GIỚI THIỆU
Đặt vấn ủề
Phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông dân là nhiệm vụ quan trọng được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm Thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khóa X) về nông nghiệp, nông thôn, Chính phủ đã ban hành Bộ Tiêu chí Quốc gia về NTM và phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng NTM giai đoạn 2010 - 2020 Chương trình này đã trở thành phong trào lớn, được hưởng ứng rộng rãi trong cả nước, đặc biệt là tỉnh Tây Ninh Đây là cơ hội và điều kiện thuận lợi để khu vực nông thôn phát triển bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân.
Trong thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng NTM, tiêu chí
Hình thức tổ chức sản xuất, bao gồm THT và HTX, là tiêu chí quan trọng trong việc xây dựng NTM Để đạt được hiệu quả trong phát triển NTM, cần đảm bảo các tổ chức này hoạt động hiệu quả.
Vai trò của các tổ chức kinh tế hợp tác, đặc biệt là hợp tác xã (HTX), rất quan trọng trong việc hỗ trợ thực hiện các tiêu chí cần đạt được, đồng thời là điều kiện cần thiết để phát huy nội lực hiệu quả trong quá trình xây dựng nông thôn mới (NTM).
Các hợp tác xã (HTX) ở tỉnh Tây Ninh đang đối mặt với nhiều khó khăn về mô hình và hiệu quả hoạt động, với phần lớn HTX chỉ hoạt động cầm chừng và có nguy cơ giải thể Nguyên nhân chủ yếu là do lợi ích mà HTX mang lại chưa đủ hấp dẫn để thu hút sự tham gia tích cực của các hộ thành viên Bên cạnh đó, ảnh hưởng của mô hình HTX kiểu cũ cũng khiến việc vận động người dân tham gia xây dựng nông thôn mới (NTM) gặp nhiều trở ngại.
Đề tài nghiên cứu "Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến sự tham gia vào HTX trong xây dựng nông thôn mới tại Tây Ninh" sẽ giúp xác định những yếu tố chính tác động đến quyết định tham gia HTX của người dân Từ đó, nghiên cứu sẽ đề xuất các giải pháp chính sách nhằm vận động, thu hút và khuyến khích người dân tham gia vào mô hình HTX, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các HTX, hỗ trợ chính quyền địa phương các xã sớm thực hiện và đạt tiêu chí 13 về NTM.
Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu nghiên cứu tổng quát:
Mục tiêu của đề tài là xác định các nhân tố chính ảnh hưởng đến quyết định tham gia của người dân vào hợp tác xã (HTX) Từ đó, đề xuất các giải pháp và chính sách thúc đẩy các cá nhân, hộ gia đình tham gia vào HTX, góp phần thực hiện tiêu chí số 13 - Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM tại các xã xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
1.2.2 Mục tiêu nghiên cứu cụ thể:
- Tìm hiểu tình hình thực hiện tiêu chí 13 về hình thức tổ chức sản xuất trong
Bộ tiêu chí Quốc gia về NTM tại tỉnh Tây Ninh đã được triển khai nhằm đánh giá thực trạng và thúc đẩy việc thành lập mới các Tổ hợp tác (THT) và Hợp tác xã (HTX) tại các xã điểm xây dựng NTM trên địa bàn tỉnh.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến sự tham gia của người dân vào hợp tác xã (HTX) nhằm xác định những yếu tố chính tác động đến mức độ tham gia của họ Việc hiểu rõ những nhân tố này sẽ giúp cải thiện sự tham gia của cộng đồng vào HTX, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động và phát triển bền vững của các tổ chức này.
- Đề xuất giải pháp thu hút, khuyến khích người dân tham gia phát triển mô hỡnh HTX trờn ủịa bàn tỉnh, nhất là ở cỏc xó ủiểm xõy dựng NTM.
Câu hỏi nghiên cứu
Để ủạt ủược mục tiờu ủú, luận văn này sẽ trả lời 3 cõu hỏi chớnh sau ủõy:
Thực trạng hoạt động của mô hình hợp tác xã (HTX) trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đang được chú trọng, đặc biệt là sự tham gia của người dân trong các xã điểm xây dựng nông thôn mới (NTM) Sự tham gia này không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn góp phần vào việc phát triển kinh tế địa phương Các HTX cần phát huy vai trò của mình trong việc kết nối người dân, tạo ra các sản phẩm chất lượng và đáp ứng nhu cầu thị trường.
Các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) bao gồm yếu tố kinh tế, xã hội và tâm lý Trong đó, yếu tố kinh tế như lợi ích tài chính và khả năng tiếp cận nguồn lực là những yếu tố quyết định và phổ biến Bên cạnh đó, sự tin tưởng và mối quan hệ cộng đồng cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy quyết định tham gia của các cá nhân.
- (3) Giải pháp chính sách nhằm thu hút người dân tham gia vào mô hình HTX?
Phạm vi nghiên cứu
1.4.1 Về không gian: Đối tượng khảo sỏt của luận văn là cỏc hộ gia ủỡnh chuyờn sản xuất nụng nghiệp cú tham gia hoặc khụng tham gia vào mụ hỡnh HTX ở 4 xó ủiểm xõy dựng NTM ở 4 huyện Hũa Thành, Chõu Thành, Tõn Biờn và Trảng Bàng thuộc ủịa bàn tỉnh Tõy Ninh Từ ủú, nghiờn cứu cỏc nhõn tố quyết ủịnh sự tham gia của người dõn vào mô hình HTX THT và các HTX thuộc lĩnh vực khác không thuộc phạm vi nghiờn cứu của ủề tài
Cỏc dữ liệu, thụng tin của ủề tài thu thập, tổng hợp từ nhiều nguồn, từ cỏc thông tin chung trong nước, quốc tế và của tỉnh Tây Ninh
Thông tin thứ cấp được sử dụng để phân tích chủ đề được thu thập từ các báo cáo của Liên minh Hợp tác xã tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cùng với UBND tỉnh Tây Ninh trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến 2014.
Những số liệu sơ cấp ủược thu thập trực tiếp từ bảng cõu hỏi phỏng vấn 120 hộ gia ủỡnh trong 02 tha)ng tư5 tha)ng 8/2014 ủờ)n tha)ng 9/2014.
Phương pháp nghiên cứu
Tác giả áp dụng phương pháp thống kê mô tả và mô hình hồi quy probit để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào hợp tác xã (HTX) của người dân tại tỉnh Tây Ninh.
Luận văn khảo sát và đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia mô hình hợp tác xã (HTX) của người dân tỉnh Tây Ninh Tác giả đã chỉ ra rằng những yếu tố này đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích người dân tham gia HTX, từ đó góp phần xây dựng tiêu chí 13 về hình thức tổ chức sản xuất trong Bộ tiêu chí Quốc gia về Nông thôn mới tại các xã điểm của tỉnh Các giải pháp được đề xuất nhằm thu hút và khuyến khích sự tham gia của người dân vào mô hình HTX.
Kết cấu ủề tài
Luận văn ủược chia thành 5 chương:
- Chương II: Cơ sở lý thuyết và tổng quan tài liệu
- Chương III: Thiết kế nghiên cứu
- Chương IV: Kết quả nghiên cứu
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Tổng quan về mô hình HTX và vai trò của HTX trong xây dựng NTM: 5 1 Tổng quan về HTX
Phong trào phát triển hợp tác xã trên thế giới đã có gần 200 năm hình thành và phát triển, từ các nước công nghiệp phát triển đến các nước nghèo kém phát triển Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Liên minh Hợp tác xã Quốc tế (ICA) đã tổng kết kinh nghiệm phát triển hợp tác xã và khuyến cáo rằng hợp tác xã là tổ chức tự chủ của các cá nhân liên kết tự nguyện nhằm đáp ứng nhu cầu kinh tế, xã hội và văn hóa thông qua doanh nghiệp sở hữu chung Bản chất này được thể hiện qua luật pháp về hợp tác xã của nhiều quốc gia, trong đó nhiều nước đang cải cách và bổ sung luật pháp theo kinh nghiệm toàn cầu Hợp tác xã không chỉ là kết tinh của gần 200 năm phát triển với nhiều thăng trầm, mà còn là cơ sở vật chất cho việc hiện thực hóa các giá trị như tự giúp đỡ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, công bằng, bình đẳng và đoàn kết Các nguyên tắc như tham gia tự nguyện, kiểm soát dân chủ, và chăm lo cho cộng đồng cũng được đề cao, giúp các giá trị và nguyên tắc này lan tỏa sâu rộng trong xã hội.
Từ năm 1927, trong tác phẩm “Đường cách mạng”, Bác Hồ đã có những phân tích sâu sắc về hợp tác xã, nhấn mạnh tư tưởng về mô hình này Ông chỉ ra rằng xã viên là chủ thể của hợp tác xã, và mục tiêu chính là mang lại lợi ích trực tiếp cho họ Hợp tác xã cần phải tự chủ, không chỉ nhằm mục đích lợi nhuận mà cũng không phải là tổ chức từ thiện.
Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị khẳng định rằng hợp tác xã và tập đoàn sản xuất là tổ chức kinh tế tự nguyện của nông dân, hoạt động dựa trên nguyên tắc tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất-kinh doanh Đặc biệt, Chỉ thị số 68-CT/TW ngày 24/5/1996 và Nghị quyết Đại hội VIII nhấn mạnh khái niệm “kinh tế hợp tác”, khẳng định nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi và quản lý dân chủ của hợp tác xã Nghị quyết Đại hội IX, X và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010 tiếp tục nhấn mạnh việc phát huy tính tự chủ của hộ gia đình, chú trọng phát triển các hình thức hợp tác xã cung cấp dịch vụ, vật tư và tiêu thụ sản phẩm, đồng thời khẳng định nguyên tắc hợp tác tự nguyện, dân chủ, bình đẳng, công khai và tự chịu trách nhiệm.
Xu hướng phát triển kinh tế tập thể ở Việt Nam hiện nay phù hợp với kinh nghiệm hợp tác xã toàn cầu và chủ trương của Đảng, thể hiện sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong bối cảnh đổi mới Tư tưởng Hồ Chí Minh về hợp tác xã cũng góp phần quan trọng vào việc này.
Ngày 20/11/2012, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Hợp tác xã năm 2012, có hiệu lực từ ngày 01/7/2013 Theo Điều 3, khoản 1 của luật này, hợp tác xã được định nghĩa là tổ chức kinh tế tập thể, có tư cách pháp nhân, được thành lập bởi ít nhất 07 thành viên tự nguyện nhằm hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và kinh doanh Mục tiêu của hợp tác xã là tạo việc làm và đáp ứng nhu cầu chung của các thành viên, dựa trên nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm, bình đẳng và dân chủ trong quản lý.
Khi hợp tác xã phát triển lên trình độ cao hơn, sẽ hình thành các doanh nghiệp thuộc hợp tác xã Các doanh nghiệp này hoạt động theo Luật doanh nghiệp và có tư cách pháp nhân Hợp tác xã có quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài chính trong phạm vi vốn điều lệ, vốn tích lũy và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.
2.1.1.2 Lịch sử hình thành phong trào HTX ở Việt Nam:
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào hợp tác xã (HTX) ở Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng trong hơn 65 năm qua, đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước Liên minh HTX Việt Nam (2012) đã nhấn mạnh tầm quan trọng của phong trào HTX qua các thời kỳ phát triển khác nhau trong "Đề cương hướng dẫn tuyên truyền ngày Hợp tác xã Việt Nam".
Sau Cách mạng tháng Tám (1945), phong trào kinh tế hợp tác đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở nhiều vùng tự do và căn cứ địa cách mạng, đáp ứng lời kêu gọi kháng chiến kiến quốc của Hồ Chủ tịch Ngày 08/3/1948, tại Chiến khu Việt Bắc, Hợp tác xã thủy tinh Dân chủ được thành lập, đánh dấu bước khởi đầu cho sự phát triển của phong trào hợp tác xã ở Việt Nam.
Thời kỳ này, hợp tác xã (HTX) và các hình thức tổ chức sản xuất tập thể đang trong giai đoạn phát triển hạn chế, nhưng đã thu hút hàng chục vạn nông dân và thợ thủ công tham gia Sự phát triển của phong trào kinh tế hợp tác giúp nông dân thoát khỏi sự ràng buộc của các phương thức sản xuất phong kiến, nâng cao vị thế của họ trong xã hội Đồng thời, HTX cũng đóng góp tích cực vào việc đảm bảo hậu cần cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, huy động sức người và sức của cho tiền tuyến.
Trong giai đoạn kháng chiến chống thực dân Pháp, các cơ sở kinh tế hợp tác đã hình thành và được Đảng, Nhà nước chú trọng phát triển sau khi miền Bắc được giải phóng Chỉ trong ba năm (1958 - 1960), cả nước đã thành lập hơn 50 nghìn hợp tác xã (HTX), trong đó có 41 nghìn HTX nông nghiệp Đến năm 1960, miền Bắc đã hoàn thành việc hợp tác hóa bậc thấp trong nông nghiệp với 2.760 HTX tiểu thủ công nghiệp, hơn 250 HTX mua bán cấp huyện, 5.294 HTX tín dụng và hơn 520 HTX ngư nghiệp.
Việc phát triển hợp tác xã (HTX) trong giai đoạn này đã trở thành một phong trào cách mạng lớn, thu hút đông đảo hộ nông dân và người lao động tham gia Hoạt động của các HTX đã đóng góp quan trọng vào việc khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với tốc độ cao Thông qua việc xây dựng và phát triển HTX, quan hệ sản xuất mới được hình thành, khai thác hiệu quả tư liệu sản xuất nhỏ, thợ thủ công và tiểu thương, góp phần thực hiện thành công công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc Quan hệ sản xuất mới phù hợp với các yếu tố chính trị, xã hội đã tạo ra sự hăng hái trong sản xuất nông dân, cải thiện đời sống và mang lại sự phát triển rõ rệt cho nông thôn về kinh tế, văn hóa và xã hội.
Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến việc hình thành các cơ quan quản lý và hỗ trợ hợp tác xã (HTX) từ rất sớm Năm 1955, Chính phủ đã thành lập hệ thống Ban quản lý HTX từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố, giao cho các Bộ, ngành nhiệm vụ hỗ trợ phát triển HTX Đến năm 1961, Liên hiệp các HTX TTCN Trung ương được thành lập, thực hiện tốt công tác tuyên truyền và vận động phát triển mạng lưới HTX, đồng thời hướng dẫn, hỗ trợ nghiệp vụ và đào tạo cán bộ cho các HTX, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của các HTX trong các ngành, lĩnh vực.
Phát huy thành quả đạt được, phong trào kinh tế hợp tác và hợp tác xã (HTX) giai đoạn này tiếp tục được đẩy mạnh Cùng với việc thực hiện cuộc vận động cải tiến quản lý, xây dựng các HTX bậc cao với quy mô mở rộng trong lĩnh vực nông nghiệp, hàng nghìn HTX trong lĩnh vực phi nông nghiệp đã được thành lập, thu hút hàng triệu nhân dân tham gia.
Các hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển đổi hình thức tổ chức lao động tập thể, từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất tập trung Họ áp dụng máy móc, công cụ và kỹ thuật canh tác mới vào quy trình sản xuất Cơ sở vật chất kỹ thuật của các hợp tác xã được nâng cao, góp phần tăng giá trị tài sản cố định của các HTX.
Từ năm 1960 đến 1965, số hộ nông dân tham gia hợp tác xã (HTX) tăng từ 84,8% lên 90%, tăng gấp 6,5 lần Điều này nhờ vào việc xây dựng các công trình thủy lợi, cải tạo ruộng đất và khai hoang phục hóa được đẩy mạnh.
Cỏc nhõn tố ảnh hưởng ủến sự tham gia người dõn vào HTX
Lê Đình Thắng (1993) nhận định rằng nông hộ đóng vai trò là tế bào kinh tế xã hội và là hình thức kinh tế cơ sở trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn Trong khi đó, Đào Thế Tuấn (1997) định nghĩa hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cỏ và các hoạt động phi nông nghiệp tại nông thôn.
Nông hộ là những hộ gia đình chuyên sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, làm kinh tế tổng hợp và các hoạt động khác phục vụ cho sản xuất nông nghiệp Các nông hộ này có tính tự sản xuất, do cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
2.2.2 Cỏc nhõn tố ảnh hưởng ủến sự tham gia của người dõn vào HTX:
Nghiên cứu của Shi Zheng, Zhigang Wang và Titus O Awokuse (2012) chỉ ra rằng nhiều yếu tố ảnh hưởng đến sự sẵn sàng tham gia hợp tác xã (HTX) của nông dân Trung Quốc, bao gồm: (1) trình độ giáo dục; (2) kinh nghiệm sản xuất; (3) độ tuổi của chủ hộ; (4) quy mô hộ gia đình; (5) diện tích đất phục vụ sản xuất nông nghiệp; (6) tổng thu nhập hàng năm; (7) khả năng tiếp cận các dịch vụ; (8) sự hỗ trợ từ chính phủ và hoạt động của HTX; và (9) sự tham gia của các thành viên trong hiệp hội, cộng đồng.
Dựa trên các nghiên cứu về mô hình hợp tác xã (HTX) nông nghiệp, sự tham gia của người dân vào mô hình này được ảnh hưởng bởi ba nhóm nhân tố chính: thứ nhất, nhóm nhân tố về đặc điểm ủng hộ; thứ hai, nhóm nhân tố về kinh tế; và thứ ba, nhóm nhân tố về xã hội.
2.2.2.1 Nhúm nhõn tố về ủặc ủiểm nụng hộ:
- Giỏo dục hay trỡnh ủộ học vấn: ủược tớnh bằng số năm ủến trường của chủ hộ
- Kinh nghiệm sản xuất: ủược hiểu là số năm chủ hộ tham gia và lao ủộng trong lĩnh vực nông nghiệp
- Tuổi chủ hộ: tính trên năm sinh chủ hộ cung cấp trong quá trình khảo sát
- Quy mụ hộ hay nhõn khẩu: ủược xỏc ủịnh bằng số thành viờn cựng sinh sống chung trong một hộ gia ủỡnh
2.2.2.2 Nhúm nhõn tố về ủặc ủiểm về kinh tế:
Kinh tế nông hộ đóng vai trò quan trọng trong nghiên cứu, bao gồm các yếu tố như diện tích đất canh tác phục vụ sản xuất nông nghiệp và tổng thu nhập hàng năm của hộ.
- Diện tớch ủất sản xuất nụng nghiệp bao gồm ủất trồng cõy lõu năm và cõy hàng năm
Thu nhập là tổng số tiền mà hộ gia đình nhận được từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp Trong nghiên cứu này, tác giả tập trung vào việc phân tích thu nhập để kiểm định giả thuyết giữa hộ có thu nhập cao và hộ có thu nhập thấp, nhằm xác định xu hướng tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) và từ đó đề xuất chính sách phù hợp.
Ngoài các nhân tố đã đề cập, sự tiếp cận các dịch vụ, hỗ trợ từ chính phủ và hoạt động của hợp tác xã (HTX) cũng đóng vai trò quan trọng Trong nghiên cứu này, tác giả dựa vào chính sách ưu đãi tín dụng của chính phủ đối với mô hình HTX và nhu cầu của hộ nông dân để đề xuất biến nhu cầu vay Điều này nhằm kiểm định tác động của biến này đối với quyết định tham gia mô hình HTX của họ.
2.2.2.3 Nhúm nhõn tố về ủặc ủiểm về xó hội:
Các thành viên trong hiệp hội và tổ chức như Hội nông dân thường là những người có đặc điểm chuyên sản xuất nông nghiệp Họ cũng có thể tham gia vào các tổ chức khác như Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, và Hội Cựu Chiến binh Việc tham gia các tổ chức này giúp nông dân tiếp cận thông tin về chính sách của Đảng và Nhà nước, tạo cơ hội giao lưu, chia sẻ kinh nghiệm và hợp tác trong sản xuất, từ đó cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập.
2.3 Khảo luận nghiên cứu liên quan:
Nghiên cứu của Shi Zheng, Shigang Wang và Titus O Awokuse (2011) tập trung vào các yếu tố quyết định nhận thức và tham gia vào mô hình hợp tác xã nông nghiệp tại tỉnh Cát Lâm, Trung Quốc Họ áp dụng mô hình hồi quy probit để phân tích nhận thức, hành vi tham gia và tỷ lệ tham gia của người dân Kết quả cho thấy trình độ học vấn, mức độ rủi ro, mở rộng trang trại, chi phí hoạt động, vị trí địa lý và các loại cây trồng là những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nhận thức và hành vi tham gia của nông dân Nghiên cứu chỉ ra rằng hành vi tham gia của nông dân có mối liên hệ chặt chẽ với nhận thức của họ về mô hình hợp tác xã, trong đó trình độ học vấn là yếu tố then chốt quyết định mức độ nhận thức.
Nugussie, W.Z (2010) đã nghiên cứu lý do tại sao một số người dân nông thôn ở Tigray, Ethiopia, gia nhập hợp tác xã trong khi những người khác không Tác giả sử dụng phương pháp thảo luận nhóm, phỏng vấn và khảo sát hộ gia đình kết hợp với mô hình probit Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, ngoài sở thích cá nhân, có nhiều yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến quyết định tham gia hợp tác xã, bao gồm: hộ gia đình có chủ hộ nam, thành viên trong hiệp hội nông thôn, tần suất tham gia các cuộc họp công cộng, làm việc trong các tổ chức nhà nước, khả năng tiếp cận các tổ chức tín dụng và đào tạo, số người bình quân trong hộ, số lượng thành viên đã học trung học, cùng với khả năng tiếp cận thông tin qua truyền hình và đài phát thanh.
Dựa trên nghiên cứu trước đó, tác giả đã lựa chọn phương pháp khảo sát và phỏng vấn hộ gia đình phù hợp với điều kiện địa phương Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy probit để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia của các hộ gia đình vào hợp tác xã (HTX), bao gồm trình độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất, nhân khẩu, tham gia hội đoàn, đất sản xuất, nhu cầu vay và thu nhập.
Hiện tại, chưa có nghiên cứu trực tiếp liên quan đến chủ đề đã chọn Tuy nhiên, có thể tham khảo một số đề tài thuộc các lĩnh vực khác để làm phong phú thêm nội dung nghiên cứu.
Nghiên cứu của Mai Văn Thành và cộng sự (2004) đã điều tra các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình, thông qua phỏng vấn 47 hộ nông dân được chọn ngẫu nhiên từ hai nhóm: nhóm áp dụng và nhóm không áp dụng Kết quả cho thấy không có sự khác biệt về độ tuổi của chủ hộ giữa hai nhóm, tuy nhiên, nhóm hộ áp dụng hệ thống nông lâm kết hợp lại có trình độ học vấn cao hơn nhóm không áp dụng.
Nghiên cứu của Nguyễn Quốc Nghi và cộng sự (2012) về các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia tổ chức du lịch cộng đồng của người dân tại tỉnh An Giang đã thu thập dữ liệu từ 135 hộ gia đình ở xã Mỹ Hòa Hưng (huyện Chợ Mới) và xã Châu Giang (Thị xã Tân Châu) Kết quả phân tích hồi quy chỉ ra rằng có năm yếu tố chính tác động đến quyết định tham gia du lịch cộng đồng, bao gồm trình độ học vấn của chủ hộ, quy mô gia đình, thu nhập gia đình, vốn xã hội và nghề truyền thống Đặc biệt, quy mô gia đình được xác định là yếu tố có ảnh hưởng mạnh nhất đến quyết định tham gia phát triển du lịch của người dân.
Dựa trên các nghiên cứu trước, tác giả đã bổ sung thêm phương pháp thu thập dữ liệu thông qua khảo sát và phỏng vấn nông hộ Ngoài ra, dựa vào kết quả từ hai nghiên cứu, tác giả đã loại trừ biến tuổi của chủ hộ và chọn các biến trình độ học vấn, quy mô gia đình, thu nhập gia đình để thực hiện phân tích hồi quy.
Mô hình nghiên cứu
Dựa trên kết quả nghiên cứu thực nghiệm, tác giả đã khảo sát 120 hộ gia đình chuyên sản xuất nông nghiệp tại các xã xây dựng nông thôn mới ở tỉnh Tây Ninh để xác định các yếu tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) Tác giả đã xây dựng mô hình hồi quy và lựa chọn các biến trong phân tích Kết quả phân tích cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào mô hình HTX được phân loại thành các nhóm nhân tố khác nhau.
- Nhúm nhõn tố ủặc ủiểm của hộ: Bao gồm cỏc nhõn tố trỡnh ủộ học vấn, kinh nghiệm sản xuất, nhân khẩu của hộ
- Nhúm nhõn tố kinh tế: Bao gồm diện tớch ủất sản xuất, thu nhập và nhu cầu vay của hộ
Những nhân tố xã hội ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) của hộ gia đình được phân tích thông qua việc tham gia các tổ chức như Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Cựu Chiến binh và Đoàn thanh niên Để thực hiện phân tích này, tác giả áp dụng mô hình hồi quy probit tổng quát, nhằm xác định các yếu tố quyết định sự tham gia của các hộ gia đình vào HTX.
Trong ủú: Yi* chưa biết Nú thường ủược gọi là biến ẩn Chỳng ta xem xột biến giả y i ủược khai bỏo như sau:
Biến phụ thuộc ủõy là một biến giả, với giá trị 1 nếu hộ tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) và giá trị 0 nếu hộ nông dân không tham gia.
Xij là các biến độc lập ảnh hưởng đến việc người nông dân tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) Các yếu tố này bao gồm trình độ học vấn, kinh nghiệm sản xuất, nhân khẩu học, tham gia hội đoàn, đất sản xuất, nhu cầu vay và thu nhập của họ.
Mô tả các biến sử dụng trong mô hình
Kết quả khảo sát cho thấy có 7 nhân tố ảnh hưởng đến quyết định tham gia hoặc không tham gia của hộ vào mô hình HTX, và đây chính là 7 biến độc lập quan trọng.
Bảng mô tả các biến:
STT Biến phụ thuộc Ký hiệu Cỏch ủo lường
Nhận giá trị 1 nếu hộ tham gia vào mô hình HTX và nhận giá trị 0 nếu hộ không tham gia mô hình HTX
Ký hiệu Cỏch ủo lường Tương quan kỳ vọng với biến phụ thuộc
1 Trỡnh ủộ học vấn Trinhdo Số năm ủến trường của chủ hộ +
2 Kinh nghiệm sản xuất kinhnghiem Số năm hoạt ủộng sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp +
3 Nhân khẩu nhankhau Tổng số thành viên trong gia ủỡnh +
Tổng diện tớch ủất sản xuất nông nghiệp của chủ hộ (ủvt: m 2 )
Tổng thu nhập bình quân trong 1 năm của hộ (ủvt:
Nhận giá trị 1 nếu có nhu cầu vay vốn, nhận giá trị 0 nếu không có nhu cầu
7 Tham gia Hội, đồn Hoidoan
Nhận giá trị 1 nếu là thành viên của các tổ chức Hội, đồn, nhận giá trị 0 nếu không là thành viên
Diễn giải nguyên nhân chọn biến :
- Yi: Quyết ủịnh tham gia vào mụ hỡnh HTX Nhận giỏ trị 1 nếu tham gia, giỏ trị 0 nếu không tham gia
Trình độ học vấn của chủ hộ được xác định dựa trên số năm học tại trường Biến này được kỳ vọng có mối tương quan với quyết định tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX).
Trỡnh ủộ học vấn của chủ hộ càng cao thỡ việc nắm bắt cỏc chủ trương, chớnh sỏch của nhà nước ủối với mụ HTX hỡnh càng cao
Kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp của hộ được đo lường bằng số năm lao động trong lĩnh vực này Sự gia tăng kinh nghiệm sẽ làm tăng khả năng tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) Hộ có nhiều năm kinh nghiệm sẽ dễ dàng hơn trong việc hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm với các hộ sản xuất khác, từ đó tạo ra mối liên kết chặt chẽ hơn Điều này không chỉ nâng cao hiệu quả sản xuất mà còn gia tăng lợi ích cho tất cả các bên tham gia trong mô hình HTX.
Số thành viên trong gia đình có mối liên hệ với quyết định tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) Việc tham gia HTX không chỉ giúp gia đình cải thiện thu nhập mà còn tạo ra việc làm cho lao động trong gia đình.
Diện tích đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến quyết định tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX) Các hộ gia đình sở hữu diện tích canh tác lớn có xu hướng dễ dàng liên kết hơn so với những hộ có diện tích canh tác nhỏ Điều này cho thấy mối tương quan giữa diện tích đất và khả năng tham gia vào HTX trong sản xuất nông nghiệp.
Thu nhập bình quân hàng năm của hộ gia đình, tính theo đơn vị ngàn đồng, có mối quan hệ thuận với quyết định tham gia mô hình hợp tác xã (HTX) Để tham gia HTX, các hộ gia đình cần đóng góp vốn và tài sản nhằm hỗ trợ hợp tác sản xuất Do đó, những hộ có thu nhập cao sẽ có khả năng đóng góp vốn tốt hơn và dễ dàng tham gia vào mô hình này.
Nhu cầu vay vốn được xác định bằng giá trị 1 nếu có nhu cầu và giá trị 0 nếu không Biến này được kỳ vọng sẽ có mối tương quan với quyết định tham gia mô hình hợp tác xã (HTX) Nhà nước hiện có chính sách ưu đãi về tín dụng cho mô hình HTX, vì vậy những hộ gia đình có nhu cầu vay vốn thường có xu hướng dễ dàng tham gia vào mô hình này hơn.
- Tham gia Hội, đồn: Nhận giá trị 1 nếu là thành viên của Hội, đồn và giá trị
Thành viên các tổ chức Hội, đồn có khả năng tiếp cận thông tin liên quan đến mô hình Hợp tác xã (HTX) dễ dàng hơn Điều này kỳ vọng sẽ tạo ra mối tương quan tích cực với quyết định tham gia vào mô hình HTX, từ đó thúc đẩy sự vận động và tham gia của các thành viên trong tổ chức.
Phương pháp thu thập số liệu, nguồn thông tin
Số liệu ủược sử dụng trong ủề tài bao gồm:
Số liệu thứ cấp từ các báo cáo của Liên minh HTX tỉnh, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, cùng UBND tỉnh sẽ được sử dụng để trả lời câu hỏi nghiên cứu về thực trạng hoạt động của mô hình HTX tại tỉnh Tây Ninh Bài viết sẽ tập trung vào sự tham gia của người dân vào mô hình này, đặc biệt là ở các xã điểm xây dựng NTM.
Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua phát phiếu điều tra các hộ nông dân tại 04 xã điểm xây dựng nông thôn mới thuộc các huyện Châu Thành, Tân Biên, Trảng Bàng và Hòa Thành Qua phỏng vấn sơ bộ 10 hộ nông dân để đánh giá mức độ phù hợp của các biến độc lập trong bảng câu hỏi, kết quả cho thấy sự phù hợp, sau đó tiến hành điều tra rộng rãi tại các xã Trong đó, huyện Châu Thành và Trảng Bàng có số lượng hợp tác xã (HTX) nhiều nhất, trong khi huyện Tân Biên và Hòa Thành có số lượng HTX ít nhất.
Mẫu khảo sát bao gồm 120 hộ dân, với 30 mẫu được chọn từ mỗi xã Các số liệu thu thập sẽ được sử dụng để trả lời cho các câu hỏi nghiên cứu liên quan đến việc ra quyết định tham gia hoặc không tham gia vào mô hình hợp tác xã (HTX).
Phương pháp phân tích số liệu
Cỏc phương phỏp ủược sử dụng ủể phõn tớch số liệu gồm:
Phương pháp thống kê mô tả được sử dụng để tổng quát thực trạng mô hình hợp tác xã (HTX) tại tỉnh Tây Ninh, đồng thời phân tích sự tham gia của người dân vào mô hình này.
Phương pháp hồi quy tuyến tính được sử dụng để xác định ảnh hưởng của các yếu tố liên quan đến quyết định tham gia hay không tham gia vào mô hình HTX Qua đó, cần lựa chọn những yếu tố ảnh hưởng có ý nghĩa, phát huy các yếu tố tích cực và khắc phục những yếu tố tiêu cực Phân tích hồi quy sẽ được thực hiện thông qua mô hình probit trong kinh tế lượng.