Tổng quan các vấn đề nghiên cứu
Cơ sở lý luận các vấn đề liên quan đến khiếu nại, tố cáo về đất đai
2.1.1 Khiếu nại và giải quyết khiếu nại về đất đai
Theo khoản 1 Điều 2 Luật Khiếu nại 2011, khiếu nại đất đai được định nghĩa là việc người sử dụng đất và các cá nhân có quyền lợi liên quan yêu cầu cơ quan có thẩm quyền xem xét lại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai Khi có căn cứ cho rằng những quyết định hoặc hành vi này vi phạm pháp luật và xâm phạm quyền lợi hợp pháp của họ, người dân có quyền thực hiện khiếu nại theo quy định của Luật Khiếu nại.
Khái niệm khiếu nại của Nhà nước Việt Nam lần đầu tiên được đề cập trong Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 do Chủ tịch Hồ Chí Minh ký, quy định rằng Ban Thanh tra đặc biệt có quyền nhận các đơn khiếu nại của nhân dân Khiếu nại này phản ánh sự bất bình của công dân đối với các hành vi vi phạm pháp luật hoặc xâm phạm quyền lợi của họ do cán bộ, nhân viên nhà nước thực hiện trong bộ máy chính quyền Thực chất, đây là sự phản ánh những hành vi sai trái xảy ra trong hệ thống hành chính nhà nước.
Trong quản lý và sử dụng đất, việc giải quyết khiếu nại là cần thiết để đảm bảo quan hệ giữa Nhà nước và người sử dụng đất, cũng như giữa các cá nhân sử dụng đất được thực hiện theo đúng chính sách và pháp luật Theo Khoản 2 Điều 264 của Luật Tố tụng Hành chính số 64/2010/QH12, người sử dụng đất có quyền khiếu nại quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính liên quan đến quản lý đất đai, nhằm bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình (Quốc hội, 2010).
Quyết định hành chính (QĐHC) là văn bản được ban hành bởi cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền để giải quyết các vấn đề cụ thể trong quản lý hành chính, áp dụng một lần cho một hoặc một số đối tượng nhất định Hành vi hành chính (HVHC) là việc thực hiện hoặc không thực hiện nhiệm vụ theo quy định của pháp luật bởi cơ quan hoặc người có thẩm quyền Các QĐHC và HVHC có thể bị khiếu nại theo Điều 162 Nghị định 181/2004/NĐ-CP, bao gồm các quyết định liên quan đến quản lý đất đai như giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
HVHC trong quản lý đất đai, theo quy định của pháp luật, bao gồm hành vi của cán bộ công chức nhà nước liên quan đến các quyết định hành chính như giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất, và chuyển mục đích sử dụng đất Các hành vi này cũng bao gồm cấp và thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, và gia hạn thời gian sử dụng đất Khi có khiếu nại liên quan đến các quyết định và hành vi này, việc giải quyết sẽ tuân theo quy định của Luật Đất đai và Luật Khiếu nại 2011.
Giải quyết khiếu nại bao gồm các bước thụ lý, xác minh, kết luận và ra quyết định Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được quy định bởi pháp luật, theo Khoản 6 và Khoản 11, Điều 2 của Luật Khiếu nại 2011.
Giải quyết khiếu nại về đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước (HCNN) là quá trình kiểm tra và xác minh tính hợp pháp, hợp lý của quyết định hành chính (QĐHC) và hành vi hành chính (HVHC) liên quan đến đất đai Hoạt động này nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức, cũng như lợi ích chung của nhà nước và xã hội, theo quy định của pháp luật.
Cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại đất đai, thực hiện nhiệm vụ và trách nhiệm trong việc xem xét tính hợp pháp, hợp lý của các quyết định hành chính liên quan đến quản lý và sử dụng đất Việc này được thực hiện theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người sử dụng đất.
Các bước khiếu nại hành chính, giải quyết khiếu nại hành chính theo quy định hiện hành như sau:
Hình 2.1 Sơ đồ Các bước khiếu nại hành chính, giải quyết khiếu nại hành chính 2.1.2 Tố cáo và giải quyết tố cáo về đất đai
Khoản 1 Điều 30 Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá nhân” Theo đó, Hiến pháp năm 2013 đã có điểm mới so với Hiến pháp năm 1992 trong đó quy định quyền tố cáo là quyền con người chứ không chỉ dừng lại ở quyền công dân; đồng thời đề cao vấn đề thực thi quyền con người, quyền công dân… Mặt khác, những sửa đổi, bổ sung về thẩm quyền, trình tự, thủ tục tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 cũng liên quan đến việc xác định trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết tố cáo của người dân trong Luật Tố cáo.
Tố cáo là hành động mà cá nhân thông báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền về các hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào Những hành vi này có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ quan, tổ chức, cá nhân Việc tố cáo bao gồm cả những hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và công vụ.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về quản lý nhà nước trong các lĩnh vực.
Tố cáo là hành động mà công dân thực hiện theo quy định của pháp luật, nhằm thông báo cho cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có thẩm quyền về những hành vi vi phạm pháp luật của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào Những hành vi này có thể gây thiệt hại hoặc đe dọa đến lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan và tổ chức, theo Khoản 1, Điều 2, Luật Tố cáo năm 2018.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, mọi công dân có quyền báo cáo hành vi vi phạm pháp luật (VPPL) liên quan đến quản lý và sử dụng đất, nếu hành vi đó gây thiệt hại hoặc đe dọa lợi ích của Nhà nước, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức Việc tố cáo hành vi VPPL của cán bộ, công chức, viên chức trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công vụ là cách mà công dân thông báo cho cơ quan có thẩm quyền về những hành vi vi phạm này để được giải quyết theo quy định pháp luật.
Giải quyết tố cáo là quá trình tiếp nhận, xác minh và xử lý nội dung tố cáo, trong đó người tố cáo là công dân thực hiện quyền của mình, còn người bị tố cáo là cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân có hành vi bị tố cáo Theo Điều 139 của Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 205 Luật Đất đai 2013), cá nhân có quyền tố cáo về quản lý và sử dụng đất đai, và việc giải quyết các tố cáo này phải tuân theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo Quy định này chỉ rõ rằng thẩm quyền và trình tự giải quyết tố cáo liên quan đến đất đai sẽ thực hiện theo các quy định của Luật Tố cáo.
Tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước về đất đai là việc công dân thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những hành vi vi phạm của các tổ chức, cá nhân liên quan đến việc tuân thủ quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Giải quyết tố cáo trong lĩnh vực đất đai của các cơ quan hành chính nhà nước bao gồm việc kiểm tra và xác minh tính hợp pháp của hành vi bị tố cáo Các cơ quan này có trách nhiệm đưa ra kết luận và áp dụng biện pháp giải quyết theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, các hội, cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan và tổ chức.
2.1.3 Một số khái niệm liên quan đến đất đai và nội dung khiếu nại, tố cáo
Cơ sở thực tiễn về giải quyết khiếu nại, tố cáo ở một số nước trên thế giới
SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
Giải quyết khiếu nại tố cáo là vấn đề được nhiều quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, chú trọng nghiên cứu Các nước đã xây dựng mô hình và cơ chế giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính nhà nước, nhằm đảm bảo quy trình giải quyết khiếu nại tố cáo diễn ra một cách khách quan, dân chủ và công khai, tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Trên toàn cầu, việc xử lý các khiếu nại hành chính đã có lịch sử lâu dài và hiện đang diễn ra một cách có tổ chức Tuy nhiên, bên cạnh việc xác định rõ thẩm quyền giải quyết, vẫn còn nhiều thách thức cần phải vượt qua.
Nhiều quốc gia vẫn coi trọng việc giải quyết khiếu nại hành chính, với một số nước yêu cầu phải thực hiện thủ tục này trước khi khởi kiện tại Tòa án Công dân có quyền lựa chọn khiếu nại đến cơ quan hành chính đã ban hành quyết định hoặc thực hiện hành vi hành chính Đáng chú ý, ngay cả khi khiếu nại đã được giải quyết, đương sự vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án hành chính Việc nghiên cứu cách thức tổ chức giải quyết khiếu nại hành chính ở một số nước sẽ giúp hiểu rõ hơn về vấn đề này.
2.2.1 Nhật Bản Ở Nhật Bản, để giải quyết KNHC, năm 1962 Nhật Bản ban hành Luật Thẩm tra hành chính, từ đó đến nay đã sửa đổi, bổ sung, song không nhiều Theo đó, giải quyết KNHC chủ yếu được thông qua hoạt động tư vấn hành chính do các chuyên gia tư vấn hành chính thực hiện Hiến pháp của Nhật Bản cho phép người dân có quyền biểu thị chính kiến của mình bằng phương pháp trưng cầu dân ý về mọi lĩnh vực và đặc biệt là về sự tồn tại của chính quyền Công dân có quyền khiếu nại bất cứ hành vi và quyết định nào của Nhà nước kể cả các văn bản qui phạm pháp luật, các chính sách của Nhà nước nếu như họ cho rằng những hoạt động đó ảnh hưởng bất lợi đến quyền và lợi ích của họ Hệ thống các cơ quan tiếp nhận và giải quyết KNHC của Nhật Bản được tổ chức thực sự đầy đủ, toàn diện và linh hoạt ở cả hệ thống hành pháp, tư pháp và lập pháp đảm bảo bất cứ một khiếu nại nào của người dân cũng được xem xét thấu đáo và thoả đáng.
Tại Nhật Bản, khoảng 32 địa phương đã thành lập cơ quan Thanh tra để tiếp nhận và giải quyết các khiếu nại của người dân Ngoài ra, các cơ quan Trung ương cũng có bộ phận tiếp nhận đơn thư tại hầu hết các cơ quan hành pháp, lập pháp và tư pháp.
Bộ Nội vụ và Truyền thông có Cục Đánh giá hành chính, chuyên trách tiếp nhận và xử lý đơn khiếu nại từ công dân gửi đến các cơ quan hành chính Khi nhận đơn, bộ phận tiếp nhận sẽ phân tích và chuyển đến các cơ quan có thẩm quyền để giải quyết Để nâng cao hiệu quả, Bộ đã thành lập 50 Văn phòng đại diện tại hầu hết các tỉnh, thành phố để tiếp nhận và giải quyết khiếu nại Ngoài ra, Bộ còn có Hội cứu trợ hành chính tư vấn cho các vụ việc phức tạp liên quan đến nhiều lĩnh vực Khoảng 5000 người, chủ yếu là cán bộ hưu trí, cũng tham gia tiếp nhận khiếu nại mà không nhận lương, được ủy quyền bởi Bộ trưởng Chức năng chính của Cục là tiếp nhận, tư vấn và chuyển đơn cho các cơ quan trung ương, đồng thời thông báo kết quả cho công dân Nếu thông báo không được thực hiện, lý do phải được nêu rõ và nếu không có phản hồi, vụ việc sẽ được báo cáo lên cấp trên để xem xét.
Công dân có quyền khiếu nại tới cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) cấp trên hoặc ủy quyền cho Luật sư Trong quá trình giải quyết, CQHC có thẩm quyền sẽ thẩm tra nội dung khiếu nại và tổ chức buổi làm việc để công dân trình bày yêu cầu, đồng thời yêu cầu CQHC có quyết định hành chính (QĐHC) bị khiếu nại giải thích lý do ra quyết định đó Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cũng được tham gia CQHC có thẩm quyền sẽ ra quyết định bãi khiếu nại nếu có đủ căn cứ vi phạm thủ tục hoặc chấm dứt khiếu nại nếu không có cơ sở Nếu phát hiện vi phạm pháp luật, CQHC cấp dưới sẽ bị yêu cầu hủy bỏ hoặc sửa đổi QĐHC Nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại, công dân có quyền khởi kiện tại Tòa án.
Nhật Bản hiện có 50 Chi nhánh tư vấn hành chính trên toàn quốc với khoảng 5000 chuyên gia tư vấn, bao gồm những người đã nghỉ hưu, luật sư và giáo sư, tham gia tự nguyện Công chức nhà nước không được phép làm chuyên gia tư vấn hành chính, và danh sách ứng viên phải được Bộ Quản lý công cộng, Nội vụ, Bưu điện và Viễn thông phê duyệt Nhiệm vụ của các chuyên gia này là tiếp nhận khiếu nại từ công dân; nếu khiếu nại không có cơ sở, họ sẽ giải thích và trả lời, còn nếu có cơ sở hoặc vụ việc phức tạp, họ sẽ chuyển tiếp đến cơ quan có thẩm quyền.
Cơ quan Đánh giá hành chính tại địa phương và Trung ương có trách nhiệm yêu cầu các CQHC giải quyết, điều chỉnh quyết định quản lý và trả lời công dân thông qua các chuyên gia tư vấn Hoạt động tư vấn hành chính ở Nhật Bản đã giúp giảm khoảng 50% vụ việc KNHC trong giai đoạn tư vấn, nhờ vào cơ chế tư vấn hàng năm Kinh phí cho hoạt động này chủ yếu đến từ hội phí và tiền chi trả của Nhà nước, mặc dù có sự hỗ trợ nhỏ từ Nhà nước Tư vấn hành chính diễn ra trung lập và miễn phí, nhưng chuyên gia tư vấn được Nhà nước chi trả chi phí thực tế Nghị viện Nhật Bản cũng đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết KNHC, công dân có quyền đệ trình khiếu nại nhưng cần có sự giới thiệu của ít nhất một Nghị sĩ Đơn khiếu nại sẽ được xem xét và xử lý thông qua hình thức bỏ phiếu, những khiếu nại phù hợp sẽ được gửi cho Nội các để giải quyết theo quy định.
2.2.2 Cộng hòa Liên bang Đức
Tại Đức, công dân có quyền khiếu nại để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm bởi hoạt động của các cơ quan nhà nước Pháp luật Đức công nhận khiếu nại đối với các hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp, trong đó khiếu nại đối với quyết định hành chính và hành vi hành chính chiếm tỷ lệ lớn Ngoài cơ chế giải quyết khiếu nại của cơ quan nhà nước, còn có thủ tục tố tụng tại Tòa án thông qua việc thành lập Tòa hành chính độc lập, tạo ra một cơ chế giải quyết hiệu quả và khách quan cho công dân Tòa hành chính được tổ chức thành ba cấp xét xử: Tòa hành chính sơ thẩm tại quận, huyện; Tòa hành chính phúc thẩm tại tỉnh; và Tòa hành chính tối cao thuộc Nhà nước Liên bang.
Tòa hành chính có thẩm quyền xét xử các khiếu kiện của công dân liên quan đến quyết định hành chính cá biệt và hành vi hành chính của nhân viên cơ quan công quyền, nhưng không xem xét các khiếu kiện đối với văn bản quy phạm pháp luật Ngoài ra, Tòa cũng giải quyết các yêu cầu bồi thường thiệt hại phát sinh từ quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính Tóm lại, Tòa án hành chính xử lý các khiếu kiện thuộc lĩnh vực Luật Công mà không liên quan đến Hiến pháp và không nằm trong thẩm quyền được giao bởi đạo luật của Liên bang.
Trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại hành chính (KNHC) bắt đầu từ việc người khiếu nại gửi đơn đến cơ quan hành chính nhà nước (CQHCNN) có quyết định hành chính (QĐHC) hoặc hành vi hành chính (HVHC) vi phạm pháp luật Trong quá trình xem xét, nếu phát hiện QĐHC hoặc HVHC trái pháp luật, CQHCNN phải thu hồi, sửa đổi hoặc chấm dứt quyết định/hành vi đó Nếu gây thiệt hại, CQHCNN phải bồi thường cho người khiếu nại, sau đó cá nhân có lỗi phải hoàn trả Để đảm bảo tính khách quan, người khiếu nại có quyền gặp gỡ, trình bày hoặc tranh luận với CQHCNN để thống nhất hướng giải quyết và bồi thường Nếu không đồng ý với quyết định, người khiếu nại có quyền khiếu nại lên CQHCNN cấp trên Nếu vẫn không thỏa đáng, họ có thể khởi kiện tại Tòa hành chính sơ thẩm, và tiếp tục kháng cáo lên Tòa hành chính phúc thẩm, Tòa hành chính tối cao, và cuối cùng là Tòa án Hiến pháp, nơi có quyền xét xử chung thẩm đối với tất cả các vụ kiện hành chính.
Cộng hòa Liên bang Đức sở hữu một hệ thống cơ quan tài phán hành chính hoàn toàn độc lập với Tòa án tư pháp, và cơ quan này không đảm nhận chức năng tư vấn pháp lý Trong hệ thống Tòa án hành chính, các quy trình và quy định được thực hiện một cách rõ ràng và minh bạch.
Việt Nam có 52 Tòa án hành chính khu vực, 16 Tòa án hành chính liên khu vực và một Tòa án hành chính liên bang, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân theo Khoản 4 Điều 19 của Hiến pháp Quyền bảo vệ này đảm bảo công dân được bảo vệ trước tất cả các văn bản hành chính, với các Tòa án có trách nhiệm chống lại mọi hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan hành pháp Các thẩm phán hành chính cần nghiên cứu kỹ nội dung tranh chấp và có thể đưa ra ý kiến về cách giải quyết vụ việc, không bị ràng buộc bởi bằng chứng của các bên Điều này giúp Tòa án hành chính điều chỉnh sự không cân bằng giữa công dân và cơ quan hành chính, hỗ trợ công dân trong quá trình tố tụng (Mạnh Hùng, 2016).
Giải quyết KNHC ở Hàn Quốc do nhiều cơ quan thực hiện: các cơ quan hành chính, cơ quan Chống tham nhũng và Bảo vệ quyền công dân (ACRC) và
Cơ quan thanh tra và kiểm toán tại Hàn Quốc không phân định rõ ràng giữa khiếu nại, tố cáo, phản ánh và kiến nghị Khi người dân có vấn đề cần khiếu kiện, các cơ quan nhà nước xử lý linh hoạt tùy theo từng trường hợp để đạt hiệu quả Hàn Quốc áp dụng nhiều hình thức tiếp nhận và xử lý khiếu nại, trong đó khiếu nại qua mạng đang gia tăng Ngoài ra, có hình thức tiếp nhận khiếu nại lưu động tại các vùng sâu, vùng xa, nơi mà các cơ quan đến tận nơi để lắng nghe và giải quyết vấn đề ngay tại chỗ thông qua việc đối thoại với các bên liên quan, mang tính chất hòa giải và thực hiện tại địa phương.
Cơ sở thực tiễn và tính pháp lý về giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai ở Việt Nam
2.3.1 Chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước trong công tác chỉ đạo giải quyết khiếu nại, tố cáo về đất đai
Khiếu nại và tố cáo là quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp, đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi cá nhân và thể hiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Đây cũng là kênh thông tin phản ánh thực thi quyền lực của nhà nước và tình hình công vụ của cán bộ, công chức Công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không chỉ quan trọng trong quản lý nhà nước mà còn thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân Thông qua việc này, Đảng và Nhà nước có thể kiểm tra tính đúng đắn của chính sách, pháp luật, từ đó hoàn thiện lãnh đạo và nâng cao hiệu quả quản lý Do đó, giải quyết khiếu nại, tố cáo là vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân đặc biệt quan tâm.
Công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại tố cáo luôn được Đảng và Nhà nước Việt Nam chú trọng, thể hiện qua các Hiến pháp từ năm 1959 đến năm 2013 và các văn bản pháp luật khác Đường lối của Đảng nhấn mạnh trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền trong việc thực hiện công tác này, nhằm đảm bảo quyền lợi của công dân và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.
Thời gian qua, tình hình khiếu nại, tố cáo của công dân trên cả nước diễn ra phức tạp, chủ yếu liên quan đến đất đai, đền bù và giải phóng mặt bằng Dù nhiều vụ việc đã được giải quyết, công dân vẫn tiếp tục khiếu kiện, thậm chí có những đoàn đông người đến Trụ sở Tiếp công dân Trung ương mang theo băng rôn, khẩu hiệu và có hành vi quá khích Một số công dân đơn lẻ còn vi phạm pháp luật, đe dọa công chức, ảnh hưởng đến an ninh trật tự Mặc dù Ban Tiếp công dân Trung ương đã phối hợp tuyên truyền, vận động công dân chấp hành pháp luật, tình trạng khiếu kiện vẫn gia tăng, đặc biệt là việc tụ tập đông người tại nhà riêng lãnh đạo Đảng, Nhà nước Các vụ khiếu nại phức tạp chủ yếu liên quan đến bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng cho các dự án đầu tư, tranh chấp đất đai giữa người dân và doanh nghiệp, cũng như giữa người dân địa phương và di cư tự do tại Tây Nguyên.
Ngày 23/11/2012, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Nghị quyết số 39/2012/QH13 nhằm nâng cao hiệu lực và hiệu quả trong việc thực hiện chính sách, pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan đến quyết định hành chính về đất đai Nghị quyết yêu cầu các thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước chủ động xem xét từng vụ việc khiếu nại để giải quyết kịp thời, công khai kết quả, đồng thời tránh để xảy ra tình trạng khiếu kiện vượt cấp và phức tạp Các cơ quan này cũng phải chịu trách nhiệm về việc giải quyết các khiếu nại và tố cáo.
Năm 2012, Chính phủ ban hành Chỉ thị số 14/CT-TTg nhằm nâng cao hiệu quả tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo (KNTC), tập trung vào việc chấn chỉnh quản lý nhà nước về đất đai, xử lý kịp thời các vụ việc KNTC để ngăn chặn tình trạng “điểm nóng” Chỉ thị yêu cầu tăng cường thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của Chủ tịch UBND các cấp, đặc biệt tại những khu vực thường xảy ra KNTC đông người, phức tạp, nhằm ổn định tình hình chính trị - xã hội Tiếp theo, Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị vào năm 2014 nhấn mạnh sự lãnh đạo của Đảng trong công tác tiếp công dân và giải quyết KNTC.
Khiếu nại và tố cáo về đất đai đang đặt ra thách thức lớn cho Đảng và các cơ quan nhà nước, ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị và an toàn xã hội Để giải quyết hiệu quả vấn đề này, các cơ quan nhà nước cần đổi mới phương thức tiếp nhận thông tin từ người dân, từ đó điều chỉnh công tác quản lý nhà nước về đất đai Việc chú trọng đến lợi ích chính đáng của người dân trong quá trình giải quyết khiếu nại sẽ đảm bảo công bằng xã hội và góp phần ổn định an ninh, chính trị trong cả nước.
2.3.2 Các văn bản pháp luật của Nhà nước quy định về việc giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai
Dựa trên các chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan hành chính nhà nước, cùng với trình tự và thủ tục giải quyết khiếu nại, tố cáo Mặc dù một số quy định còn thiếu hợp lý, nhưng nhìn chung các văn bản này đã phản ánh sự phù hợp với thực tiễn từng giai đoạn và thể hiện sự cải cách về cơ chế chính sách, ngày càng minh bạch và có lợi cho người dân Các văn bản pháp luật mới đã khắc phục những mâu thuẫn và bất cập của các quy định trước đó.
Trong giai đoạn từ 01/01/2009 đến 31/12/2013, các văn bản liên quan đến giải quyết khiếu nại, tố cáo do Nhà nước ban hành cho thấy hệ thống pháp luật chưa đồng bộ Nhiều vấn đề mâu thuẫn và thiếu sự thống nhất giữa các văn bản trong hệ thống pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (được sửa đổi và bổ sung năm 2004, 2005) đã hết hiệu lực và có nhiều quy định không thống nhất với Luật Đất đai năm 2003 Cụ thể, sự khác biệt trong trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại về đất đai và quyền khởi kiện tại Tòa án đã hạn chế quyền lợi của người khiếu nại Những mâu thuẫn này, bao gồm các quy định về thời hạn và thời hiệu, gây khó khăn trong việc áp dụng luật để giải quyết các khiếu nại và tố cáo.
Luật Đất đai năm 2003 ra đời vào thời điểm Luật Khiếu nại, tố cáo năm
Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998, mặc dù có một số quy định về giải quyết khiếu nại trong lĩnh vực đất đai, đã trở nên lạc hậu sau khi có sự sửa đổi luật Cần thiết phải điều chỉnh các quy định về “quyết định giải quyết khiếu nại cuối cùng” để phù hợp với thực tiễn hiện nay Chỉ thị số 35-CT/TW của Bộ Chính trị ngày 26/5/2014 đã nhấn mạnh việc hoàn thiện pháp luật về tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, nhằm nâng cao thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan liên quan Từ đó, Luật Tố cáo 2018 đã được ban hành để đáp ứng yêu cầu cải cách này.
Luật Tố tụng hành chính năm 2010, Luật Khiếu nại (2011) và Luật Tố cáo năm 2018 đã tạo ra một khung pháp lý thống nhất hơn cho việc giải quyết khiếu nại và tố cáo Đặc biệt, Luật Đất đai số 45/2013/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/7/2014, đã quy định rõ về quản lý và sử dụng đất, đồng thời tại Chương XIII, Mục 2, Điều 204 và Điều 205, nêu rõ quy trình giải quyết khiếu nại, khiếu kiện và tố cáo liên quan đến đất đai, góp phần khắc phục các mâu thuẫn trước đó.
Bảng 2.1 Danh mục các văn bản pháp luật quy định về giải quyết khiếu nại,
I Một số Luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo
4 31/2019/NĐ-CP ngày 10/04/2019 thành tích trong tố cáo Đang có hiệu lực thi hành
2.3.3 Thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại tố cáo về đất đai hiện nay
Luận văn tốt nghiệp này tập trung vào việc giải quyết khiếu nại tố cáo liên quan đến lĩnh vực đất đai tại các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ở huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội, theo quy định của Luật Đất đai.
Năm 2003, Luật Đất đai 2013, Luật Khiếu nại, Luật Tố cáo, và Điều 264 của Luật Tố tụng hành chính cùng các văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đã đặt nền tảng cho việc giải quyết khiếu nại và tố cáo trong lĩnh vực của Tòa án Bài viết này sẽ không đi sâu vào nghiên cứu chi tiết mà chỉ đề cập đến những kết quả tất yếu nhằm bổ sung và làm rõ vấn đề này.
27 nhà nước về đất đai được quy định tại Mục 2, Chương VI, Điều 6, Luật Đất đai năm 2003 nay là mục 2, Điều 204, 205 Luật đất đai năm 2013.
* Về giải quyết khiếu nại:
Theo pháp luật, vụ việc khiếu nại có thể được giải quyết hai lần tại cơ quan hành chính Người khiếu nại có quyền khởi kiện ra tòa án nếu không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan hành chính, bất kể là lần một hay lần hai.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, thủ trưởng các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu đối với quyết định hành chính và hành vi hành chính của mình cũng như của cán bộ, công chức mà họ quản lý Ngoài ra, họ cũng có trách nhiệm giải quyết khiếu nại lần hai đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính của thủ trưởng cơ quan hành chính nhà nước cấp dưới đã được giải quyết lần đầu nhưng vẫn còn khiếu nại hoặc khiếu nại lần đầu đã hết thời hạn nhưng chưa được giải quyết (Mục 1 Chương III, Luật Khiếu nại 2011).