1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Khóa luận tốt nghiệp ngành Dược học: Khảo sát nồng độ tối thiểu ức chế của thuốc isoniazid trên bệnh nhân lao phổi tại ba bệnh viện từ năm 2017 đến năm 2018

49 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Khảo sát nồng độ tối thiểu ức chế của thuốc isoniazid trên bệnh nhân lao phổi tại ba bệnh viện
Tác giả Đặng Thị Tường Vi
Người hướng dẫn TS. Vũ Thị Thơm, ThS. Lờ Anh Tuấn
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Dược học
Thể loại khóa luận tốt nghiệp
Năm xuất bản 2019
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 49
Dung lượng 1,05 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN (11)
    • 1.1. Bệnh lao (11)
      • 1.1.1. Dịch tễ học (11)
      • 1.1.2. Đặc điểm bệnh lao (11)
      • 1.1.3. Điều trị, dự phòng (12)
      • 1.1.4. Vấn đề kháng thuốc (14)
      • 1.1.5. Bệnh nhân lao phổi mới và lao phổi tái trị (15)
    • 1.2. Isoniazid (16)
      • 1.2.1. Đặc điểm (16)
      • 1.2.2. Tác dụng và cơ chế tác dụng của isoniazid (16)
      • 1.2.3. Dược động học (17)
      • 1.2.4. Sử dụng INH trong điều trị lao phổi (18)
    • 1.3. MIC của isoniazid (19)
      • 1.3.1. MIC của isoniazid (19)
      • 1.3.2. Các phương pháp xác định MIC (20)
      • 1.3.3. Tình hình nghiên cứu MIC của isoniazid (22)
  • CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU (24)
    • 2.1. Thời gian, địa điểm, đối tượng nghiên cứu (24)
    • 2.2. Phương pháp nghiên cứu (24)
      • 2.2.1. Chọn mẫu cho nghiên cứu (24)
      • 2.2.2. Thu thập thông tin (24)
      • 2.2.3. Quy trình xác định MIC (24)
      • 2.2.4. Phương pháp phân tích xử lý số liệu (25)
    • 2.3. Đạo đức trong nghiên cứu (25)
  • CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ (26)
    • 3.1. Nhân chủng học (26)
      • 3.1.1. Thông tin chung (26)
      • 3.1.2. Liều điều trị (29)
      • 3.1.3. Các chỉ số hóa sinh (30)
    • 3.2. Khảo sát đáp ứng thuốc INH (31)
    • 3.3. Khảo sát MIC của INH (32)
  • CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN (35)
    • 4.1. Nhân chủng học (35)
      • 4.1.1. Thông tin chung (35)
      • 4.1.2. Liều điều trị (37)
      • 4.1.3. Các chỉ số hóa sinh (37)
    • 4.2. Khảo sát đáp ứng thuốc INH (38)
    • 4.3. Khảo sát MIC của INH (38)
  • PHỤ LỤC (45)

Nội dung

Khóa luận được nghiên cứu với mục tiêu nhằm khảo sát nhân chủng học trên 81 bệnh nhân lao phổi mới và lao phổi tái trị. Khảo sát và so sánh MIC của isoniazid của 81 bệnh nhân lao phổi mới và lao tái trị.

TỔNG QUAN

Bệnh lao

Bệnh lao, do vi khuẩn lao gây ra, là một bệnh nhiễm trùng nghiêm trọng, trong đó lao phổi chiếm hơn 80% tổng số ca bệnh Đây là một trong 10 nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, với 1,6 triệu người chết trong năm 2017 Cùng năm đó, Tổ chức Y tế thế giới ghi nhận khoảng 10 triệu ca mắc lao mới, bao gồm 5,8 triệu nam giới, 3,2 triệu phụ nữ và 1 triệu trẻ em.

Từ năm 2000 đến 2017, tỉ lệ tử vong do bệnh lao đã giảm 16%, từ 23% xuống còn 7% Trong giai đoạn 2013 – 2017, gánh nặng bệnh lao ở các quốc gia giảm trung bình hơn 6% mỗi năm; tuy nhiên, tỉ lệ điều trị thành công vẫn còn thấp, chỉ đạt mức trung bình 55%.

Theo báo cáo năm 2017 của Tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG), Việt Nam đứng thứ 16 trong số 30 quốc gia có gánh nặng bệnh nhân lao cao nhất và thứ 15 về bệnh lao đa kháng thuốc Ước tính có 124.000 người mắc lao mới, tương đương 129 người/100.000 dân, cùng với 12.000 ca tử vong do bệnh này Từ năm 1997 đến 2017, tỷ lệ mắc lao đa kháng thuốc trong số bệnh nhân lao mới tăng trung bình 4% mỗi năm trên 100.000 dân.

Bệnh lao là một bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn kháng toan cồn, chủ yếu là Mycobacterium Tuberculosis Hominis, bên cạnh đó còn có Mycobacterium bovis và Mycobacterium avium Nhóm vi khuẩn lao không điển hình, mặc dù ít gây bệnh ở phổi, nhưng có thể gây tổn thương ở da và hạch với triệu chứng không điển hình, thường kháng lại thuốc chống lao Tính chất nuôi cấy, thành phần sinh học và khả năng gây bệnh của vi khuẩn lao có sự khác biệt ở các khu vực địa lý khác nhau do tác động của nhiều yếu tố.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

Vi khuẩn lao xâm nhập vào cơ thể và gây tổn thương sơ nhiễm ở phổi, sau đó lan theo đường bạch huyết và máu, có thể ảnh hưởng đến nhiều cơ quan khác Giai đoạn đầu này được gọi là giai đoạn lao nhiễm, thường không có biểu hiện lâm sàng rõ ràng, và chỉ có thể xác định sự hiện diện của vi khuẩn lao thông qua thử nghiệm phản ứng Mantoux Đây là một test nội bì đánh giá miễn dịch lao, chủ yếu có giá trị chẩn đoán ở trẻ em, còn ở người lớn chỉ mang tính chất tham khảo.

Khoảng 10% người nhiễm lao ở mọi lứa tuổi sẽ phát triển thành bệnh lao, với 80% trường hợp xuất hiện trong 2 năm đầu sau khi nhiễm Mặc dù cơ chế chuyển đổi giữa hai giai đoạn này vẫn chưa được nghiên cứu rõ ràng, nhưng một số yếu tố nguy cơ đã được xác định.

AFB có thể đạt đến mức độ độc tính cao trong những điều kiện lây nhiễm thuận lợi, đặc biệt khi khả năng bảo vệ của cơ thể giảm sút ở những người mắc bệnh như HIV/AIDS, đái tháo đường, hoặc phụ nữ mang thai.

Giai đoạn này của bệnh lao có biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng rõ rệt hơn, tuy nhiên để chẩn đoán chính xác, cần thực hiện các kỹ thuật xác định vi khuẩn lao trong mẫu bệnh phẩm như đờm, dịch dạ dày và dịch phế quản Sự gia tăng của các xét nghiệm phân tử nhanh đang dần thay thế việc sử dụng kính hiển vi trong chẩn đoán ở nhiều quốc gia Đây cũng là giai đoạn quan trọng trong công tác dự phòng lao, khi mà 50% số trường hợp lao có thể trở thành nguồn lây mới cho xã hội.

Trong hơn hai mươi năm qua, các phác đồ điều trị lao không sử dụng đơn lẻ một loại thuốc nhằm tránh tình trạng kháng thuốc và thất bại trong điều trị Chiến lược DOTS, được Tổ chức Y tế Thế giới khuyến cáo, vẫn là nền tảng cho các phác đồ điều trị quốc gia Chiến lược này dựa trên nguyên tắc phối hợp các thuốc chống lao thiết yếu, bao gồm Isoniazid (INH hay H), Rifampicin (R), Pyrazinamid (Z) và Streptomycin.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

Ethambutol (E) và Streptomycin (S) là những thuốc chính trong phác đồ điều trị lao Mặc dù TCYTTG đã khuyến cáo bổ sung Rifabutin (Rfb) và Rifapentine (Rpt), nhưng hiện tại chúng chưa được áp dụng Hiệu quả điều trị được nâng cao nhờ vào cơ chế tác động khác nhau của các thuốc chống lao lên vi khuẩn Tùy thuộc vào giai đoạn điều trị và chẩn đoán bệnh, cần lựa chọn thuốc phù hợp, với giai đoạn tấn công yêu cầu ít nhất ba loại thuốc, giai đoạn duy trì cần ít nhất hai loại, và đối với bệnh lao kháng đa thuốc, cần phối hợp tối thiểu bốn loại thuốc trong cả hai giai đoạn.

Công tác dự phòng bệnh lao bao gồm các biện pháp nhằm giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn lao và hạn chế sự chuyển từ giai đoạn lao nhiễm sang lao bệnh Việc giảm nguy cơ nhiễm vi khuẩn lao là rất quan trọng, vì khoảng 50% trường hợp lao bệnh là nguồn lây mới trong cộng đồng Cần thực hiện các biện pháp bảo hộ cho nhân viên y tế và người xung quanh, như kiểm soát vệ sinh môi trường, sử dụng đồ bảo hộ, cách ly bệnh nhân và đảm bảo họ tuân thủ điều trị Chẩn đoán và điều trị sớm bệnh nhân là rất quan trọng, vì khả năng lây lan vi khuẩn lao sẽ giảm nhanh chóng sau 2-4 tuần điều trị Đối với những người có nguy cơ cao như trẻ em nhiễm HIV và người nhà bệnh nhân, cần áp dụng biện pháp phòng ngừa phù hợp, bao gồm tiêm vắc-xin BCG cho trẻ dưới 1 tuổi không nhiễm HIV và sử dụng INH cho trẻ dưới 5 tuổi hoặc trẻ nhiễm HIV từ 1-14 tuổi sống cùng với bệnh nhân lao phổi đã được sàng lọc không mắc lao.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU đường uống hàng này trong 6 tháng (ở trẻ em) hoặc trong 9 tháng (ở người lớn) để dự phòng [3]

Nguyên nhân cơ bản nhất của việc kháng thuốc chống lao của vi khuẩn

Mycobacterium tuberculosis là do con người tạo ra và kháng thuốc xảy ra do phơi nhiễm với thuốc không đúng cách, như điều trị kém, kê đơn không phù hợp, và cung cấp thuốc không thường xuyên Điều này dẫn đến việc ngăn chặn sự phát triển của vi khuẩn mẫn cảm nhưng cho phép các sinh vật kháng thuốc phát triển, gây ra hiện tượng kháng thuốc mắc phải Vi khuẩn kháng thuốc có thể lây truyền cho người khác, dẫn đến bệnh kháng thuốc ngay từ đầu, được gọi là kháng nguyên phát Sự xuất hiện của vi khuẩn lao kháng thuốc liên quan đến nhiều yếu tố từ nhà quản lý, nhà cung cấp y tế đến bệnh nhân Ở những quốc gia có tình hình chính trị bất ổn, thiếu chế độ điều trị chuẩn và thuốc có thể làm tình hình tồi tệ hơn Bệnh nhân không hợp tác, sử dụng thuốc không đều, tự ý ngưng thuốc và tiếp xúc với nguồn lao kháng thuốc cũng góp phần vào sự phát triển này Ngoài ra, vi khuẩn lao còn có hiện tượng kháng thuốc tự nhiên với tỷ lệ khác nhau cho từng loại thuốc: Rifampicin 1/10^8, Isoniazid 1/10^6, Streptomycin và Ethambutol 1/10^5 Khi thuốc có mặt, các chủng đột biến sẽ trở nên ưu thế hơn và lây lan, gây kháng thuốc ngay từ đầu cho người nhiễm.

Cấu trúc gen của vi khuẩn lao chỉ có 2 operon mã hóa 16S và 23S ARN ribosome, ít hơn so với các vi khuẩn khác, khiến cho vi khuẩn lao dễ biểu hiện tính trạng kháng thuốc hơn Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa phát hiện plasmid và hiện tượng lan truyền kháng thuốc qua plasmid ở vi khuẩn lao Trong trường hợp bệnh nhân lao phổi, có khoảng 10^8 vi khuẩn lao trong một hang lao đường kính 2cm, tạo điều kiện cho vi khuẩn kháng thuốc (có đột biến) phát triển mạnh mẽ trong môi trường này.

Vi khuẩn lao có thể phát triển mạnh mẽ trong môi trường không có thuốc kháng sinh, đặc biệt ở những bệnh nhân có lượng vi khuẩn lao lớn Sự hiện diện của kháng sinh tạo ra áp lực chọn lọc cho vi khuẩn kháng thuốc, dẫn đến sự xuất hiện của các đột biến ở các gen mã hóa enzyme hoặc protein mục tiêu của thuốc chống lao Những đột biến này làm giảm tính thấm của thuốc qua màng, giảm khả năng gắn kết của thuốc với vi khuẩn, hoặc dẫn đến mất hoạt tính của thuốc do thiếu enzyme cần thiết Kết quả là, hiệu quả của thuốc chống lao bị giảm hoặc mất hoàn toàn.

1.1.5 Bệnh nhân lao phổi mới và lao phổi tái trị

Dựa trên tiền sử điều trị, TCYTTG phân loại bệnh nhân lao thành hai nhóm chính: bệnh nhân lao phổi mới (LPM) và bệnh nhân lao tái trị (LPTT) Nhóm bệnh nhân lao mới bao gồm những người chưa hoặc mới sử dụng thuốc chống lao dưới 1 tháng, trong khi nhóm bệnh nhân lao tái trị là những người đã dùng thuốc trên 1 tháng nhưng cần điều trị lại do tái phát, thất bại trong điều trị trước đó, bỏ trị, hoặc không xác định được kết quả điều trị.

Isoniazid

Isoniazid, hay INH, là một hydrazid của axit isonicotinic được tổng hợp lần đầu tiên bởi Meyer và Mally vào năm 1912 Tuy nhiên, phải đến 40 năm sau, giá trị của nó mới được phát hiện Nghiên cứu của Grunberg và Schnitzer (1952) cùng với Grunberg và cộng sự (1952) đã chỉ ra rằng hợp chất này có tác dụng kìm khuẩn đối với các chủng vi khuẩn.

Mycobacterium tuberculosis H37Rv đã được nghiên cứu trên in vitro và cho thấy khả năng bảo vệ chuột khỏi bệnh lao khi tiêm trực khuẩn tubercle Nghiên cứu của Robitzek và cộng sự (1952) cùng với Selikoff và Robitzek (1952) đã chứng minh rằng hợp chất này có hiệu quả trong việc điều trị bệnh lao ở người.

Cấu trúc hóa học: Isoniazid gồm vòng pyridine và nhóm hydrazine

Hình 1.1: Cấu trúc hóa học của isoniazid [2]

1.2.2 Tác dụng và cơ chế tác dụng của isoniazid

Isoniazid có tác dụng kìm hãm và diệt khuẩn, với nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) đối với trực khuẩn lao là 0,02 - 0,2 µg/mL Ở nồng độ cao trên 500 µg/mL, thuốc có khả năng ức chế sự phát triển của nhiều loại vi khuẩn khác Isoniazid cũng có khả năng ức chế sự nhân lên của vi khuẩn trong môi trường nuôi cấy, cả bên trong lẫn bên ngoài tế bào Nghiên cứu cho thấy INH ở nồng độ rất thấp có thể ức chế enzyme desaturase, enzyme quan trọng trong quá trình tổng hợp acid mycolic, thành phần chính cấu tạo lớp vỏ phospholipid của vi khuẩn lao, dẫn đến sự phá hủy thành tế bào của chúng.

Thuốc INH chỉ có tác dụng đối với vi khuẩn lao do sự hiện diện của acid mycolic, không hiệu quả với các loại vi khuẩn khác Nghiên cứu cho thấy INH gây rối loạn chuyển hóa của trực khuẩn lao bằng cách tạo chelat với Cu 2+, từ đó ức chế cạnh tranh với nicotinamid và pyridoxine.

Isoniazid (INH) được hấp thu nhanh chóng và hoàn toàn qua tiêm bắp và đường tiêu hóa khi uống, với nồng độ tối đa trong máu đạt 3 - 5 µg/mL sau 1 - 2 giờ sau khi uống liều 5 mg/kg, và tác dụng kéo dài từ 10 - 24 giờ Tuy nhiên, sự hấp thu và sinh khả dụng của INH sẽ giảm khi có thức ăn, vì vậy nên uống khi đói INH tồn tại chủ yếu ở hai dạng là dạng tự do và dạng hydrazol, phân bố rộng rãi trong các dịch cơ thể và mô với thể tích phân bố là 0,6 L/kg Trong dịch não tủy, nồng độ thuốc thường chỉ đạt 20% so với huyết tương, nhưng có thể tăng lên 65 - 90% trong trường hợp viêm màng não INH cũng có khả năng thấm qua hang lao và dễ dàng đi qua nhau thai vào thai nhi INH được chuyển hóa chủ yếu tại gan và ruột, với 50 - 90% nhờ vào phản ứng acetyl hóa bởi enzyme N-acetyltransferase.

Thuốc 2 (NAT2) hoặc qua phản ứng thủy phân bởi amidase chủ yếu được thải trừ qua thận, với một phần nhỏ được thải qua phân Khoảng 75 - 95% thuốc được chuyển hóa và không còn hoạt tính sẽ được thải trừ sau 24 giờ sử dụng.

Gần đây, một số tác giả đã chỉ ra rằng dạng acetyl hóa của INH có thể được khử acetyl trong cơ thể, tạo thành dạng có hoạt tính Thời gian bán thải của INH ở người có chức năng gan thận bình thường dao động từ 1 đến 4 giờ, tùy thuộc vào tốc độ chuyển hóa thuốc Bệnh nhân có chức năng gan suy giảm hoặc suy thận nặng thường có thời gian bán thải dài hơn Không có sự khác biệt về hiệu quả điều trị giữa hai nhóm chuyển hóa nhanh và chậm khi dùng INH hàng ngày hoặc 2-3 lần một tuần Tuy nhiên, đối với bệnh nhân chỉ dùng thuốc 1 lần một tuần, hiệu quả điều trị sẽ cao hơn ở nhóm chuyển hóa chậm Việc thải trừ INH có thể chậm lại ở bệnh nhân suy thận, nhưng điều này lại rất nguy hiểm cho nhóm bệnh nhân có chuyển hóa chậm Do đó, cần cân nhắc giảm liều cho những bệnh nhân chuyển hóa INH chậm kèm theo suy giảm chức năng thận khi độ thanh thải Creatinin thấp hơn 25 mL/phút.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

1.2.4 Sử dụng INH trong điều trị lao phổi

INH được sử dụng hàng ngày trong các phác đồ điều trị lao theo khuyến cáo của TCYTTG, áp dụng cho cả giai đoạn tấn công và duy trì ở bệnh nhân lao mới và lao tái trị Dựa trên khuyến cáo này, CTCLQG đã xây dựng phác đồ điều trị cụ thể cho hai nhóm bệnh nhân, bao gồm phác đồ I (IA và IB) và phác đồ II.

1.2.4.1 Trên bệnh nhân lao mới

Bệnh nhân lao mới, bao gồm những người chưa từng điều trị hoặc đã điều trị dưới 1 tháng, nên áp dụng phác đồ IA cho người lớn và phác đồ IB cho trẻ em Phác đồ IA bao gồm 2 tháng tấn công với 4 thuốc chống lao (R, H, Z, E) hàng ngày, sau đó là 4 tháng duy trì với 3 loại thuốc (R, H, E) Trong khi đó, phác đồ IB dành cho trẻ em bao gồm 2 tháng tấn công với 4 thuốc (R, H, Z, E) và 4 tháng duy trì với 2 thuốc (R, H) hàng ngày.

1.2.4.2 Trên bệnh nhân lao tái trị

Phác đồ II được áp dụng cho bệnh nhân LPTT, những trường hợp có tiền sử điều trị không rõ ràng hoặc đã làm xét nghiệm nhưng không phát hiện kháng đa thuốc Trong phác đồ này, bệnh nhân sẽ trải qua quá trình điều trị gồm 2SRHZE/1RHZE/5RHE hoặc 2SRHZE/1RHZE/5R3H3E3, với đợt tấn công kéo dài 3 tháng và giai đoạn duy trì 5 tháng Trong 2 tháng đầu của giai đoạn tấn công, bệnh nhân sẽ sử dụng hàng ngày 5 thuốc chống lao chính là S, R, H, Z, E, và sau 1 tháng sẽ chuyển sang sử dụng 4 thuốc R.

H, Z, E Đến giai đoạn duy trì 5 tháng 3 thuốc R, H, E sẽ được dùng hàng ngày hoặc cách quãng 3 lần/ tuần [3]

Liều lượng hàng ngày: người lớn 5 (4 - 6) mg/kg tối đa 300mg; trẻ em

10 (10 - 15) mg/kg tối đa 300mg (trẻ em trên 25kg tính như liều người lớn) [3]

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

Bảng 1.1 Số viên hỗn hợp liều cố định dùng hàng ngày cho người lớn theo cân nặng [3]

Thuốc hỗn hợp liều cố định Cân (kg)

25 - 39 40 - 54 55 - 70 >70 Giai đoạn tấn công hàng ngày Số viên

Giai đoạn duy trì hàng ngày

Giai đoạn duy trì tuần 3 lần

MIC của isoniazid

MIC là nồng độ tối thiểu của kháng sinh cần thiết để ức chế sự phát triển của vi khuẩn Giá trị MIC cho thấy nồng độ kháng sinh cần đạt được tại ổ nhiễm trùng nhằm kiểm soát tác nhân gây bệnh Đối với trực khuẩn lao, MIC nằm trong khoảng 0,02 - 0,2 µg/mL Khi nồng độ kháng sinh vượt quá 500 µg/mL, thuốc có tác dụng rõ rệt hơn.

Thuốc có khả năng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn khác, tác động hiệu quả lên vi khuẩn đang nhân lên cả trong và ngoài tế bào, bao gồm cả trong môi trường nuôi cấy.

Xác định MIC trong lâm sàng là rất quan trọng, đặc biệt khi bệnh nhân không đáp ứng với kháng sinh theo kháng sinh đồ định tính, hoặc khi cần loại trừ yếu tố gây kháng thuốc giả.

1.3.2 Các phương pháp xác định MIC

Mục đích: Kỹ thuật này giúp xác định MIC của kháng sinh có tác dụng ức chế một chủng vi khuẩn phát triển trong môi trường nuôi cấy [4]

Nguyên lý chung trong việc nuôi cấy vi khuẩn là tạo ra môi trường có nồng độ kháng sinh tăng dần Khi nồng độ kháng sinh đạt đến mức nhất định, nó sẽ ức chế sự phát triển của vi khuẩn, và điều này có thể được quan sát bằng mắt thường Nồng độ kháng sinh thấp nhất có khả năng ức chế sự phát triển của vi khuẩn được gọi là nồng độ ức chế tối thiểu (MIC).

Phương pháp pha loãng là phương pháp chuẩn để xác định giá trị MIC

Có hai phương pháp chính để pha loãng kháng sinh: pha loãng trong thạch và pha loãng trong canh thang (trong tube, plate) Kháng sinh được hòa trong môi trường lỏng hoặc đặc, đảm bảo nồng độ đồng nhất ở mọi điểm Từ đó, kháng sinh được pha loãng theo nhiều nồng độ khác nhau, thường theo cấp số nhân Vi khuẩn với số lượng nhất định sẽ được cấy vào các môi trường này, và sự phát triển của vi khuẩn sẽ giúp xác định nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) của kháng sinh Nếu vi khuẩn phát triển ở môi trường nào, điều đó cho thấy chúng có khả năng đề kháng tại nồng độ kháng sinh đó Nồng độ kháng sinh nhỏ nhất mà vi khuẩn không thể phát triển chính là MIC của kháng sinh đối với chủng vi khuẩn này.

Giá trị MIC không phải là giá trị tuyệt đối mà thường nằm trong khoảng giữa nồng độ MIC thực nghiệm và nồng độ kháng sinh pha loãng thấp hơn ngay sát MIC thực nghiệm Chẳng hạn, nếu giá trị MIC thực nghiệm là 4 µg/mL khi pha loãng theo cấp số nhân 2, thì nồng độ MIC chính xác sẽ ở khoảng 2 - 4 µg/mL Do đó, cần lưu ý về sai số giữa các nồng độ MIC.

Theo nghiên cứu của Trường Đại học Y Dược, VNU, để đạt được kết quả chính xác nhất về nồng độ kháng sinh, cần pha loãng kháng sinh với cấp số nhỏ hơn sau khi đã xác định khoảng nồng độ chính xác và MIC thực nghiệm là nhỏ nhất.

1.3.2.2 Phương pháp khoanh giấy kháng sinh khuếch tán

Trên bề mặt thạch, một khoanh giấy kháng sinh được đặt, cho phép kháng sinh khuếch tán vào thạch, tạo ra nồng độ giảm dần theo khoảng cách Khi nuôi cấy, quan sát sự phát triển của vi khuẩn xung quanh khoanh giấy sẽ cho thấy một vùng ức chế tròn, từ đó xác định được nồng độ ức chế tối thiểu (MIC) tại ranh giới giữa vùng ức chế và vùng không ức chế.

E-test là dải plastic có kích thước 5 x 57 mm, kháng sinh được phân bố theo dải nồng độ Ở mặt sau dải plastic có 15 nồng độ kháng sinh giảm dần theo bậc 2 được gắn cố định Đặt dải E-test lên mặt thạch có vi khuẩn đã được dàn đều Kháng sinh trên dải sẽ khuếch tán theo bậc nồng độ và sau khi nuôi cấy một đêm vùng ức chế elip sẽ xuất hiện MIC được xác định tại điểm cắt của dài E-test với hình elip Dù pha loãng mới là phương pháp chuẩn xác định MIC nhưng phương pháp dải giấy khuếch tán theo nồng độ mới là phương pháp khả thi tại phòng xét nghiệm vi sinh lâm sàng [4]

1.3.2.4 Phương pháp sử dụng hệ thống tự động

Phương pháp tự động này tương tự như phương pháp pha loãng kháng sinh trong canh thang, nhưng thay vì đọc kết quả bằng mắt thường, hệ thống sẽ tự động xác định MIC bằng cách đo độ đục hoặc tín hiệu huỳnh quang trong môi trường nuôi cấy Phòng xét nghiệm sẽ sử dụng phần mềm quản lý kết nối với hệ thống để nhận kết quả Tuy nhiên, số loại và nồng độ kháng sinh trong hệ thống tự động là cố định, điều này có thể không đáp ứng đầy đủ nhu cầu của tất cả các phòng xét nghiệm Hệ thống tự động cũng cho phép chuyển trực tiếp kết quả sang phần mềm quản lý của phòng xét nghiệm.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU không phải luôn đáp ứng được với yêu cầu sử dụng của mỗi phòng xét nghiệm

1.3.3 Tình hình nghiên cứu MIC của isoniazid

Isoniazid (INH) đã được phát hiện có tác dụng chống lao từ năm 1952, nhưng nghiên cứu về nồng độ tối thiểu ức chế (MIC) của thuốc này tại Việt Nam vẫn còn hạn chế Trên thế giới, việc phân loại mức độ kháng thuốc dựa trên nồng độ MIC của isoniazid đã được thực hiện từ lâu Một nghiên cứu năm 1988 cho thấy MIC của INH trên nhóm bệnh nhân lao mới với 39 chủng lao hoang dại có giá trị từ 0,025 - 0,05 µg/mL trong môi trường BACTEC 7H12 và 0,1 - 0,2 µg/mL trong đĩa thạch 7H11 Nghiên cứu này cũng đề xuất điểm dừng phân loại chủng nhạy cảm đối với INH là MIC < 0,1 µg/mL khi xác định bằng phương pháp đo phản xạ.

Một nghiên cứu tại bệnh viện đại học Karolinska, Thụy Điển, đã xác định nồng độ MIC của isoniazid trên 90 mẫu phân lập, trong đó 87% bệnh nhân là người nước ngoài Kết quả cho thấy điểm dừng nhạy cảm ở cả hai phương pháp Middlebrook 7H10 (M7H10) và BACTEC 460 tương đối đồng nhất với khuyến cáo của WHO là 0,2 àg/mL, nhưng vẫn tồn tại sự bất đồng giữa hai phương pháp này Một chủng được nghiên cứu có MIC 0,25 àg/mL được phân loại là mẫn cảm trong phương pháp BACTEC nhưng lại không mẫn cảm trong phương pháp 7H10.

Nghiên cứu năm 2012 tại Đức đã phân tích 44 chủng vi khuẩn nuôi cấy trên hai môi trường Lửwenstein-Jensen (LJ) và M7H10 Kết quả cho thấy 92,3% (24/26) chủng trên môi trường LJ có mức độ kháng thuốc thấp, với hai chủng có MIC là 1,0 μg/mL, 11 chủng bị ức chế ở nồng độ 1,0 đến 2,0 μg/mL, và 10 chủng có MIC lên tới 4,0 μg/mL Chỉ có hai chủng có MIC trên 8,0 μg/mL, được phân loại là kháng cao Trên môi trường 7H10, 83,3% (15/18) chủng cũng biểu hiện tính kháng thấp, với 4 chủng có MIC lên tới 4,0 μg/mL và 12 chủng bị ức chế ở nồng độ 8,0 μg/mL Chỉ có 3 chủng cho thấy mức kháng cao với MIC trên 8,0 μg/mL Tổng cộng, 39 chủng MDR (88,6%) cho thấy mức độ kháng thuốc thấp.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

Kháng thuốc trên MYCOTB đã tăng trưởng rõ rệt ở nồng độ INH 0,25 àg/mL, theo kết quả từ mẫu phỏng lập của 126 bệnh nhân Trung Quốc năm 2016 Năm 2017, một nghiên cứu đã xác định giá trị MIC của INH như một cơ sở để phân loại mức độ kháng thuốc, với kháng INH mức độ cao khi MIC >1 àg/mL và mức độ thấp khi MIC từ 0,1 đến 1 àg/mL, phụ thuộc vào mức độ cụ thể của đột biến vi khuẩn với INH.

Nghiên cứu của Lukas Fenner từ 2000 đến 2008 chỉ ra rằng đột biến gen katG và inhA có liên quan đến kháng thuốc của INH Đặc biệt, đột biến gen katG chủ yếu gây ra mức độ kháng cao với MIC>1 µg/mL, trong khi đột biến inhA liên quan đến mức độ kháng thấp hơn với MIC0,05).

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

BÀN LUẬN

Nhân chủng học

Kết quả nghiên cứu cho thấy sự khác biệt rõ rệt giữa các bệnh nhân về giới tính, độ tuổi, cân nặng, liều điều trị và một số chỉ số hóa sinh.

Kết quả phân tích từ bảng 3.1 cho thấy, trong tổng số 81 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ nam giới chiếm ưu thế rõ rệt so với nữ giới với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P 8 µg/mL) Mặc dù không có ý nghĩa thống kê, nhóm LPTT có xu hướng tỷ lệ kháng lao thấp cao hơn nhóm LPM, với 22,2% chủng lao có MIC bằng 4 µg/mL ở LPTT so với 3,7% ở LPM Các chủng vi khuẩn có đột biến ở gen katG và inhA ít gặp hơn ở nhóm LPTT So sánh cho thấy bệnh nhân ở cả hai nhóm đã nhiễm nhiều chủng vi khuẩn lao khác nhau, bao gồm cả những chủng kháng thuốc Đặc biệt, sự xuất hiện các chủng kháng thuốc ở nhóm LPM chưa dùng thuốc chống lao cho thấy việc điều chỉnh liều rất quan trọng để đạt hiệu quả điều trị Chiến thuật chỉnh liều dựa trên các chỉ số PK/PD nhằm duy trì nồng độ thuốc tại vị trí nhiễm khuẩn trong thời gian thích hợp có thể tối ưu hóa tác dụng diệt khuẩn và hiệu quả điều trị của từng kháng sinh.

Copyright @ School of Medicine and Pharmacy, VNU

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT

Nghiên cứu được thực hiện trên 81 bệnh nhân, chia thành hai nhóm dựa trên tiền sử điều trị là LPM và LPTT Qua quá trình thu thập, xử lý, phân tích và so sánh dữ liệu, chúng tôi đã đưa ra các kết luận quan trọng.

Nghiên cứu đã chỉ ra sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm bệnh nhân LPTT và LPM về giới tính, độ tuổi và liều điều trị Cụ thể, tỷ lệ giới tính nam:nữ ở nhóm LPTT là 12,5:1 so với 2:1 ở nhóm LPM, độ tuổi trung bình của nhóm LPTT là 51,08±15,12 so với 40,4±14,25 của nhóm LPM, và tỷ lệ sử dụng liều INH theo cân nặng cao hơn ở nhóm LPTT, với ý nghĩa thống kê P

Ngày đăng: 14/07/2021, 10:39

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
8. Đặng Văn Khoa (2010), “Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đáp ứng miễn dịch, tính kháng thuốc, tính kháng thuốc của vi khuẩn ở bệnh nhân lao phổi mới và lao phổi tái phát, Luận án tiến sĩ, ĐH Y Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng, đáp ứng miễn dịch, tính kháng thuốc, tính kháng thuốc của vi khuẩn ở bệnh nhân lao phổi mới và lao phổi tái phát
Tác giả: Đặng Văn Khoa
Năm: 2010
10. Nguyễn Viết Nhung (2016), Cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc chống lao, NXB Thanh niên Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cẩm nang hướng dẫn sử dụng thuốc chống lao
Tác giả: Nguyễn Viết Nhung
Nhà XB: NXB Thanh niên
Năm: 2016
12. Lên Văn Phủng (2009), Vi khuẩn y học, NXB Giáo dục Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi khuẩn y học
Tác giả: Lên Văn Phủng
Nhà XB: NXB Giáo dục Việt Nam
Năm: 2009
14. Dương Quang Tuấn và cộng sự (2016), “Liên quan giữa chỉ số bmi với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh lao phổi và sự thay đổi chỉ số BMI sau 1 tháng điều trị”, Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế , 6(4), 7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liên quan giữa chỉ số bmi với một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh lao phổi và sự thay đổi chỉ số BMI sau 1 tháng điều trị”, "Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế
Tác giả: Dương Quang Tuấn và cộng sự
Năm: 2016
15. Đinh Ngọc Sỹ (2011), “Chiến lược quản lý bệnh lao đa kháng thuốc tại VN”, tạp chí khoa học Hội phổi Pháp - Việt, 2(3), 40-42.TIẾNG ANH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược quản lý bệnh lao đa kháng thuốc tại VN”, "tạp chí khoa học Hội phổi Pháp - Việt
Tác giả: Đinh Ngọc Sỹ
Năm: 2011
16. Br Med J (1948),“Streptomycin Treatment of Pulmonary Tuberculosis: A Medical Research Council Investigation”. British Medical Journal, 2(4582), 769-82 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Streptomycin Treatment of Pulmonary Tuberculosis: A Medical Research Council Investigation”. "British Medical Journal
Tác giả: Br Med J
Năm: 1948
17. Cox H. et al (2006), “Tuberculosis recurrence and mortality after successful treatment: impact of drug resistance”, PLOS Medicine, 3(10), 384 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tuberculosis recurrence and mortality after successful treatment: impact of drug resistance”, "PLOS Medicine
Tác giả: Cox H. et al
Năm: 2006
18. Daphne Yee et al. (2003), “Incidence of Serious Side Effects from First- Line Antituberculosis Drugs among Patients Treated for Active Tuberculosis”, American Thoracic Society Journals, 167(11), 1472- 1477 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Incidence of Serious Side Effects from First-Line Antituberculosis Drugs among Patients Treated for Active Tuberculosis”, "American Thoracic Society Journals
Tác giả: Daphne Yee et al
Năm: 2003
19. Dodor E. (2008), “Evaluation of nutritional status of new tuberculosis patients at the effia-n kwanta regional hospital”, Ghana Medical Journal, 42(1), 22-28 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Evaluation of nutritional status of new tuberculosis patients at the effia-n kwanta regional hospital”, "Ghana Medical Journal
Tác giả: Dodor E
Năm: 2008
20. Ennassiri W. et al. (2018), “Analysis of isoniazid and rifampicin resistance in Mycobacterium tuberculosis isolates in Morocco using GenoType MTBDRplus assay”, Journal Global Antimicrobial Resistance, 12, 197-201 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Analysis of isoniazid and rifampicin resistance in Mycobacterium tuberculosis isolates in Morocco using GenoType MTBDRplus assay”, "Journal Global Antimicrobial Resistance
Tác giả: Ennassiri W. et al
Năm: 2018
21. Evans D. et al. (1960), “Genetic Control of Isoniazid Metabolism in Man”, British Medical Journal , 2(5197), 485-491 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Genetic Control of Isoniazid Metabolism in Man”, "British Medical Journal
Tác giả: Evans D. et al
Năm: 1960
22. Fenner L. et al. (2012), “Effect of mutation and genetic background on drug resistance in Mycobacterium tuberculosis”, Antimicrob Agents Chemother, 56(6), 3047-3053 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Effect of mutation and genetic background on drug resistance in Mycobacterium tuberculosis”, "Antimicrob Agents Chemother
Tác giả: Fenner L. et al
Năm: 2012
23. Harries A. D. et al (1988), “Nutritional status in Malawian patients witth pulmonary tuberculosis and response to chemotherapy”, European Journal of Clinical Nutrition, 42(5), 445-450 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nutritional status in Malawian patients witth pulmonary tuberculosis and response to chemotherapy”, "European Journal of Clinical Nutrition
Tác giả: Harries A. D. et al
Năm: 1988
24. Kim S. J. (2005), “Drug-susceptibility testing in tuberculosis: methods and reliability of results”, European Respiratory Journal, 25, 564-569 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Drug-susceptibility testing in tuberculosis: methods and reliability of results”, "European Respiratory Journal
Tác giả: Kim S. J
Năm: 2005
25. Klein Sotiria Boukouvala Daniel I. et al. (2016), "PharmGKB summary: Isoniazid pathway, pharmacokinetics", Pharmacogenet Genomics KB, 26(9),43-44 Sách, tạp chí
Tiêu đề: PharmGKB summary: Isoniazid pathway, pharmacokinetics
Tác giả: Klein Sotiria Boukouvala Daniel I. et al
Năm: 2016
26. Kochi A. et al. (1993), “Multi-drug resistant tuberculosis and its control. Research in Microbiology”, Research in Microbiology, 144, 04-110 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Multi-drug resistant tuberculosis and its control. Research in Microbiology”,"Research in Microbiology
Tác giả: Kochi A. et al
Năm: 1993
27. Lửnnroth K. et al (2010), “A consistent log-linear relationship between tuberculosis incidence and body mass index”, International Journal of Epidemiology, 39(1), 149–155 Sách, tạp chí
Tiêu đề: A consistent log-linear relationship between tuberculosis incidence and body mass index”, "International Journal of Epidemiology
Tác giả: Lửnnroth K. et al
Năm: 2010
28. Macallan D. C. (1999), “Malnutrition in tuberculosis”, Diagnostic Microbiology Infectious Disase, 34(2), 153-7 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Malnutrition in tuberculosis"”, Diagnostic Microbiology Infectious Disase
Tác giả: Macallan D. C
Năm: 1999
3. Bộ Y tế (2015), Hướng dẫn chẩn đoán, điều trị, dự phòng bệnh lao Khác
4. Bộ Y tế (2017), Hướng dẫn thực hành kỹ thuật xét nghiệm vi sinh lâm sàng Khác

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN