nước ngoài, việc chi trả bằng ngoại tệ phụ thuộc vào giá trị xuất khẩu ròng của nền kinh tế Do đó, một quốc gia có khả năng thanh toán khi giá trị chiết khấu của cán cân thương mại dự kiến lớn hơn hoặc bằng NPV của tổng nợ nước ngoài Để tránh rủi ro thanh toán, ngân sách và thương mại cần phải thặng dư tại một số thời điểm nhằm bù đắp khoản nợ phải trả trong tương lai.
Khả năng thanh khoản là yếu tố quan trọng giúp chính phủ nhanh chóng trả nợ Để một quốc gia có thể thanh toán nợ, không chỉ cần có khả năng thanh toán mà còn phải đảm bảo khả năng thanh khoản Rủi ro thanh khoản thường phát sinh từ nợ ngắn hạn, khi các khoản tiền chưa được sử dụng đến hạn phải trả, chủ yếu từ các khoản vay nước ngoài Theo Roubini (2005), rủi ro thanh khoản gia tăng khi tỷ lệ nợ ngắn hạn trên dự trữ ngoại hối vượt quá 1,3 lần.
Các phương pháp đánh giá tính bền vững của nợ
2.2.1 Phân tích cây nhị phân của Manasse và Roubini (2005)
Manasse và Roubini (2005) đã áp dụng phương pháp Cây Nhị phân để phân tích rủi ro nợ công, nhằm xác định nguy cơ một quốc gia có thể đối mặt với khủng hoảng nợ Phương pháp này dựa trên các bằng chứng thực nghiệm từ quá khứ để đưa ra những dự đoán chính xác hơn về tình hình nợ công.
Dựa trên số liệu quan sát hàng năm từ 47 nền kinh tế mới nổi trong giai đoạn 1970-2002, Manasse và Roubini đã xây dựng cây thực nghiệm nhị phân để phân tích rủi ro nợ công Các quốc gia được phân loại thành hai nhóm dựa trên tỷ lệ nợ nước ngoài, trong đó nhóm đầu tiên có tỷ lệ nợ lớn hơn 49,7% GDP và có xác suất khủng hoảng lên đến 20,5%.
Nhóm thứ hai có tỷ lệ nợ nước ngoài thấp hơn 49,7% GDP và xác suất vỡ nợ là 9,7% Nhóm thứ nhất được chia thành hai nhánh dựa trên tỷ lệ lạm phát: lớn hơn 10,5% và thấp hơn 10,5% Các quốc gia có tỷ lệ lạm phát cao trên 10,5% đối mặt với nguy cơ khủng hoảng nợ cao nhất, với xác suất lên đến 66,8% Hơn một nửa các trường hợp khủng hoảng trong nghiên cứu rơi vào nhóm này.
Nhóm quốc gia có nguy cơ khủng hoảng nợ cao thứ nhì bao gồm những quốc gia có quy mô nợ nước ngoài từ 19-49,7% GDP, đồng thời có tỷ lệ nợ ngắn hạn trên 130% dự trữ ngoại hối, tỉ giá cứng nhắc và tình hình chính trị bất ổn Xác suất các quốc gia này rơi vào khủng hoảng lên tới 41,5%.
Những quốc gia có rủi ro thấp thường sở hữu nợ nước ngoài thấp, với tỷ lệ nợ ngắn hạn không vượt quá 130% dự trữ ngoại hối và tỷ lệ nợ công nước ngoài dưới 210% thu ngân sách Đặc biệt, nền kinh tế của họ không ở trong tình trạng suy thoái Theo thống kê, 58,4% các quốc gia không gặp khủng hoảng nợ đều đáp ứng những tiêu chí này.
Theo quy tắc phân loại, quốc gia có thể được chia thành vùng khủng hoảng hoặc vùng an toàn Một quốc gia sẽ được xếp vào vùng khủng hoảng nếu xác suất xảy ra khủng hoảng của quốc gia đó vượt quá xác suất trung bình của toàn bộ mẫu Ngược lại, các quốc gia có xác suất khủng hoảng thấp hơn mức trung bình sẽ được phân loại vào vùng an toàn.
Hình 2.2: Mô hình cây nhị phân
2.2.2 Khung phân tích của WB và IMF về tính bền vững của nợ
Phương pháp Cây nhị phân có nhược điểm là chỉ xác định nguy cơ khủng hoảng nợ tại một thời điểm dựa trên dữ liệu lịch sử mà không chỉ ra nguyên nhân tiềm ẩn ảnh hưởng đến tính bền vững của nợ quốc gia Để khắc phục điều này, vào tháng 4 năm 2005, IMF và WB đã giới thiệu khung phân tích nợ bền vững (DSF) nhằm đánh giá tính bền vững nợ của quốc gia và các rủi ro tài khóa liên quan Khung phân tích này được xem xét định kỳ để cập nhật và cải thiện Theo thông tin từ IMF, phương pháp này hướng tới hai mục tiêu chính.
Khuôn khổ này được xây dựng nhằm hỗ trợ các quốc gia có thu nhập thấp trong việc đưa ra quyết định vay vốn, phù hợp với nhu cầu tài chính và khả năng trả nợ hiện tại cũng như tương lai của họ, đồng thời xem xét các hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia.
Hướng dẫn các quyết định cho vay nhằm đảm bảo nguồn tài chính được cung cấp cho các quốc gia thu nhập thấp với các điều kiện phù hợp với mục tiêu phát triển và khả năng chịu đựng nợ dài hạn.
Nó cũng góp phần nâng cao đánh giá của WB và IMF, đồng thời đưa ra các khuyến nghị chính sách cho khu vực, nhằm nhanh chóng loại bỏ những khủng hoảng tiềm ẩn có thể xảy ra.
DSF tiến hành phân tích nợ nước ngoài và nợ khu vực công, với sự chú trọng vào việc cho vay cho các quốc gia thu nhập thấp, nơi mà tỷ lệ lãi suất và thời gian trả nợ có sự khác biệt đáng kể Khung phân tích này tập trung vào giá trị hiện tại của nghĩa vụ nợ, cho phép so sánh qua thời gian và giữa các quốc gia.
5 https://www.imf.org/external/pubs/ft/dsa/lic.htm
Các quốc gia có thu nhập thấp và chính sách yếu kém thường gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ, trái ngược với những quốc gia có chính sách vững mạnh DSF phân loại các quốc gia thành ba nhóm chính sách: mạnh, trung bình và yếu, với một khuôn khổ đánh giá cụ thể.
Bảng 2.1: Ngƣỡng an toàn nợ theo DSF
Hiện giá của nợ theo % của Nghĩa vụ nợ theo % của Xuất khẩu GDP Thu ngân sách Xuất khẩu Thu ngân sách
Nguồn: Hướng dẫn phân tích tính bền vững của nợ LIC (A Guide to LIC Debt
Việc phân loại chính sách quốc gia thành yếu, trung bình hay tốt dựa trên tiêu chuẩn CPIA (Country Policy and Institutional Assessment) của Ngân hàng Thế giới, với thang điểm từ 1 đến 6 Các quốc gia có CPIA thấp hơn hoặc bằng 3.25 được coi là có chính sách yếu, dưới 3.75 là chính sách trung bình, và từ 3.75 trở lên được xem là có chính sách tốt Mỗi nhóm quốc gia cũng có ngưỡng an toàn nợ khác nhau theo quy định của WB và IMF trong DSF, như được thể hiện trong bảng 3.6.
2.2.3 Mô hình nợ bền vững Jaime de Pines
Tài khoản vãng lai có thể được hiểu theo hai cách: truyền thống và hiện đại Cách truyền thống tính toán dựa trên chênh lệch giữa tổng xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ, cộng với thu chi từ dịch vụ ròng, thu nhập yếu tố ròng và chuyển giao ròng từ nước ngoài Cách hiểu hiện đại lại xem tài khoản vãng lai là sự chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư Điều này dẫn đến một đồng nhất thức vĩ mô căn bản.
Giữa tiết kiệm từ khu vực nước ngoài và cán cân tài khoản vãng lai có mối quan hệ chặt chẽ Ngoài ra, các khoản vay nợ nước ngoài, viện trợ phát triển không hoàn lại và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng đóng vai trò quan trọng trong mối liên hệ này.
Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu quan trọng hàng đầu của nhiều quốc gia, vì nó tạo nền tảng cho sự phát triển đất nước và nâng cao mức sống của người dân Bài viết này sẽ trình bày khái niệm về tăng trưởng kinh tế cùng với các mô hình liên quan đến tăng trưởng.
2.3.1 Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản lượng và quy mô của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định Nó có thể được thể hiện qua số tuyệt đối hoặc tỷ lệ phần trăm, phản ánh mức độ tăng trưởng của sản lượng kinh tế trong thời gian đó.
Quy mô nền kinh tế được đo lường chủ yếu qua Tổng sản phẩm trong nước (GDP) và Tổng sản phẩm quốc gia (GNP) Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế cũng có thể được đánh giá qua các chỉ tiêu như Sản phẩm quốc dân ròng (NNP), Sản phẩm quốc nội ròng (NDP), Thu nhập quốc dân (Y) và Thu nhập khả dụng (YD) Trong số các chỉ tiêu này, GDP là chỉ số quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất để phản ánh sức mạnh của nền kinh tế.
Ngoài tổng thu nhập, việc xem xét tăng trưởng cũng dựa vào thu nhập bình quân đầu người Để tính thu nhập bình quân đầu người, ta chia tổng thu nhập cho dân số của quốc gia Chỉ số tổng sản phẩm bình quân đầu người (PCI) tại một thời điểm nhất định được tính bằng cách chia GDP của quốc gia hoặc vùng lãnh thổ cho dân số của nó.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế là tỷ lệ phần trăm thể hiện sự chênh lệch giữa GDP hiện tại và GDP của một nền kinh tế trong thời kỳ trước.
Trong đó: là quy mô GDP của nền kinh tế vào năm là quy mô của nền kinh tế năm là tốc độ tăng trưởng kinh tế
2.3.2 Các mô hình tăng trưởng
Các nhà kinh tế cổ điển, như Ricardo, đã phát triển những mô hình tăng trưởng đầu tiên, cho rằng lao động, vốn, và đất đai sản xuất nông nghiệp là nguồn gốc của tăng trưởng kinh tế, với đất đai là yếu tố quan trọng nhất Trường phái cổ điển nhấn mạnh vai trò tự điều chỉnh của thị trường qua lý thuyết Bàn tay vô hình của Adam Smith, phản đối sự can thiệp của chính phủ vào nền kinh tế Tuy nhiên, cuộc đại khủng hoảng 1929-1933 đã chỉ ra rằng thị trường không thể tự điều tiết, dẫn đến sự ra đời của lý thuyết Keynes Keynes nhấn mạnh vai trò điều tiết của nhà nước, khẳng định rằng nhu cầu (cầu đầu tư và cầu tiêu dùng) là yếu tố quyết định sản lượng và tăng trưởng, thay vì cung.
Mô hình Harrod-Domar, được phát triển bởi hai nhà kinh tế Harrod và Domar, phân tích mối quan hệ giữa thu nhập, tiết kiệm, đầu tư và sản lượng cần thiết để duy trì tăng trưởng ổn định trong nền kinh tế tư bản chưa phát triển Ưu điểm của mô hình này là tính đơn giản và dễ sử dụng, giúp các nhà kinh tế xác định tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư cần thiết để đạt được tăng trưởng tự duy trì Tuy nhiên, mô hình này cũng có những hạn chế, như việc quá đề cao vai trò của đầu tư và tiết kiệm, cũng như giả định cứng nhắc về các tỷ số vốn và lao động Mô hình tăng trưởng "hai sự thiếu hụt" của Chenery & Strout mở rộng khái niệm này, chỉ ra rằng thiếu hụt tiết kiệm và ngoại tệ có thể cản trở tăng trưởng, đồng thời bổ sung thiếu hụt tài khóa do vấn đề tài chính ở các nước đang phát triển Mặc dù dòng vốn nước ngoài có thể hỗ trợ tăng trưởng, nhưng sự phụ thuộc vào nguồn vốn này cũng gặp phải phê phán, vì có thể dẫn đến giảm nguồn tiết kiệm trong nước và ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu.
Năm 1956, nhà kinh tế học Robert Solow từ MIT đã giới thiệu một mô hình tăng trưởng kinh tế mới, đánh dấu bước tiến quan trọng so với mô hình Harrod-Domar Solow chỉ ra rằng mô hình Harrod-Domar gặp nhiều vấn đề do hàm sản xuất cứng nhắc Giải pháp của ông là thay thế hàm sản xuất cố định bằng hàm sản xuất tân cổ điển, cho phép linh hoạt hơn và có sự thay thế giữa các yếu tố sản xuất Mô hình tăng trưởng tân cổ điển của Solow dựa trên các giả định như quy luật Say, trong đó tiết kiệm luôn bằng đầu tư và lực lượng lao động tương ứng với việc làm, không có thất nghiệp Suất sinh lợi theo quy mô được giả định là không đổi, nhưng có suất sinh lợi giảm dần đối với các yếu tố sản xuất Mô hình này được xây dựng theo thời gian liên tục và logic, còn được gọi là mô hình tăng trưởng ngoại sinh, vì các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng chủ yếu là từ bên ngoài.
Nguyên lý Say, được đặt theo tên nhà kinh tế Jean-Baptiste Say, nhấn mạnh rằng "cung sẽ tự sinh ra cầu." Tinh thần của nguyên lý này cho thấy rằng sự tăng trưởng lao động mới là yếu tố quyết định để đạt được tăng trưởng kinh tế bền vững Mô hình này chỉ ra rằng trong dài hạn, nền kinh tế có xu hướng tiến đến trạng thái cân bằng với mức tăng trưởng liên tục và đồng đều.
Vận dụng lý thuyết Keynes, các quốc gia đã áp dụng nhiều biện pháp can thiệp vào nền kinh tế để tăng sản lượng tiềm năng và cải thiện tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp Tuy nhiên, những can thiệp này cũng gây ra hạn chế cho thị trường tự do và cản trở tăng trưởng Nhà kinh tế học Samuelson trong tác phẩm "Kinh tế học" (1948) đã trình bày thuyết “Cái vòng luẩn quẩn” và “Cú huých từ bên ngoài”, cho rằng có bốn yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng, mà các quốc gia đang phát triển thường thiếu Để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này, cần có sự hỗ trợ từ bên ngoài, như dòng vốn đầu tư nước ngoài hoặc nợ chính phủ Tuy nhiên, việc vay nợ cũng tiềm ẩn rủi ro, vì vay quá mức và kiểm soát đầu ra kém có thể dẫn đến hậu quả lâu dài khó khắc phục.
Các mô hình tăng trưởng trước đây, như của Solow, chủ yếu tập trung vào các yếu tố bên ngoài, nhưng trong những thập kỷ gần đây, vai trò của đổi mới công nghệ và vốn nhân lực đã trở thành nền tảng cho các lý thuyết tăng trưởng nội sinh Các mô hình này, mặc dù dựa trên lý thuyết kinh tế tân cổ điển, đã nội sinh hóa các yếu tố thúc đẩy tăng trưởng dài hạn Điều này có nghĩa là các yếu tố này được hình thành trong quá trình tăng trưởng, dẫn đến sự phát triển liên tục của các nền kinh tế Theo Barro (1991), sự khác biệt trong tăng trưởng giữa các quốc gia không chỉ do hiệu quả đầu tư mà còn bởi những chênh lệch khác.
Trong những năm 1980, các nghiên cứu đã chuyển đổi một số biến ngoại sinh thành biến nội sinh để khắc phục hạn chế trong việc sử dụng hàm sản xuất giải thích tăng trưởng kinh tế Các mô hình của Romer (1990), Lucas (1988) và Becker & cộng sự (1990) chỉ ra rằng vốn con người tích lũy có suất sinh lợi không giảm, cho thấy việc tích lũy nguồn vốn con người có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Đồng thời, Romer, Lucas và Scost (1980s) nhấn mạnh rằng sự kết hợp giữa tri thức và tư bản nhân lực, cùng với tiến bộ kỹ thuật, là yếu tố quyết định cho tăng trưởng kinh tế, trong khi mậu dịch quốc tế và tiền tệ quốc tế đóng vai trò là động cơ chính Sự kết hợp này sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế.
Mặc dù không phải là yếu tố quyết định, các cuộc khủng hoảng toàn cầu luôn gây ra tác động nhất định đến các quốc gia, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế Mức độ ảnh hưởng của khủng hoảng phụ thuộc vào sự hội nhập của nền kinh tế với toàn cầu Lịch sử cho thấy các cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ, với khủng hoảng toàn cầu xảy ra ít hơn khủng hoảng quốc gia, vì một số nền kinh tế vẫn có thể tăng trưởng trong khi khác suy thoái Theo IMF, đã có bốn cuộc suy thoái toàn cầu kể từ sau Thế chiến II: vào các năm 1975, 1982, 1991 và 2009.
Hầu hết các nền kinh tế đều trải qua chu kỳ tăng trưởng nhanh và chậm, hay suy thoái, được gọi là các chu kỳ kinh tế Những thay đổi ngắn hạn trong sản lượng này không tuân theo quy luật cố định và rất khó dự đoán chính xác.
Chu kỳ kinh tế là trung tâm của các tranh luận về chính sách kinh tế vĩ mô và có nguồn gốc từ lý thuyết Keynes, cho rằng chu kỳ này xuất phát từ sự không hoàn hảo của thị trường, dẫn đến các đỉnh và đáy suy thoái trước khi đạt hiệu quả tối ưu Ngược lại, lý thuyết tiền tệ của Friedman nhấn mạnh rằng chu kỳ kinh tế phụ thuộc vào sự điều chỉnh tiền tệ và tín dụng của ngân hàng trung ương Lý thuyết chu kỳ kinh doanh cân bằng, với các nhà kinh tế như Robert Lucas, Robert Barro và Thomas Sargent, cho rằng nhận thức sai lầm về giá cả và tiền lương dẫn đến sự mất cân bằng trong cung lao động Trong khi đó, lý thuyết chu kỳ kinh tế thực của Edward Prescott và Charles Prosser cho rằng chu kỳ kinh tế là phản ứng tối ưu trước các cú sốc thực như công nghệ hay thiên tai, khác với cú sốc ảo do tăng cung tiền.
Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế
2.4.1 Tổng quan các lý thuyết
Mối quan hệ giữa nợ công và tăng trưởng kinh tế vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế và các trường phái kinh tế khác nhau Việc hiểu rõ tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế là rất quan trọng để đưa ra các chính sách phù hợp Nhiều nghiên cứu cho thấy nợ công có thể thúc đẩy tăng trưởng nếu được sử dụng hiệu quả, trong khi một số ý kiến khác cho rằng nợ cao có thể cản trở phát triển kinh tế bền vững.
Trong nghiên cứu của 12 Nobel Kinh tế (2004), có bốn quan điểm chính về tác động của nợ công đối với tăng trưởng kinh tế Thứ nhất, trường phái tân cổ điển và phái trọng tiền, đại diện là Friedman (1988), cho rằng nợ công có tác động tiêu cực đến tăng trưởng Thứ hai, các nhà kinh tế học trường phái Keynes cho rằng nợ công ở mức hợp lý có tác động tích cực đến tăng trưởng thông qua tổng cầu Thứ ba, trường phái cổ điển, tiêu biểu là Ricardo, cho rằng nợ công chỉ có tác động rất nhỏ đến tăng trưởng Cuối cùng, Krugman (1988) đưa ra lý thuyết "Nợ quá mức", nhấn mạnh rằng trước ngưỡng nợ tối ưu, nợ có tác động tích cực đến tăng trưởng, nhưng sau khi vượt qua ngưỡng này, nợ sẽ gây tác động tiêu cực.
2.2.1.1 Nợ công có tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế
Theo lý thuyết Tân cổ điển, chính sách mở rộng tài khóa thông qua việc giảm thuế hoặc vay nợ có thể làm giảm tiết kiệm quốc gia Franco Modigliani (1961) cho rằng khi chính phủ vay tiền, họ sẽ phải tăng thuế để bù đắp lãi suất, dẫn đến giảm thu nhập của dân chúng Điều này có nghĩa là tổng nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế không thay đổi, chỉ chuyển từ người này sang người khác Hơn nữa, thu nhập kỳ vọng giảm do tăng thuế không khuyến khích đầu tư, từ đó không thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Ông nhấn mạnh rằng "nếu chính phủ đánh thuế, thì người dân sẽ có ít tiền hơn, nên mỗi đồng chính phủ chi tiêu sẽ được cân đối bằng một đồng không được chi ở chỗ khác".
Milton Friedman, nhà kinh tế nổi tiếng của trường phái trọng tiền, cho rằng sự gia tăng nợ công do thâm hụt ngân sách sẽ dẫn đến áp lực tăng lãi suất Tăng lãi suất sẽ làm giảm đầu tư tư nhân, từ đó gây ra hiệu ứng "chi tiêu công chèn ép đầu tư tư nhân" Khi đầu tư tư nhân giảm, tăng trưởng kinh tế cũng sẽ bị ảnh hưởng tiêu cực.
Lý thuyết của các nhà kinh tế Tân cổ điển tóm tắt rằng thu nhập quốc gia bao gồm chi tiêu và tiết kiệm tư nhân, thuế trừ đi các khoản chuyển giao của chính phủ, đầu tư nội địa, chi tiêu của chính phủ và xuất khẩu ròng.
Giới hạn ngân sách của khu vực tƣ nhân:
Thu nhập quốc dân bằng tổng chi tiêu:
Cán cân tài khoản vãng lai cần cân bằng với số âm của cán cân tài khoản vốn Cán cân tài khoản vãng lai được tính bằng xuất khẩu ròng cộng với thu nhập từ đầu tư nội địa và chuyển giao ròng Do phần chuyển giao ròng và thu nhập từ đầu tư trong nước rất nhỏ, chúng ta có thể bỏ qua chúng Số âm của cán cân tài khoản vốn, hay đầu tư nước ngoài ròng (NFI), được xác định bằng đầu tư của người dân trong nước ra nước ngoài trừ đi đầu tư của người dân nước ngoài vào trong nước.
Vế trái của phương trình thể hiện tổng tiết kiệm quốc gia, bao gồm tiết kiệm từ khu vực tư nhân và khu vực công, trong khi vế phải phản ánh tổng đầu tư, gồm đầu tư nội địa và đầu tư ra nước ngoài Khi chính phủ chi tiêu qua thâm hụt ngân sách, tiết kiệm của khu vực công sẽ giảm Phương trình vẫn được thỏa mãn trong ba trường hợp: (a) tiết kiệm tư nhân tăng, (b) đầu tư nội địa giảm, hoặc (c) đầu tư nước ngoài ròng giảm.
Theo quan điểm truyền thống, trong trường hợp (a), tiết kiệm của khu vực tư nhân sẽ tăng, nhưng mức tăng này sẽ thấp hơn sự sụt giảm trong tiết kiệm của khu vực công, dẫn đến việc giảm tổng tiết kiệm quốc gia.
Khi đầu tư nội địa liên tục giảm trong một khoảng thời gian, tích trữ vốn của nền kinh tế sẽ giảm theo Việc tích trữ vốn thấp dẫn đến lãi suất tăng, năng suất lao động giảm, từ đó làm giảm mức lương và thu nhập trung bình, gây ra sự sụt giảm trong tiết kiệm quốc gia.
Khi giảm lượng đầu tư nước ngoài ròng, người dân sở hữu ít vốn ở nước ngoài hơn, dẫn đến thu nhập vốn trong nước giảm và tiết kiệm quốc gia cũng giảm theo Hơn nữa, sự sụt giảm này phản ánh sự giảm tương đương trong xuất khẩu ròng, làm gia tăng thâm hụt cán cân thương mại và có thể dẫn đến tình trạng thâm hụt kép.
Khi chính phủ tăng cường chi tiêu thông qua thâm hụt ngân sách, điều này sẽ dẫn đến việc giảm tiết kiệm quốc gia, từ đó làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế.
2.2.1.2 Nợ công có tác động tích cực đối với tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết Keynes cho rằng nền kinh tế thị trường không ổn định và thiếu khả năng tạo ra tổng cầu đủ cao cho toàn dụng nhân công, do đó, cần có sự can thiệp của chính phủ để tăng cường tổng cầu Theo quan điểm này, nợ công không gây thiệt hại nếu chính phủ vay mượn từ thị trường nội địa, và sự thâm hụt ngân sách chỉ là việc phân phối lại nguồn lực từ người đóng thuế sang người nắm giữ trái phiếu chính phủ.
Theo lý thuyết này, chi tiêu chính phủ có tác động tích cực đến nền kinh tế Khi chính phủ tăng chi tiêu thông qua thâm hụt ngân sách, như vay nợ hoặc giảm thuế, thu nhập sau thuế và của cải của hộ gia đình sẽ tăng lên Điều này dẫn đến gia tăng tiêu dùng của hộ gia đình, từ đó làm tăng tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ Sự gia tăng tổng cầu, trong bối cảnh giá cả và mức lương cứng nhắc, sẽ thúc đẩy tăng trưởng thu nhập và toàn dụng nhân công.
Phái Keynes đối mặt với sự phản đối từ những người theo trường phái Ricardo, khi cho rằng chi tiêu chính phủ tăng lên sẽ không ảnh hưởng đến mức thu nhập Họ lập luận rằng người dân sẽ tiết kiệm nhiều hơn để chuẩn bị cho thuế tăng trong tương lai hoặc để đối phó với lạm phát cao hơn do chi tiêu hiện tại của chính phủ Vì vậy, tác động ròng lên tổng cầu sẽ bằng không.
2.2.1.3 Nợ công có tác động rất nhỏ tới tăng trưởng kinh tế
Lý thuyết cân bằng của David Ricardo cho rằng thâm hụt ngân sách có tác động nhỏ đến nền kinh tế, nghĩa là nợ công không ảnh hưởng đến tổng cầu Robert J Barro, vào năm 1974, đã mở rộng lý thuyết này, cho rằng chi tiêu công hiện tại sẽ dẫn đến tăng thuế trong tương lai, khiến người tiêu dùng điều chỉnh hành vi tiêu dùng dựa trên giá trị hiện tại của thu nhập tương lai Do đó, việc chính phủ giảm thuế hay tăng chi tiêu thông qua vay nợ không làm tăng chi tiêu của người tiêu dùng, vì họ dự đoán rằng điều này sẽ dẫn đến thuế cao hơn trong tương lai để trả nợ Chính phủ có thể tăng chi tiêu bằng cách tăng thuế hoặc phát hành trái phiếu, và khi trái phiếu đáo hạn, nó sẽ cần được hoàn trả bằng cách tăng thuế trong tương lai Khi chính phủ chọn chi tiêu qua thâm hụt ngân sách, người đóng thuế sẽ tiết kiệm hiện tại để chuẩn bị cho gánh nặng thuế cao hơn trong tương lai, dẫn đến việc gia tăng chi tiêu của chính phủ không tác động đến tổng cầu.