Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
- Xã Kỳ Trung, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh;
Bài viết tập trung nghiên cứu chi tiết hệ thống cây trồng tại 3 thôn điển hình trong tổng số 5 thôn thuộc xã Kỳ Trung, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Thời gian nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh bao gồm các loại cây trồng chủ yếu có diện tích lớn, đóng vai trò quan trọng trong đời sống của người dân địa phương Những cây trồng này không chỉ cung cấp nguồn thực phẩm mà còn góp phần nâng cao thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống cho cộng đồng.
Nội dung nghiên cứu
3.4.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của xã Kỳ Trung, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh
1.Điều kiện tự nhiên (khí hậu, địa hình, thủy văn, thổ nhưỡng).
2.Tình hình phát triển kinh tế - xã hội.
3.Sự biến đổi khí hậu của huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
3.4.2 Hiện trạng sản xuất nông nghiệp của xã
1 Hệ thống cây trồng: diện tích, năng suất, giá trị kinh tế, biện pháp canh tác…
2.Đặc điểm của các hệ thống cây trồng: vị trí phân bố, diện tích, năng suất, sâu bệnh, sử dụng đất.
3.4.3 Lập bản đồ phân bố hệ thống cây trồng
1.Phân bố không gian của hệ thống cây trồng trên địa bàn nghiên cứu (mô tả vị trí của các loại cây trồng).
Hệ thống cây trồng trong khu vực này có những đặc điểm riêng biệt, phản ánh sự tương tác giữa vị trí địa lý, địa hình và đặc điểm cộng đồng dân cư Đánh giá thuận lợi cho thấy khí hậu và đất đai phù hợp tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp Tuy nhiên, khó khăn như sự đa dạng về địa hình và thói quen canh tác của cư dân cũng ảnh hưởng đến năng suất cây trồng Sự hiểu biết về mối quan hệ này là cần thiết để tối ưu hóa sản xuất nông nghiệp và nâng cao đời sống cộng đồng.
3.4.4 Đánh giá khả năng dễ tổn thương với BĐKH của hệ thống cây trồng
1.Hiệu quả kinh tế, xã hội, môi trường của hệ thống cây trồng.
2.Lịch sử sử dụng đất và lịch sử các sự kiện thời tiết cực đoan (SKTTCĐ).
Lịch canh tác và thời gian xảy ra các sự kiện thời tiết cực đoan có ảnh hưởng lớn đến hệ thống cây trồng Những biến động khí hậu này có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho mùa màng, làm giảm năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp Việc hiểu rõ mối liên hệ giữa lịch canh tác và các hiện tượng thời tiết cực đoan là rất quan trọng để nông dân có thể điều chỉnh phương thức canh tác, từ đó giảm thiểu rủi ro và tối ưu hóa sản xuất.
3.4.5 Các giải pháp nông nghiệp thông minh cho địa bàn nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Cơ sở dữ liệu sử dụng cho đề tài này bao gồm:
- Điều kiện tự nhiên, phát triển kinh tế - xã hội tại xã Kỳ Trung.
- Tình hình sử dụng đất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp của xã Kỳ Trung.
- Dữ liệu khí tượng của tỉnh Hà Tĩnh, trạm Kỳ Anh từ năm 1982 đến năm 2011.
- Cơ sở dữ liệu không gian: bản đồ đất của tỉnh Hà Tĩnh, bản đồ ranh giới hành chính xã Kỳ Trung ở tỷ lệ 1:50 000.
Nguồn tài liệu được thu thập tại các cơ quan chức năng bao gồm: UBND xã
Kỳ Trung…Ngoài ra số liệu thứ cấp còn được thu thập từ kết quả nghiên cứu của
Tổ chức Nông Lâm kết hợp Thế giới tại Việt Nam (ICRAF) và một số trang thông tin mạng đáng tin cậy.
3.5.2 Phương pháp lập bản đồ có sự tham gia của người dân
Phương pháp lập bản đồ có sự tham gia của người dân được áp dụng để xây dựng các bản đồ sau:
- Bản đồ sử dụng đất
- Bản đồ các sự kiện thời tiết cực đoan
- Bản đồ các loại đất cấp thôn
Bản đồ được tạo ra thông qua các cuộc họp nhóm với các thôn, tuân theo hướng dẫn của Simelton và cộng sự (2014) Mỗi thôn mời 7 người dân am hiểu về điều kiện đất đai để thảo luận và vẽ bản đồ trên giấy Ao.
3.5.3 Điều tra lát cắt sinh thái
Việc điều tra lát cắt sinh thái đại diện được thực hiện với sự hỗ trợ của người dân địa phương, thông qua khảo sát và phỏng vấn dọc theo lát cắt để thu thập dữ liệu về đặc điểm hệ sinh thái Các thông tin cần thu thập bao gồm loại cây trồng, điều kiện kinh tế - xã hội, cùng với các yếu tố sản xuất đầu vào và đầu ra Những thông tin này giúp đánh giá khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống cây trồng trước biến đổi khí hậu.
3.5.4 Đánh giá hiệu quả sử dụng đất và khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống cây trồng
Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất được thiết lập dựa trên các chỉ tiêu chính, lấy cảm hứng từ kết quả nghiên cứu trước đó về hệ sinh thái nông nghiệp tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định (Trần Thị Kim Diên, 2014) và ý kiến đóng góp từ người dân.
- Các chỉ tiêu kinh tế (giá trị sản xuất, chi phí trung gian, giá trị gia tăng).
Các chỉ tiêu xã hội bao gồm giá trị ngày công lao động, mức độ phù hợp giữa năng lực của nông hộ và sự chấp nhận của người dân trong việc đưa các loại cây trồng vào sản xuất, cũng như khả năng tiêu thụ sản phẩm.
- Hiệu quả môi trường (Năng suất sinh học, độ che phủ, duy trì bảo vệ và cải thiện độ phì đất).
Mức độ dễ tổn thương của hệ thống cây trồng được xác định qua việc phân tích tác động của các sự kiện thời tiết cực đoan Nghiên cứu này tập trung vào việc đánh giá khả năng dễ bị tổn thương của cây trồng trước những hiện tượng như hạn hán, bão, mưa rét và nắng nóng.
Công cụ PRA được sử dụng để đánh giá mức độ dễ bị tổn thương của các hệ thống sử dụng đất theo hướng dẫn của Simelton và cộng sự (2014) Đại diện lãnh đạo và cộng đồng địa phương sẽ tham gia họp nhóm để liệt kê nguyên nhân và đánh giá ảnh hưởng của các sự kiện thời tiết cực đoan.
Khi lựa chọn người tham gia thảo luận, cần đảm bảo rằng họ đại diện cho các hộ dân làm nông nghiệp điển hình, phản ánh đa dạng hệ thống cây trồng, độ tuổi và giới tính khác nhau.
PHẦN 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội xã kỳ trung
4.1.1 Điều kiện tự nhiên xã Kỳ Trung
Xã Kỳ Trung, thuộc huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, được thành lập vào năm 2004 với diện tích 3.384,7 ha và dân số 1.535 người (theo thống kê năm 2014) Xã được hình thành từ việc sáp nhập đất đai của các xã Kỳ Văn, Kỳ Giang, Kỳ Tây, Kỳ Tiến và Kỳ Phong Về mặt địa lý, phía bắc xã giáp hồ Sông Rác, phía đông giáp các xã Kỳ Văn, Kỳ Thọ, Kỳ Thư, và phía nam giáp xã Kỳ Hợp và Kỳ Tây Địa bàn xã Kỳ Trung chủ yếu được hình thành từ Nông trường 12/9 trước đây.
Xã Kỳ Trung, vào năm 2011, có 7 xóm gồm Trường Sơn, Đông Sơn, Nam Sơn, Tây Sơn, Bắc Sơn, Đất Đỏ và Hậu Cần Tuy nhiên, đến năm 2012-2013, thôn Hậu Cần đã được sát nhập vào thôn Đất Đỏ, giảm số thôn còn lại còn 6 Đến năm 2014, xã tiếp tục thực hiện việc sát nhập và hiện tại chỉ còn 5 thôn là Đất Đỏ, Nam Sơn, Bắc Sơn, Đông Sơn và Trường Sơn.
Hình 4.1 Sơ đồ khu vực nghiên cứu
4.1.1.2 Khí hậu, địa hình, thủy văn, thổ nhưỡng a Khí hậu
Xã Kỳ Trung có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm với hai mùa rõ rệt: mùa hè từ tháng 4 đến tháng 10 và mùa đông từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau Mùa hè đặc trưng bởi nắng gắt, khô hạn và nhiệt độ có thể vượt quá 40°C, cùng với gió phơn Tây Nam Từ cuối tháng 7 đến tháng 10, khu vực thường chịu ảnh hưởng của bão và mưa lớn Trong khi đó, mùa đông có gió mùa Đông Bắc, mang theo gió lạnh và mưa phùn, với nhiệt độ có thể giảm xuống còn 6°C.
Kỳ Trung nằm ở khu vực có địa hình đồi núi cao, với độ cao dao động từ 12 đến 387 m Phía bắc xã giáp hồ Sông Rác, nơi có trữ lượng nước lớn, cùng với một số hồ nước khác như hồ Cơ quan, góp phần tạo nên cảnh quan thiên nhiên phong phú của địa phương.
Xe Máy và một số hệ thống kênh mương, khe suối tự nhiên. c Thổ nhưỡng
Xã Kỳ Trung có ba loại đất chính theo phân loại trên bản đồ các loại đất của
Bộ Nông nghiệp bao gồm các loại đất như đất đỏ vàng trên đá sét, đất đỏ vàng trên đá macma axit, và đất xói mòn trơ sỏi đá Hình 4.2 dưới đây minh họa sự phân bố các loại đất này.
Hình 4.2 Sơ đồ sự phân bố các loại đất tại xã Kỳ Trung
Nguồn: Viện quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp (2013)
Diện tích đất xói mòn trơ sỏi đá rất nhỏ, vì vậy chúng ta chỉ tập trung vào hai loại đất chính: đất đỏ vàng trên đá sét và đất đỏ vàng trên đá macma axit Mỗi loại đất này có những tính chất riêng biệt đáng lưu ý.
Đất đỏ vàng trên đá sét có đặc điểm là tầng đất dày trên 1,5m với thành phần cơ giới trung bình và nặng Đất này thường có kết cấu cụ, hạt và lớp mặt đất tơi xốp Hàm lượng mùn trong đất khá cao, trong khi đạm tổng số ở mức trung bình Tuy nhiên, các chất dinh dưỡng như lân và kali tổng số cũng như dễ tiêu lại nghèo Đất có phản ứng từ chua đến rất chua, với độ no bazo thường dưới 50%.
Đất đỏ vàng trên đá macma axit chủ yếu hình thành từ các loại đá như granit, riolit, và pecmatit, có hàm lượng SiO2 cao Loại đất này thường có kết cấu kém, tầng đất mỏng (thường dưới 1,2m), độ pH chua và độ no bazo dưới 50% Nó nghèo mùn, đạm và lân, nhưng có hàm lượng kali tốt hơn so với đất đỏ vàng trên đá sét Do có hàm lượng cấp hạt sét thấp, đất này có dung tích hấp thu kém, khả năng giữ nước và chất dinh dưỡng hạn chế, dễ bị xói mòn.
Cả hai loại đất này rất phù hợp cho việc trồng rừng và cây công nghiệp lâu năm, đặc biệt là cây chè và cây ăn quả Ngoài ra, chúng cũng thích hợp cho việc phát triển đồng cỏ phục vụ chăn nuôi Tuy nhiên, loại đất này không thích hợp cho việc trồng lúa và các loại cây ngắn ngày.
Xã Kỳ Trung có ba loại đất chính: đất pha cát, đất đỏ vàng và đất đồi đá, với chất lượng được người dân đánh giá lần lượt là tốt, trung bình và kém Diện tích đất pha cát rất nhỏ nhưng có chất lượng tương đối tốt, thích hợp cho việc trồng nhiều loại cây, đặc biệt là lúa và rau màu.
4.1.2 Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
4.1.2.1 Tình hình phát triển kinh tế
Năm 2015, xã đạt tổng giá trị thu nhập 48 tỷ đồng, với thu nhập bình quân đầu người là 35 triệu đồng/năm Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 17%, trong đó cơ cấu kinh tế bao gồm 40,8% nông, lâm nghiệp; 31,9% thương mại dịch vụ; và 27,3% công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản.
Về Nông – Lâm nghiệp – Chăn nuôi: Năm 2015 tổng sản lượng búp chè đạt
Năm 2023, tổng sản lượng lương thực đạt 744,8 tấn, tăng 96 tấn so với năm 2014 Doanh thu từ lâm nghiệp đạt 11,3 tỷ đồng Tổng đàn trâu bò giảm còn 989 con, giảm 130 con so với năm 2014, trong khi đàn lợn giữ ổn định ở mức 1.500 con và đàn gia cầm tăng lên 17.000 con, tăng 400 con so với năm 2014.
Về thương mại – Dịch vụ: Tổng mức bán lẻ hàng hóa dịch vụ trên địa bàn đạt
7,9 tỷ đồng Các công tác quản lý, vệ sinh an toàn thực phẩm, dịch vụ y tế đều thực hiện tốt.
Về Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp: Năm 2015 chế biến được 300 tấn chè thành phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, giá trị công nghiệp đạt: 13 tỷ đồng.
Về quản lý Tài nguyên – Môi trường: Đến năm 2015 đã cấp được 106 bìa đất
Lâm nghiệp đợt 1 cho các hộ, hiện nay đang tiếp tục xây dựng và thẩm định hồ sơ đợt 2 để tiến hành cấp bìa cho nhân dân.
Từ năm 2010 đến năm 2015, cơ cấu kinh tế đã có sự thay đổi đáng kể: tỷ trọng nông nghiệp giảm từ 62% xuống còn 55%, trong khi tiểu thủ công nghiệp và xây dựng tăng từ 18% lên 20%, và thương mại dịch vụ cũng tăng từ 20% lên 25%.
Xã Kỳ Trung tiếp tục thực hiện chương trình xây dựng Nông thôn mới, với 75% nguồn vốn được giải ngân trong năm 2015, đạt 2767/3690 tỷ đồng Công tác mở rộng, làm mới và cải tạo các tuyến đường giao thông trong xã vẫn đang được triển khai Trong năm 2014, xã đã giải phóng và mở rộng 17 tuyến đường theo tiêu chuẩn nông thôn mới, hoàn thành 2398/3915 m đường bê tông ngõ xóm Tính đến năm 2015, xã có 40 hộ nghèo và 30 hộ cận nghèo trong tổng số 551 hộ.
Trên địa bàn xã, hệ thống giáo dục bao gồm một trường mầm non với 6 lớp và 165 học sinh, một trường tiểu học có 9 lớp với 218 học sinh, cùng một trường trung học cơ sở với 4 lớp.
Hiện trạng hệ thống cây trồng tại xã kỳ trung
4.2.1 Hiện trạng sản xuất của các hệ thống cây trồng
Xã Kỳ Trung nổi bật với các loại cây trồng chính như lúa, lạc, sắn, rau màu, cây ăn quả và chè Diện tích trồng cây nông nghiệp chỉ chiếm 151 ha, trong đó lạc chiếm 30 ha, sắn 40 ha, lúa 66 ha và rau màu 15 ha, tương đương 4,46% tổng diện tích Hệ thống rừng tự nhiên và cây lâm nghiệp, bao gồm keo và thông, chiếm diện tích lớn với 1809,4 ha, tương ứng 53,46% Ngoài ra, diện tích đất trồng chè khoảng 152 ha, chiếm 4,5% tổng diện tích (thống kê năm 2015).
Theo báo cáo thống kê về tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội - quốc phòng - an ninh của xã Kỳ Trung trong giai đoạn 2010, các kết quả cho thấy sự tiến bộ trong nhiều lĩnh vực, đồng thời cũng chỉ ra những thách thức cần được giải quyết để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
2011, 2012, 2013, 2014, 2015 ta có bảng 4.3 diện tích và năng suất của một số loại cây trồng nông nghiệp:
Bảng 4.3 Diện tích và năng suất của một số loại cây trồng nông nghiệp qua các năm của xã Kỳ Trung
Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất nông nghiệp các năm
Theo bảng thống kê, diện tích và năng suất cây trồng qua các năm không có sự thay đổi lớn Tuy nhiên, lúa đã ghi nhận sự giảm năng suất vào năm 2015 so với các năm trước.
2013 và 2014 Người dân địa phương cho rằng nguyên nhân là do năm 2015 thời tiết diễn biến thất thường gây ảnh hưởng đến năng suất cây trồng.
Theo thống kê năm 2014, Ban Quản lý rừng phòng hộ Nam Hà Tĩnh quản lý 616,7 ha rừng, trong khi UBND xã quản lý 1192,7 ha Hàng năm, xã trồng mới từ 50 đến 100 ha rừng keo trên đất trống và đồi trọc, trong khi diện tích rừng thông khoảng 140 ha chủ yếu ở thôn Trường Sơn, không trồng mới thêm, cho sản lượng nhựa thông từ 25 đến 27 tấn mỗi năm Đối với cây chè, diện tích gieo trồng ổn định khoảng 150 ha với năng suất từ 1000 đến 1200 tấn/năm, và trung bình có 5 ha chè mới được trồng hoặc trồng dặm hàng năm Về cây ăn quả, xã trồng nhiều loại như vải, cam Bù, cam Vân Du, bưởi Phúc Trạch, mít, chuối, nhưng diện tích nhỏ và chủ yếu trong vườn nhà Hiện tại, xã khuyến khích mở rộng mô hình trồng bưởi Phúc Trạch, nhiều hộ dân đã tham gia trồng thử nghiệm từ 5 đến 7 sào.
4.2.2 Các hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung
Theo kết quả điều tra thực địa, xã Kỳ Trung có bốn hệ thống cây trồng chủ yếu gồm chè, lúa, lạc, sắn và cây lâm nghiệp như keo và thông Đặc điểm của các hệ thống cây trồng này được thể hiện rõ trong bảng 4.4.
Bảng 4.4 Đặc điểm của hệ thống cây trồng hiện tại ở xã Kỳ Trung Đặc điểm Độ cao (m)
Nguồn: Báo cáo kết quả sản xuất nông nghiệp xã Kỳ Trung
Cây lúa thường được trồng ở những khu vực có độ cao dưới 40 m, chủ yếu là các vùng trũng gần nguồn nước và trên đất phù sa hoặc đất pha cát Việc tưới tiêu hoàn toàn phụ thuộc vào nước mưa, do đó trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt, nhiều khu vực chỉ có thể trồng lúa một vụ vào mùa đông – xuân Những nơi gần khe suối hoặc hồ nước có thể trồng hai vụ lúa trong năm, nhưng năng suất vụ hè – thu thường thấp hơn nhiều so với vụ đông – xuân Diện tích trồng lúa tương đối ít và phân bố thành những mảnh nhỏ rải rác trên toàn xã.
Lạc và sắn thường được trồng gần nhà trong khu vực dân cư với diện tích nhỏ lẻ, không tập trung Đất trồng lạc và sắn chủ yếu là đất đỏ vàng, và việc tưới tiêu hoàn toàn phụ thuộc vào nước mưa Lạc thường được gieo trồng vào vụ xuân và thu hoạch vào mùa hè, do đó ít bị ảnh hưởng bởi hạn hán Sắn là cây trồng có khả năng chịu hạn tốt, nên không gặp nhiều khó khăn trong điều kiện khô hạn Tại xã hiện nay, mô hình xen canh lạc và sắn (1 hàng sắn + 3 hàng lạc hoặc 1 hàng sắn + 4 hàng lạc) được áp dụng, mặc dù năng suất thấp hơn nhưng mang lại thu nhập cao hơn.
Chè là cây trồng chủ lực tại vùng đất đỏ vàng, mang lại nguồn thu nhập chính cho người dân Loại cây này có khả năng chịu hạn tốt, không cần tưới nước thường xuyên nhờ vào lượng mưa tự nhiên Chè được thu hoạch quanh năm, ngoại trừ tháng 1 và tháng 12 để thực hiện việc đốn tạo tán Thường được trồng ở độ cao từ 40 – 50 m trên sườn đồi, cây chè có tuổi thọ từ 40 đến 50 năm và bắt đầu cho thu hoạch sau 3 năm trồng Hàng năm, xã vẫn duy trì việc trồng mới hoặc trồng dặm khoảng 4 – 5 ha để bù đắp cho số cây chè bị chết do bệnh tật hoặc hạn hán.
Cây lâm nghiệp chủ yếu gồm cây thông và cây keo, thường được trồng trên đỉnh đồi với đất đỏ vàng và nhiều đá, nơi khó trồng cây khác Cây thông bắt đầu cho khai thác nhựa khi đạt đường kính 20 – 25 cm, nhưng do sâu bệnh, thu nhập từ nhựa thông giảm và không còn là nguồn thu nhập chính của người dân, dẫn đến diện tích cây thông thu hẹp Ngược lại, cây keo có thời gian thu hoạch ngắn từ 4 đến 6 năm, dễ chăm sóc, nên diện tích trồng keo ngày càng tăng, với khoảng 50 đến 100 ha rừng keo mới được trồng mỗi năm tại xã Kỳ Trung.
Đến năm 2015, xã Kỳ Trung còn 491 ha rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, giảm 126 ha so với năm 2014 do việc phá rừng để trồng keo Chất lượng rừng tự nhiên tại đây tương đối thấp, chủ yếu bao gồm cây thân gỗ nhỏ, cây bụi, cây dây leo và chuối rừng.
4.2.3 Sự phân bố các hệ thống cây trồng
4.2.3.1 Bản đồ các loại đất
Theo bản đồ đất của tỉnh Hà Tĩnh từ Viện quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp, xã Kỳ Trung có ba loại đất chính: đất đỏ vàng trên đá sét, đất đỏ vàng trên đá macma axit và đất xói mòn trơ sỏi đá Trong đó, loại đất đỏ vàng trên đá macma axit chiếm diện tích lớn nhất, tiếp theo là đất đỏ vàng trên đá sét, trong khi diện tích đất xói mòn trơ sỏi đá là không đáng kể.
Kết quả khảo sát thực địa và thảo luận nhóm cho thấy, tại xã Kỳ Trung, ngoài các loại đất chính đã đề cập, còn tồn tại một diện tích nhỏ đất phù sa và đất pha cát ở các khu vực trồng lúa Sự phân bố các loại đất này được thể hiện rõ trong bản đồ 4.8, bản đồ các loại đất có sự tham gia của người dân.
Hình 4.8 Sơ đồ các loại đất có sự tham gia của người dân tại xã Kỳ Trung
Các khu vực đất phù sa hoặc đất pha cát được đánh dấu bằng màu nâu, nơi người dân trồng lúa một vụ hoặc hai vụ Trong khi đó, những khu vực có màu đỏ cam là đất đỏ vàng, chủ yếu được sử dụng để trồng chè.
Còn những khu vực có màu cam là khu vực được người dân cho là đất đồi đá và keo được trồng trên những khu vực này.
Kết quả điều tra thực địa cho thấy lúa được trồng ở những khu vực đất pha cát và đất phù sa theo nhận định của người dân Trong khi đó, chè, lạc, và sắn được trồng trên đất đỏ vàng với ít đá dăm nhỏ Đặc biệt, keo được trồng ở đỉnh đồi nơi có đất đỏ vàng lẫn nhiều đá lớn, mà người dân gọi là đất đồi đá.
4.2.3.2 Bản đồ phân bố các hệ thống cây trồng
Nghiên cứu được thực hiện tại ba thôn thuộc xã Kỳ Trung: Đất Đỏ, Đông Sơn, và Trường Sơn Bản đồ thể hiện sự phân bố của các hệ thống cây trồng tại ba thôn này đã được xây dựng với sự tham gia của người dân.
Hình 4.9 Sơ đồ sự phân bố của các loại cây trồng
Bản đồ chi tiết sự phân bố của các loại cây trồng ở ba thôn điều tra được thể hiện rõ trong hình 4.10, 4.11, 4.12 dưới đây:
Hình 4.10 Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất và sự phân bố các sự kiện thời tiết cực đoan tại thôn Đất Đỏ năm 2015
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
Hình 4.11 Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất và sự phân bố các sự kiện thời tiết cực đoan tại thôn Đông Sơn năm 2015
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
Hình 4.12 Sơ đồ hiện trạng sử dụng đất và Sự phân bố các sự kiện thời tiết cực đoan tại thôn Trường Sơn năm 2015
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
Khả năng dễ bị tổn thương của hệ thống cây trồng tại xã kỳ trung
Các chỉ tiêu kinh tế, xã hội và môi trường được xác định dựa trên kết quả nghiên cứu trước đó về tình trạng hệ sinh thái nông nghiệp tại huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định (Trần Thị Kim Diên, 2014) cùng với ý kiến đóng góp từ cộng đồng dân cư.
4.3.1 Hiệu quả kinh tế của các hệ thống cây trồng ở xã Kỳ Trung
Hiệu quả kinh tế của các hệ thống cây trồng chính tại xã Kỳ Trung được đánh giá dựa trên thông tin và số liệu sản xuất do người dân cung cấp trong các buổi thảo luận nhóm Các chỉ tiêu đánh giá bao gồm giá trị sản xuất, giá trị gia tăng và hiệu quả đầu tư, được định lượng bằng tiền theo đơn giá hiện hành năm 2015 Các chỉ tiêu này được phân loại thành 3 mức: Cao (C), trung bình (TB) và thấp (T), với giá trị cụ thể cho mỗi loại chỉ tiêu được trình bày trong bảng 4.5.
Bảng 4.5 Bảng phân cấp chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung
Chỉ tiêu Cây trồng hàng năm
Giá trị sản xuất (triệu đồng/ha/năm)
Giá trị gia tăng (triệu đồng/ha/năm)
Hiệu quả đầu tư (lần)
Giá trị sản xuất (triệu đồng/ha/năm)
Giá trị gia tăng (triệu đồng/ha/năm)
Hiệu quả đầu tư (lần)
Kết quả tổng hợp hiệu quả kinh tế của các hệ thống cây trồng thu thập được sau khi điều tra được thể hiện trong bảng 4.6 sau đây:
Bảng 4.6 Hiệu quả kinh tế của hệ thống cây trồng
Nguồn: Số liệu điều tra (2015)
Giá trị trung gian bao gồm tổng chi phí đầu vào cho cây trồng, như lao động, giống cây, phân bón và thuốc bảo vệ thực vật Giá trị sản xuất là tổng giá trị thu được từ việc bán sản phẩm đầu ra, trong khi giá trị gia tăng là lợi nhuận sau khi trừ đi giá trị trung gian Hiệu quả đầu tư được tính toán dựa trên tỷ lệ giữa giá trị sản xuất và giá trị trung gian, giúp xác định giá trị sản xuất thu được so với chi phí đầu vào.
Theo bảng 4.6, cây keo có chi phí trung gian thấp nhất và hiệu quả đầu tư cao nhất Lúa đứng thứ hai về hiệu quả đầu tư, nhưng do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, chỉ được trồng cho gia đình và một lượng nhỏ bán ra Các cây trồng khác như lạc và sắn có hiệu quả sản xuất thấp với chi phí đầu tư trung bình Chè, mặc dù có hiệu quả sản xuất cao hơn lúa nhưng vẫn thấp hơn, đang được mở rộng trồng trên quy mô lớn nhờ phù hợp với điều kiện địa phương và đầu ra ổn định.
Kết quả đánh giá hiệu quả kinh tế của các loại cây trồng tại xã Kỳ Trung được phân loại theo ba mức độ: Cao (C), Trung bình (TB) và Thấp (T), như thể hiện trong bảng 4.7 dưới đây.
Bảng 4.7 Hiệu quả kinh tế của hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung
Kết quả nghiên cứu và so sánh cho thấy hiệu quả kinh tế giữa các loại cây trồng rất khác nhau:
Lúa được trồng trong hai vụ đông – xuân và hè – thu, mang lại giá trị gia tăng cao (28.800.000 đồng/ha) chỉ sau keo Mặc dù đầu tư ban đầu cao (52.200.000 đồng/ha), giá trị sản xuất (81.000.000 đồng/ha) cho thấy hiệu quả đầu tư đạt 1,55 lần, cao hơn so với các loại cây khác Lúa trồng một vụ vào vụ đông – xuân có hiệu quả đầu tư lên tới 1,72 lần nhờ năng suất cao hơn và ít bị ảnh hưởng bởi bão, cùng với nguồn nước dồi dào trong quá trình sinh trưởng Tuy nhiên, lúa một vụ bị đánh giá thấp do chỉ trồng được một mùa trong năm, không tận dụng được đất trong thời gian còn lại Điều kiện tự nhiên không thuận lợi cho việc trồng lúa, diện tích trồng hạn chế và chủ yếu phục vụ nhu cầu gia đình, dẫn đến giá lúa cao do nguồn cung ít.
Lạc và Sắn là hai loại cây trồng có hiệu quả kinh tế thấp, với giá trị gia tăng lần lượt là 8.900.000 và 7.500.000 đồng/ha Mặc dù hiệu quả đầu tư chỉ đạt 1,26 lần cho Sắn và 1,30 lần cho Lạc, người dân vẫn lựa chọn trồng chúng nhờ khả năng chịu đựng thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt là hạn hán, mang lại thu nhập ổn định Hơn nữa, việc trồng xen canh Lạc và Sắn có thể tạo ra thu nhập cao hơn, mặc dù năng suất trên từng loại cây có thể thấp hơn, do tận dụng hiệu quả diện tích đất canh tác.
Chè là một trong hai loại cây trồng chủ yếu tại xã, với diện tích trồng lớn Mặc dù chi phí đầu tư cho chè (54.800.000 đồng/ha) cao hơn so với lúa, giá trị sản xuất chè (78.000.000 đồng/ha) lại thấp hơn Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư của chè (1,42 lần) vẫn vượt trội hơn so với lạc (1,30 lần) và sắn (1,26 lần) Cây chè tiếp tục được trồng và phát triển nhờ vào sự phù hợp với đất đỏ vàng, đầu ra ổn định, và sự hỗ trợ kỹ thuật cũng như giống cây từ xí nghiệp chè 12/9, nơi thu mua và chế biến chè để xuất khẩu.
Cây keo là loại cây trồng có diện tích lớn nhất tại xã, được khởi xướng từ chương trình trồng rừng 327 và chính sách giao đất giao rừng cho người dân Với chi phí đầu tư ban đầu chỉ 1.420.000 đồng/ha và giá trị sản xuất trung bình đạt 8.000.000 đồng/ha, cây keo mang lại hiệu quả đầu tư cao nhất, lên tới 5,63 lần Hiện nay, diện tích trồng keo vẫn tiếp tục mở rộng từ 50 đến 100 ha mỗi năm trên đất trống đồi trọc và một phần rừng tự nhiên Điều này là do đất đỉnh đồi không phù hợp cho cây công nghiệp khác, trong khi keo dễ chăm sóc và thu hoạch, chỉ cần đầu tư chi phí giống và công trồng trong năm đầu Sau 4 đến 6 năm, người dân có thể thu hoạch keo với sự hỗ trợ từ doanh nghiệp thu mua.
4.3.2 Hiệu quả xã hội và môi trường của hệ thống cây trồng ở xã Kỳ Trung
4.3.2.1 Đánh giá hiệu quả xã hội
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội củahệ thống cây trồng trong nghiên cứu này bao gồm:
Giá trị ngày công lao động được xác định dựa trên chi phí thuê nhân công cho sản xuất trong một ngày Kết quả đánh giá giá trị ngày công lao động của các hệ thống cây trồng được phân loại thành ba mức: cao (C), trung bình (TB) và thấp (T).
Mức độ phù hợp năng lực nông hộ và mức độ chấp nhận của người dân trong việc áp dụng các hệ thống cây trồng vào sản xuất được phân loại thành ba mức: cao (C), trung bình (TB) và thấp (T), với chỉ tiêu này được đánh giá bởi chính người dân.
- Khả năng tiêu thụ sản phẩm được đánh giá theo 3 mức: cao (C), trung bình (TB), thấp (T).
Cụ thể phân cấp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội được thể hiện ở bảng 4.8 dưới đây:
Bảng 4.8 Chỉ tiêu phân cấp đánh giá hiệu quả xã hội của hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung Chỉ tiêu
Giá trị ngày công lao động 1
Giá trị ngày công lao động 2
Giá trị ngày công lao động 3
Phù hợp năng lực nông hộ và chấp nhận của người dân
Khả năng tiêu thụ sản phẩm
Khả năng tiêu thụ sản phẩm
Kết quả thảo luận nhóm và phỏng vấn người dân theo các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội được thể hiện trong bảng 4.9 dưới đây:
Bảng 4.9 Giá trị ngày công lao động của hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung
Theo bảng 4.9, cây trồng lạc và sắn có giá trị ngày công lao động thấp nhất, trong khi các loại cây khác có giá trị cao hơn Tuy nhiên, chè và keo là hai loại cây mang lại thu nhập cao nhất do được trồng trên diện tích lớn, yêu cầu thuê thêm nhân công cho việc thu hoạch chè và trồng keo Ngược lại, các cây như lúa, lạc và sắn không cần thuê nhân công vì diện tích nhỏ, đủ sử dụng nguồn lao động trong gia đình.
Theo đánh giá của người dân, cây keo và cây chè được ưa chuộng nhất do khả năng duy trì và mở rộng diện tích trong tương lai Trong khi đó, cây lạc, sắn và lúa chỉ đạt mức trung bình vì giá thành sản phẩm thấp và thị trường tiêu thụ không ổn định, với chỉ 50% sản phẩm được bán ra Cây lúa gặp khó khăn trong việc mở rộng diện tích do điều kiện tự nhiên không thuận lợi, sản phẩm chỉ đủ cho nhu cầu gia đình Về khả năng tiêu thụ, chè có tiềm năng cao nhất nhờ chế biến chủ yếu để xuất khẩu và tiêu thụ nội địa, trong khi gỗ keo chỉ tiêu thụ trong nước với mức trung bình Ngược lại, lạc, sắn và lúa có khả năng tiêu thụ thấp, chủ yếu phục vụ nhu cầu địa phương mà không có khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Bảng 4.10 Hiệu quả xã hội của hệ thống cây trồng tại xã Kỳ Trung
4.3.2.2 Đánh giá hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường của các hệ thống cây trồng được đánh giá trên cơ sở các tiêu chí sau:
- Năng suất sinh học (tính bằng tổng sinh khối tấn/ha/năm).
- Tăng khả năng che phủ đất và phòng hộ của rừng: căn cứ vào thời gian và mức độ che phủ đất của cây trồng ở trên đồi.
Để duy trì và cải thiện độ phì nhiêu của đất, cần đảm bảo ổn định hàm lượng chất dinh dưỡng và khả năng cung cấp chất hữu cơ cho đất hàng năm từ cây trồng Đồng thời, việc giảm xói mòn đất do dòng chảy trên cao cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chất lượng đất.
Các chỉ tiêu được phân thành 3 mức đánh giá là thấp (T), trung bình (TB), cao (C) (bảng 4.11):
Bảng 4.11 Chỉ tiêu phân cấp đánh giá hiệu quả môi trường các loại cây trồng Chỉ tiêu
Năng suất sinh học (sinh khối: tấn/ha/năm)
Tăng độ che phủ đất (hoặc phòng hộ của rừng: % diện tích hoặc thời gian được che phủ)
Duy trì bảo vệ và cải thiện độ phì đất (chất lượng đất)
Xét trên từng loại cây trồng ta được đánh giá như sau:
+ Năng suất sinh học thấp: Tổng sinh khối < 10 tấn/ha/năm.
Độ che phủ đất cao với thời gian che phủ trên 8 tháng/năm và mật độ che phủ trên 95% giúp bảo vệ đất ổn định, ngăn ngừa xói mòn do mưa Nhờ đó, hạt mưa không tiếp xúc trực tiếp với mặt đất, giảm thiểu lượng đất bị mất Bên cạnh đó, che phủ đất còn duy trì độ ẩm bề mặt trong mùa khô.
Các giải pháp nông nghiệp thông minh cho địa bàn nghiên cứu
Dựa trên đánh giá hiệu quả sản xuất và khả năng dễ bị tổn thương của các hệ thống cây trồng tại địa phương, kết hợp với dự báo biến đổi khí hậu theo kịch bản RCP8.5, chúng tôi đề xuất một số giải pháp nông nghiệp thông minh nhằm phát triển bền vững các hệ thống cây trồng chính tại xã.
Kỳ Trung trong tương lai như sau:
4.4.1 Cây Lúa Đối với cây lúa ta có hai giải pháp:
Để tối ưu hóa sản xuất nông nghiệp, việc chuyển đổi hệ thống cây trồng từ lúa 1 vụ sang các loại cây trồng khác như lạc, ngô, cây cao lương và cây đậu tương là rất cần thiết, đặc biệt là thay thế lúa vụ hè – thu.
- Đối với lúa 2 vụ chuyển dịch lịch trồng lúa vụ hè - thu – sử dụng giống ngắn ngày hơn (90 ngày).
- Tạo lớp phủ xanh cho mặt đất bằng việc trồng các cây họ đậu.
- Dừng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón hóa học, thay thế bằng các chế phẩm sinh học.
Trồng rừng hỗn giao là phương pháp kết hợp trồng keo với các loại cây khác có giá trị kinh tế cao, như cây Giổi, Vàng Tâm, Huỳnh đàn, Sưa, Trám, và Macca Cụ thể, có thể trồng 1 hàng keo xen kẽ với 1 hàng cây khác, hoặc 2 hàng keo và 1 hàng cây khác Phương pháp này không chỉ tối ưu hóa hiệu quả kinh tế mà còn góp phần bảo vệ môi trường.
-Chuyển đổi hệ thống cây trồng: trồng các loại cây đa chức năng có thể vừa lấy quả, vừa lấy gỗ thay thế trồng keo.
Trồng hoa hướng dương kết hợp với cây ăn quả trong vườn không chỉ mang lại vẻ đẹp mà còn có lợi ích thiết thực Thân và lá của cây hướng dương có thể được ủ để tạo ra nước tưới giúp diệt sâu bệnh, đồng thời cải thiện chất lượng đất Ngoài ra, hạt hướng dương cũng có thể được sử dụng làm thức ăn cho gia cầm, tạo ra sự đa dạng trong nguồn thức ăn cho vật nuôi.
- Tỉa thưa cành, lá, trồng kết hợp nhiều loại cây có tầng tán khác nhau, làm hệ thống tưới nhỏ giọt, hàng rào chắn gió bằng cây.
- Trồng kết hợp cây ăn quả với cỏ dùng trong chăn nuôi hoặc rau màu phía dưới.
Bảng 4.20 trình bày dự kiến hiệu quả của các giải pháp nông nghiệp thông minh đối với hệ thống cây trồng chính tại xã Kỳ Trung.
Bảng 4.20 Hiệu quả dự kiến của các giải pháp nông nghiệp thông minh
Hệ thống cây trồng hiện tại và các giải pháp CSA
- 78 triệu/ha/năm - Bị ảnh hưởng bởi hạn
- Tăngthêm thu nhập từ hơi nước trong đất từ cây họ đậu đó giảm ảnh hưởng của hạn hán
Trồng luân canh Lúa đông –
Hệ thống canh tác hiện tại
- Cải thiện Độc canh Lúa
Dừng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật thay thế bằng các chế phẩm sinh học
Trồng kết hợp Chè + cây họ đậu
Hệ thống canh tác hiện tại
Nông lâm kết hợp Chè + cây lấy bóng Chè - hệ thống cây trồng chủ đạo
-Làm giảm hàm lượng dinh dưỡng trong đất, sử dụng nhiều hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón hóa học.
-Tăng độ che phủ bề mặt đất
- Tăng khả năng cố định đạm và hàm lượng đạm trong đất
- Giảm sự ô nhiễm đất do tồn dư hóa chất bảo vệ thực vật
-Tăng hàm lượng chất hữu cơ có trong đất
- 45 – 85 triệu - Ảnh hưởng bởi hạn đồng/ha/năm hán, bão, mưa rét, sâu bệnh
-Phát thải khí nhà kính
- sử dụng nhiều hóa chất bảo vệ thực vật, phân bón hóa học.
-Tăng độ che phủ bề mặt
- Lợi ích dự kiến Độc canh - Thay đổi giống
Hệ thống Độc canh canh tác hiện tại
- Cải thiện Trồng kết hợp hệ thống
Chuyển đổi loại cây trồng
Hệ thống Độc canh canh tác hiện tại
- Cải thiện Trồng kết hợp hệ thống
Tỉa thưa cành, lá, trồng kết hợp nhiều loại cây có tầng tán khác nhau, làm hệ thống tưới nhỏ giọt, hàng rào chắn gió bằng cây
4.4.5 Đánh giá của người dân về các giải pháp nông nghiệp thông minh
Nghiên cứu đánh giá các giải pháp có sự tham gia của người dân cho thấy họ linh hoạt trong việc thích ứng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt Hầu hết các giải pháp đã được thử nghiệm, nhưng một số không được thực hiện rộng rãi do hạn chế về đầu ra sản phẩm và chi phí đầu tư ban đầu.
Kết quả đánh giá từng giải pháp được thể hiện cụ thể trong bảng 4.21 dưới đây:
Bảng 4.21 Đánh giá của người dân về các giải pháp nông nghiệp thông minh
1 Trồng kết hợp: chè + cây họ đậu
2 Dừng sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật thay thế bằng các chế phẩm sinh học
1 Trồng luân canh: Lúa đông–xuân + cây trồng ngắn ngày (lạc, ngô, cây cao lương, đậu tương)
2 Độc canh: thay đổi sang giống lúa ngắn ngày (90 ngày)
1 Trồng kết hợp: Keo + cây gỗ có giá trị kinh tế cao (Giổi, Vàng tâm, Sưa…)
2 Chuyển đổi loại cây trồng: trồng cây đa chức năng vừa lấy gỗ vừa lấy quả
1 Trồng kết hợp: Cây ăn quả + Hướng dương
2 Tỉa thưa cành, lá, trồng kết hợp nhiều loại cây có tầng tán khác nhau, làm hệ thống tưới nhỏ giọt, hàng rào chắn gió bằng cây
3 Trồng kết hợp: Cây ăn quả + cỏ chăn nuôi hoặc rau màu
Một số hộ dân đã thử trồng hướng dương, nhưng do điều kiện khắc nghiệt và thiếu nước, cây không ra hạt Vì lý do này, người dân không muốn tiếp tục trồng loại cây này.
- Một số hộ gia đình đã thực hiện việc tỉa thưa cành lá và vẫn tiếp tục thực hiện kỹ thuật này
Hệ thống tưới nhỏ giọt đang gặp khó khăn do nguồn nước hạn chế chỉ đủ cho sinh hoạt, diện tích trồng cây ăn quả còn nhỏ và chi phí bơm nước cao Điều này khiến người dân cân nhắc về hiệu quả kinh tế của biện pháp này Nếu lợi nhuận từ cây trồng cao hơn chi phí đầu tư, họ sẽ sẵn sàng áp dụng phương pháp tưới nhỏ giọt.
Người dân cho rằng việc trồng hàng rào chắn gió bằng cây là không khả thi, bởi vì bão tại khu vực này thường rất mạnh, có thể gây gãy đổ cây.
Mô hình chăn nuôi này đã được áp dụng thành công tại một số hộ gia đình, cho thấy hiệu quả rõ rệt Trong tương lai, nếu ngành chăn nuôi phát triển, các hộ gia đình sẽ tiếp tục triển khai biện pháp này để nâng cao năng suất và hiệu quả kinh tế.