Cơ sở lý luận và thực tiễn
Cơ sở lý luận
2.1.1 Khái quát về thuế và hộ sản xuất kinh doanh
2.1.1.1 Khái niệm và vai trò của thuế a Khái niệm về thuế Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, chi cho các công việc thuộc chức năng của nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu, nhà nước thường sử dụng ba hình thức động viên đó là: quyên góp của dân, vay của dân và dùng quyền lực nhà nước bắt buộc dân phải đóng góp Trong đó hình thức quyên góp tiền và tài sản của dân và hình thức vay của dân là những hình thức không mang tính ổn định và lâu dài thường được nhà nước sử dụng có giới hạn trong một số trường hợp đặc biệt Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho ngân sách nhà nước Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài chính cho nhà nước Hình thức nhà nước dùng quyền lực chính trị buộc dân đóng góp để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của mình đó chính là thuế (Tổng cục thuế, 2003a)
Mác đã nhấn mạnh rằng thuế đóng vai trò quan trọng trong mối quan hệ giữa nhà nước và người dân, coi thuế là cơ sở kinh tế của bộ máy nhà nước Ông cho rằng thuế là phương tiện đơn giản giúp nhà nước thu được tiền và tài sản từ người dân, nhằm phục vụ cho các hoạt động chi tiêu của nhà nước.
Có nhiều quan điểm khác nhau về thuế, được phân tích từ nhiều khía cạnh khác nhau Theo cuốn từ điển kinh tế của Christopher Pass và Bryan Lowes, thuế được định nghĩa là biện pháp mà chính phủ áp dụng lên thu nhập, tài sản và vốn của cá nhân hoặc doanh nghiệp (thuế trực thu), cũng như trên việc chi tiêu cho hàng hóa và dịch vụ (thuế gián thu).
Trong cuốn sách "Economics", hai nhà kinh tế Mỹ đã đưa ra một khái niệm hoàn thiện về thuế, định nghĩa rằng thuế là khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền hoặc hàng hóa, dịch vụ từ các công ty và hộ gia đình cho chính phủ, mà không nhận lại hàng hóa, dịch vụ nào Khoản nộp này không phải là hình phạt từ tòa án vì vi phạm pháp luật Quan điểm này chỉ xem xét thuế từ góc độ người nộp và đối tượng chịu thuế, không đề cập đến việc sử dụng tiền thuế, mà chỉ nhấn mạnh nghĩa vụ công dân của doanh nghiệp và hộ gia đình đối với đất nước nơi họ hoạt động Những quan điểm này phản ánh giai đoạn phát triển cụ thể của thuế trong lịch sử.
Thuế được định nghĩa là phương thức phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội cũng như thu nhập quốc dân Mục tiêu của thuế là tạo ra các quỹ tiền tệ tập trung cho nhà nước, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu phục vụ cho các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
Thuế được xem là khoản đóng góp bắt buộc mà tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước theo quy định pháp luật, nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các chức năng của Nhà nước Từ góc độ kinh tế học, thuế là biện pháp mà Nhà nước sử dụng để chuyển giao một phần nguồn lực từ khu vực tư sang khu vực công, phục vụ cho các chức năng kinh tế – xã hội Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có khái niệm thống nhất về thuế; theo từ điển tiếng Việt, thuế là khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân và tổ chức kinh doanh phải nộp cho nhà nước dựa trên tài sản, thu nhập và nghề nghiệp của họ.
Các khái niệm về thuế hiện nay chủ yếu phản ánh quan điểm từ các góc độ khác nhau, dẫn đến việc chưa thể hiện đầy đủ và chính xác bản chất của thuế Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về thuế, các nhà kinh tế đều đồng thuận rằng để làm rõ bản chất của thuế, định nghĩa cần nhấn mạnh các khía cạnh quan trọng liên quan.
Nội dung kinh tế của thuế phản ánh mối quan hệ tiền tệ giữa nhà nước và các pháp nhân, cá nhân mà không có sự hoàn trả trực tiếp Những quan hệ này phát sinh khách quan và mang ý nghĩa xã hội đặc biệt, thể hiện việc chuyển giao thu nhập bắt buộc theo chỉ đạo của nhà nước.
Các pháp nhân và thể nhân chỉ cần nộp cho Nhà nước các khoản thuế theo quy định của pháp luật, và việc sử dụng tiền thuế này phải phục vụ cho mục đích chung.
Thuế được định nghĩa là khoản nộp tiền mà cá nhân và tổ chức có nghĩa vụ bắt buộc theo quy định của pháp luật đối với Nhà nước Đặc điểm của thuế là không mang tính chất đối khoản, không hoàn trả trực tiếp cho người nộp, và được sử dụng để đáp ứng các nhu cầu chi tiêu công cộng trong cơ chế thị trường.
Thuế là công cụ kinh tế thiết yếu của mọi quốc gia, được áp dụng khi có hoạt động kinh tế tạo ra thu nhập hoặc sử dụng nguồn thu nhập đó Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, vai trò của nhà nước ngày càng quan trọng, và thuế trở thành yếu tố không thể thiếu trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế (Tổng cục thuế, 2011a).
Thuế đóng vai trò quan trọng trong ngân sách Nhà nước và đời sống xã hội, vì thông qua việc thu thuế, Nhà nước tập trung tài sản xã hội để hình thành quỹ ngân sách và thực hiện các chính sách kinh tế xã hội.
-Thuế là nguồn thu chủ yếu của NSNN
Thuế đóng vai trò quan trọng trong việc phân phối lại thu nhập quốc dân, tạo ra nguồn tài chính lớn cho ngân sách nhà nước (NSNN) phục vụ chi tiêu công cộng NSNN được hình thành từ nhiều nguồn thu khác nhau, trong đó thuế chiếm tỷ trọng cao nhất và là nguồn thu ổn định nhất Việc lập kế hoạch thuế dựa trên dự báo kinh tế hàng năm giúp tối ưu hóa tiềm năng phát triển của đất nước (Tổng cục thuế, 2003b).
-Thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội
Nền kinh tế thị trường thường gặp phải khiếm khuyết lớn về sự chênh lệch thu nhập và mức sống giữa các tầng lớp dân cư Khi kinh tế phát triển, sự phân hóa giàu – nghèo càng gia tăng, dẫn đến bất bình đẳng xã hội Sự phát triển của một quốc gia là thành quả của nỗ lực cộng đồng, và việc không chia sẻ thành quả này sẽ tạo ra sự đối lập về quyền lợi và tài sản, gây bất ổn xã hội Do đó, Nhà nước cần can thiệp vào quá trình phân phối thu nhập và tài sản, trong đó thuế đóng vai trò quan trọng để điều chỉnh sự phân hóa này.
Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) là một trong những sắc thuế trực thu quan trọng, sử dụng thuế suất lũy tiến nhằm điều tiết thu nhập và đảm bảo công bằng xã hội.
Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Kinh nghiệm về quản lý thuế đối với hộ sản xuất kinh doanh trên thế giới
Sự phát triển kinh tế ấn tượng của Trung Quốc đã thu hút sự chú ý toàn cầu, trong đó chính sách thuế đóng vai trò quan trọng trong chiến lược kinh tế vĩ mô của Chính phủ Việt Nam có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc về kinh tế, xã hội và văn hóa, do đó, những kinh nghiệm của Trung Quốc có thể mang lại bài học quý giá cho Việt Nam Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống thuế hợp lý, góp phần vào việc hình thành nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Hệ thống thuế của Trung Quốc đã phát triển hơn 30 năm từ khi thực hiện chính sách cải cách và mở cửa, đặc biệt là sau cuộc cải cách thuế năm 1994 Hệ thống này chủ yếu bao gồm hai loại thuế: thuế doanh thu áp dụng cho hàng hóa và dịch vụ, và thuế thu nhập đánh trên cá nhân và doanh nghiệp Ngoài ra, còn có một số loại thuế khác liên quan đến tài sản, tài nguyên thiên nhiên và các hoạt động biểu diễn, với doanh thu từ những loại thuế này thường được phân bổ cho ngân sách địa phương.
Hiện nay, Trung Quốc có khoảng 20 loại thuế, trong đó Cục quản lý thuế quốc gia (SAT) quản lý 18 loại Các loại thuế này bao gồm thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế môn bài, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế nhà đất, thuế bất động sản tại thành phố, thuế sử dụng đất đô thị và nông nghiệp, thuế chuyển nhượng, thuế tài nguyên, thuế tàu thuyền và xe cơ giới, thuế mua xe cơ giới, thuế tăng giá trị đất đai, thuế trước bạ, thuế xây dựng và bảo trì thành thị, thuế thuốc lá, và thuế sửa đổi hướng đầu tư tài sản cố định Tổng cục Hải quan quản lý thuế xuất nhập khẩu và thuế cước chuyên chở.
Doanh thu thuế ở Trung Quốc được hình thành từ ba nguồn ngân sách chính: thu nhập cố định của chính phủ, thu nhập cố định của chính quyền địa phương và thu nhập chia sẻ giữa chính phủ và địa phương Trong đó, thu nhập cố định của chính phủ bao gồm các loại thuế như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế mua xe cơ giới, thuế xuất nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng trên hàng hóa nhập khẩu, tất cả đều được Tổng cục Hải quan thu hộ cho SAT.
Thu nhập cố định của địa phương bao gồm nhiều loại thuế như thuế sử dụng đất đô thị, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tăng giá trị đất đai, thuế nhà đất, thuế bất động sản, thuế tàu thuyền, xe cơ giới, thuế chuyển nhượng và thuế thuốc lá Đối với thuế giá trị gia tăng, 75% thuộc về ngân sách trung ương và 25% thuộc về ngân sách địa phương Chính quyền trung ương quản lý thuế kinh doanh từ Bộ đường sắt, các ngân hàng và công ty bảo hiểm, trong khi địa phương thu thuế kinh doanh từ các doanh nghiệp khác Thuế thu nhập doanh nghiệp chủ yếu được thu từ các doanh nghiệp lớn như ngân hàng và công ty khai thác dầu khí, với tỷ lệ phân chia 60%-40% giữa chính phủ và chính quyền địa phương.
Bộ Tài chính chịu trách nhiệm xây dựng chính sách thuế, Tổng cục Thuế Nhà nước chịu trách nhiệm thu thuế
Vào tháng 11 năm 2008, chính phủ Trung Quốc đã công bố gói kích thích kinh tế trị giá 586 tỷ đô la Mỹ, trong đó bao gồm kế hoạch cải cách hệ thống thuế giá trị gia tăng (GTGT) và có khả năng cắt giảm thuế doanh nghiệp lên tới 120 tỷ nhân dân tệ (Vũ Thiện Tiềm, 2011).
Pháp luật Trung Quốc cho phép các Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xây dựng quy định về thuế địa phương, nhưng những quy định này phải tuân thủ khuôn khổ của luật thuế quốc gia (Vũ Thiện Tiềm, 2011).
2.2.2 Kinh nghiệm quản lý thuế đối với hộ sản xuất kinh doanh của một số địa phương trong nước
2.2.2.1 Kinh nghiệm của Chi cục thuế huyện Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn
Năm 2013, Chi cục thuế huyện Hữu Lũng ghi nhận mức thu từ khu vực kinh tế hộ kinh doanh cá thể tăng 20% so với dự toán và tăng 6% so với năm 2012 Tuy nhiên, vẫn tồn tại hiện tượng thất thu thuế và doanh thu tính thuế chưa chính xác Nguyên nhân chủ yếu là do một số cán bộ thuế chưa thực hiện tốt quy trình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh, cũng như chưa kiên quyết trong việc xử lý các hành vi chây ỳ trong kê khai thuế Ngoài ra, nhiều hộ kinh doanh chưa thực hiện hoặc thực hiện không đầy đủ chế độ kế toán và hóa đơn chứng từ, dẫn đến việc áp dụng biện pháp khoán doanh thu vẫn còn phổ biến.
Bước vào năm 2014, Chi cục thuế huyện Hữu Lũng đã đề ra và thực hiện các biện pháp sau:
Lập và duyệt bộ thuế môn bài cùng thuế hộ cá thể, thông báo mức thuế hàng tháng hoặc theo quý cho từng hộ, cá nhân sản xuất kinh doanh và dịch vụ, nhằm tạo điều kiện cho các hộ chủ động nộp thuế kịp thời vào ngân sách nhà nước.
Để nâng cao ý thức chấp hành nghĩa vụ thuế, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách pháp luật thuế, đồng thời vận động và thuyết phục người dân thực hiện đầy đủ nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Cần tăng cường công tác thanh tra và kiểm tra thuế, kiên quyết xử lý các vi phạm của hộ kinh doanh theo quy định của luật quản lý thuế Điều này nhằm ngăn chặn tình trạng trốn thuế của các hộ kinh doanh lợi dụng danh nghĩa doanh nghiệp và tổ chức kinh tế để né tránh nghĩa vụ nộp thuế.
Để quản lý hiệu quả thuế đối với các hộ kinh doanh trên địa bàn, cần phối hợp chặt chẽ với các ngành liên quan và UBND các xã, thị trấn (Vũ Thiện Tiềm, 2011).
2.2.2.2 Kinh nghiệm của Chi cục thuế thành phố Đông Hưng – Thái Bình
Năm 2015, Chi cục Thuế thành phố Đông Hưng – Thái Bình đã đạt được mức thu từ khu vực hộ sản xuất kinh doanh tăng 23% so với dự toán và 7,1% so với cùng kỳ Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục, bao gồm hiện tượng thất thu thuế từ hộ kinh doanh và doanh thu tính thuế Nguyên nhân chủ yếu là do một số cán bộ thuế chưa thực hiện tốt quy trình quản lý thuế, chưa mạnh mẽ đấu tranh với các hành vi chây ỳ trong kê khai thuế, cùng với việc một số hộ kinh doanh lợi dụng danh nghĩa doanh nghiệp, HTX để trốn thuế Ngoài ra, nhiều hộ kinh doanh chưa thực hiện đầy đủ chế độ kế toán và hóa đơn chứng từ, dẫn đến việc áp dụng biện pháp khoán doanh thu vẫn phổ biến.
Bước vào năm 2016, Chi cục Thuế Đông Hưng đã đề ra và thực hiện các biện pháp sau:
Trong quý I, các cơ quan chức năng sẽ lập và duyệt bộ thuế môn bài cùng với thuế hộ sản xuất kinh doanh, thông báo mức thuế hàng tháng đến từng hộ và cá nhân hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, nhằm tạo điều kiện cho họ nộp thuế đúng hạn vào ngân sách nhà nước Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chính sách pháp luật thuế, đặc biệt là các luật liên quan như Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp sửa đổi và Luật thuế thu nhập cá nhân, thông qua nhiều hình thức khác nhau, kết hợp với việc vận động và thuyết phục người dân thực hiện nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước.
Chủ động đề xuất các biện pháp quản lý và chỉ đạo thu để khai thác triệt để các nguồn thu, đồng thời tận dụng sự lãnh đạo của cấp uỷ và chính quyền các cấp cũng như ngành dọc cấp trên.