GIỚI THIỆU
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong 5 năm (2010- 2014), đã có nhiều chính sách huy động các nguồn lực phát triển và sử dụng nguồn vốn đầu tư cho hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện Ngọc Hiển được tăng cường đầu tư, nhất là về hạ tầng giao thông, nông thôn nhiều dự án đã triển khai hoàn thành đúng tiến độ, đưa vào khai thác sử dụng và phát huy hiệu quả đầu tư như các tuyến đường ô tô đến trung tâm xã Tân Ân Tây, Tam Giang Tây; giao thông nông thôn, lưới điện, các công trình thủy lợi… góp phần thay đổi diện mạo bộ mặt cả thành thị và nông thôn huyện Ngọc Hiển, thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và nâng cao đời sống của nhân dân (UBND huyện Ngọc Hiển, 2014)
Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở vật chất và hiện đại hóa đất nước, với ngân sách huyện Ngọc Hiển dành 30% cho lĩnh vực này hàng năm Tuy nhiên, chất lượng hoạt động đầu tư tại nhiều địa phương trong tỉnh vẫn còn hạn chế Do đó, nâng cao chất lượng quản lý đầu tư XDCB từ nguồn ngân sách nhà nước là nhiệm vụ cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
Quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN tại huyện Ngọc Hiển đã có nhiều nỗ lực trong việc thực hiện chính sách và cải tiến quy trình cấp phát Tuy nhiên, vẫn còn nhiều bất cập trong các khâu quy trình, thủ tục cấp phát, sử dụng và thanh toán vốn đầu tư, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn.
Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ ngân sách nhà nước (NSNN) còn hạn chế, với tình trạng thất thoát và lãng phí vẫn diễn ra phổ biến (UBND huyện Ngọc Hiển, 2014).
Việc quản lý và sử dụng vốn ngân sách Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản, đang gặp nhiều thách thức như nợ đọng và lãng phí Cần thiết phải có những giải pháp hiệu quả để khắc phục tình trạng này, bao gồm cải cách hành chính và quản lý chi tiêu công Đề tài “Đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tại huyện Ngọc Hiển - tỉnh Cà Mau” được chọn nhằm nghiên cứu và tìm ra những biện pháp tối ưu cho việc quản lý vốn đầu tư XDCB từ NSNN.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1.2.1 Mục tiêu chung Đề tài nghiên cứu nhằm đánh giá công tác quản lý, sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN tại huyện Ngọc Hiển trên cơ sở xem xét, đánh giá việc đầu tư (tập trung hay dàn trải), tổ chức thực hiện vốn đầu tư và hiệu quả sử dụng vốn
Mục tiêu 1: Đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB từ NSNN huyện Ngọc Hiển
Mục tiêu 2: Đánh giá tác động của đầu tư XDCB từ NSNN đến hoạt động sản xuất và phúc lợi của hộ gia đình tại huyện Ngọc Hiển
Mục tiêu 3: Đề xuất, gợi ý các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB từ nguồn NSNN huyện Ngọc Hiển.
CÂU HỎI NGHIÊN CỨU
Câu hỏi 1: Quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước tại huyện Ngọc Hiển hiệu quả như thế nào?
Câu hỏi 2: Tác động của vốn đầu tư XDCB từ NSNN đến tình hình sản xuất và phúc lợi của hộ gia đình ở huyện Ngọc Hiển như thế nào?
Câu hỏi 3: Giải pháp nào giúp nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB từ nguồn NSNN huyện Ngọc Hiển?
ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Công tác quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) tại huyện Ngọc Hiển là trọng tâm của nghiên cứu, nhằm đánh giá lợi ích mà các hộ gia đình nhận được từ nguồn vốn đầu tư này.
Nghiên cứu này tập trung vào các dự án nhóm C được UBND huyện Ngọc Hiển phê duyệt và làm chủ đầu tư trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến 2014.
1.4.3 Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng từ dữ liệu phỏng vấn những hộ dân trực tiếp hưởng lợi từ các công trình đầu tư XDCB từ NSNN của huyện Ngọc Hiển.
BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần phụ lục và các vấn đề có liên quan thì bố cục của đề tài gồm 5 chương, được chia như sau:
Chương 2: Tổng quan lý thuyết
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu và dữ liệu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách.
TỔNG QUAN LÝ THUYẾT
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ XDCB
2.1.1.1 Đầu tư, đầu tư XDCB
Trong đời sống kinh tế - xã hội, khái niệm đầu tư được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau Từ góc độ tiêu dùng, đầu tư là việc hy sinh tiêu dùng hiện tại để đạt được tiêu dùng lớn hơn trong tương lai Còn từ góc độ rủi ro, đầu tư được xem là một hoạt động mạo hiểm, trong đó các nguồn lực hiện có được đánh đổi với hy vọng đạt được lợi ích lớn hơn trong tương lai Tuy nhiên, sự mạo hiểm này đi kèm với khả năng thành công hoặc thất bại của những kỳ vọng đó (Bùi Xuân Phong, 2006).
Đầu tư là việc hy sinh nguồn lực hiện tại như tiền, tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và trí tuệ, nhằm thực hiện các hoạt động để thu hút kết quả lớn hơn trong tương lai (Bùi Xuân Phong, 2006).
Đầu tư là quá trình bỏ vốn hiện tại nhằm thu lợi nhuận lớn hơn trong tương lai, với vốn đầu tư được sử dụng cho mục đích này Đầu tư XDCB (Xây dựng cơ bản) là một hình thức đầu tư, tập trung vào việc tạo ra các sản phẩm cơ sở vật chất và kỹ thuật cho nền kinh tế - xã hội, bao gồm các công trình như nhà máy, đường giao thông, hồ đập thủy lợi, trường học và bệnh viện.
Trong lĩnh vực đầu tư kinh tế, có hai loại chính: đầu tư cơ bản và đầu tư vận hành Đầu tư cơ bản tập trung vào việc tạo ra các tài sản cố định, đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và duy trì nền tảng kinh tế.
Tài sản cố định (TSCĐ) đóng vai trò quan trọng trong nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội Không có hoạt động đầu tư nào có thể diễn ra mà không cần đến TSCĐ.
Đầu tư vận hành là quá trình đầu tư nhằm tạo ra tài sản lưu động phục vụ cho tài sản cố định (TSCĐ) hoạt động, bao gồm các phương pháp như xây dựng mới, mua sắm hoặc thuê Điều này đảm bảo toàn bộ cơ sở kỹ thuật đáp ứng tiêu chuẩn của Nhà nước.
Đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) là hoạt động tạo ra tài sản cố định (TSCĐ) thông qua các bước như khảo sát, thiết kế, xây dựng và lắp đặt Đây là một phần quan trọng trong quá trình đầu tư, nhằm nâng cao cơ sở vật chất và năng lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân XDCB không chỉ là việc tạo ra TSCĐ mà còn là một quá trình đổi mới và tái sản xuất có kế hoạch, đóng vai trò quyết định trong việc phát triển kinh tế Để thực hiện đầu tư XDCB hiệu quả, cần có nguồn vốn lớn và quản lý chặt chẽ, tránh lãng phí tài chính cho đất nước.
2.1.1.2 Thể chế, cơ chế, chính sách
Thể chế là các quy định và luật lệ trong một xã hội, yêu cầu cá nhân và tổ chức tuân thủ vì lợi ích cộng đồng Chúng là những ràng buộc do con người tạo ra để định hướng tương tác xã hội Khi phát triển tốt, thể chế khuyến khích hành động tích cực và tạo ra kết quả tốt đẹp Đồng thời, thể chế cũng phản ánh bản chất, chức năng và vai trò của Nhà nước, xác định cơ chế tương ứng trong xã hội.
Cơ chế được hiểu là cách thức tổ chức và sắp xếp để định hướng cho sự vận động của sự vật hay hiện tượng Nó bao gồm hệ thống các mối quan hệ hữu cơ, liên quan đến tổ chức, hoạt động, tồn tại và phát triển của các sự vật, hiện tượng Nói một cách khác, cơ chế chính là cách thức hoạt động của một tập hợp các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau, phản ánh quá trình thực hiện của chúng.
Cơ chế quản lý kinh tế là việc áp dụng các hình thức và biện pháp nhằm điều chỉnh hoặc hạn chế các hoạt động kinh tế, với mục tiêu nâng cao hiệu quả Điều này bao gồm cả các công cụ quản lý vĩ mô và vi mô.
Cơ chế quản lý tài chính là cách mà nhà nước sử dụng các công cụ để điều chỉnh quá trình phân phối và sử dụng nguồn lực tài chính, nhằm đạt được các mục tiêu đã đề ra.
Chính sách là những chủ trương và biện pháp do đảng phái hoặc chính phủ đề ra trong các lĩnh vực chính trị - xã hội Những chính sách này được xây dựng dựa trên quyền lực của các chủ thể quản lý, căn cứ vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế Mục đích của việc ban hành chính sách là nhằm đạt được những mục tiêu ưu tiên nhất định.
2.1.1.3 Vốn và vốn đầu tư XDCB từ nguồn NSNN
Vốn đầu tư là tổng giá trị cần thiết để tạo ra tài sản nhằm thu nhập trong tương lai Các nguồn lực sử dụng cho đầu tư được gọi là vốn đầu tư, và nếu quy đổi ra tiền, nó bao gồm toàn bộ chi phí đầu tư.
Vốn đầu tư là yếu tố quyết định cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong việc kết hợp các yếu tố sản xuất kinh doanh Nó là yếu tố hàng đầu cho tất cả các dự án đầu tư nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước.
Vốn đầu tư XDCB bao gồm tất cả chi phí liên quan đến khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, thiết kế xây dựng, mua sắm và lắp đặt thiết bị, cùng với các chi phí khác được ghi trong tổng dự toán.
CÁC NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về đầu tư cơ bản và cơ chế kiểm tra, giám sát vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước bao gồm nghiên cứu của Vũ Tuấn Anh và Nguyễn Quang Thái vào năm 2011 với đề tài “Đầu tư công - Thực trạng và tái cơ cấu” Nghiên cứu này đã phân tích các ưu, nhược điểm trong chính sách và thực tiễn quản lý đầu tư công tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư công trong nước.
Nghiên cứu của tác giả Phạm Sỹ Liêm vào năm 2007, mang tên “Các chế tài hạn chế phòng ngừa và xử lý lãng phí thất thoát trong đầu tư xây dựng”, đã đề xuất các biện pháp xử lý đối với những cá nhân hoặc tổ chức vi phạm quy định pháp luật, gây ra lãng phí và tham nhũng trong đầu tư xây dựng Bài viết cũng nhấn mạnh sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế chính sách liên quan đến lĩnh vực này để nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư.
Báo cáo "Rà soát nâng cao hiệu quả đầu tư của nền kinh tế Việt Nam hiện nay" do Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố năm 2011 chỉ ra các rào cản ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư tại Việt Nam Báo cáo cũng đề xuất những giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả đầu tư công trong nước.
Nghiên cứu “Lập ngân sách theo kết quả đầu ra và sự vận dụng vào trong quản lý chi tiêu công của Việt Nam” của tác giả Sử Đình Thành (2004) đã hệ thống hoá và phát triển lý luận về quản lý chi tiêu công trong nền kinh tế thị trường Bài viết phân tích và đánh giá thực trạng lập và quản lý chi tiêu công tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các giải pháp xây dựng khuôn khổ lập ngân sách theo kết quả đầu ra trong quản lý chi tiêu công.
Năm 2012, tác giả Sử Đình Thành tiếp tục nghiên cứu vấn đề này với đề tài
Nghiên cứu này tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống giám sát và đánh giá chi tiêu công tại Việt Nam, với mục tiêu xây dựng hệ thống M&E dựa trên kết quả Hệ thống này đại diện cho phương thức quản trị công hiện đại, cung cấp công cụ đo lường hiệu quả chi tiêu công và liên kết chi tiêu với các mục tiêu ưu tiên Nghiên cứu tìm kiếm các phương pháp phát triển hệ thống M&E phù hợp với bối cảnh hội nhập của Việt Nam, nhằm thúc đẩy cải cách khu vực công và hướng tới phát triển bền vững.
Nghiên cứu của Hồ Minh Thế năm 2010 về "Chống thất thoát lãng phí trong đầu tư XDCB từ vốn ngân sách" đã chỉ ra những vấn đề phổ biến gây thất thoát trong đầu tư công từ nguồn vốn NSNN Qua phân tích thực tiễn hoạt động của Kiểm toán nhà nước, nghiên cứu đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện công tác phòng chống thất thoát lãng phí trong đầu tư công tại Việt Nam.
Các cơ quan nhà nước và bộ ngành ở Việt Nam, như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, và Tổng hội xây dựng Việt Nam, cùng với một số tổ chức quốc tế, đã công bố nhiều báo cáo, nghiên cứu và ấn phẩm liên quan đến chi tiêu công của Việt Nam.
Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố nhiều báo cáo và ấn phẩm liên quan đến kinh tế - xã hội Việt Nam, như "Báo cáo phát triển Việt Nam" và "Việt Nam quản lý chi tiêu công để tăng trưởng và giảm nghèo" Các nghiên cứu này, dù được thực hiện bởi cá nhân nhà khoa học hay cơ quan, đều nhận định rằng hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước ở Việt Nam còn thấp Hơn nữa, các báo cáo chỉ ra nhiều nguyên nhân dẫn đến thất thoát, lãng phí, tham nhũng và tiêu cực trong quá trình sử dụng nguồn vốn này.
Cao Hào Thi (2006) đã tiến hành nghiên cứu 239 dự án cơ sở hạ tầng tại Việt Nam và xác định rằng sự thành công của dự án phụ thuộc vào ba nhóm nhân tố chính: năng lực của nhà quản lý dự án, năng lực của các thành viên tham gia, và môi trường bên ngoài Mức độ ảnh hưởng của các yếu tố này còn bị tác động bởi đặc trưng của dự án, cụ thể là giai đoạn hoàn thành và thực hiện trong vòng đời dự án.
Nguyễn Quý Nguyên và Cao Hào Thi (2010) đã phân tích 150 dự án xây dựng dân dụng tại khu vực phía Nam và rút ra rằng có bốn yếu tố chính ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành công của dự án Những yếu tố này bao gồm sự hỗ trợ từ tổ chức, năng lực điều hành của nhà quản lý dự án, năng lực của các thành viên tham gia, và môi trường bên ngoài Bên cạnh đó, đặc điểm của chủ đầu tư và ngân sách dự án được xem là những yếu tố gián tiếp tác động đến thành công của dự án.
Nghiên cứu của Lưu Minh Hiệp (2009) trên 100 dự án tại TP.HCM chỉ ra rằng các yếu tố chính sách, kinh tế/tài chính, điều kiện tự nhiên và tình trạng trộm cắp/tội phạm đều ảnh hưởng đến rủi ro của dự án, bao gồm tiến độ và chi phí Tác động của các nhóm yếu tố này đến biến phụ thuộc được xác định là mạnh hoặc yếu, nhưng chỉ có ý nghĩa đáng kể đối với các dự án lớn có giá trị trên 10 triệu USD.
Nguyễn Thị Minh Tâm (2009) đã phân tích 216 dự án xây dựng tại TP.HCM và xác định 6 yếu tố chính ảnh hưởng đến biến động chi phí dự án, bao gồm năng lực của bên thực hiện, năng lực của bên hoạch định dự án, sự gian lận và thất thoát, cũng như các yếu tố kinh tế, chính sách và tự nhiên.
Mai Xuân Việt và Lương Đức Long (2012) đã tiến hành khảo sát 200 dự án xây dựng từ năm 2005 đến 2010 để xác định các yếu tố tài chính gây chậm trễ tiến độ Kết quả cho thấy có bốn nhóm nhân tố chính: thanh toán trễ hạn, quản lý dòng ngân lưu kém, tính không ổn định của thị trường tài chính và thiếu nguồn tài chính Phân tích hồi quy đa biến xác nhận mối quan hệ giữa các yếu tố này với chậm trễ tiến độ, với mức ý nghĩa 5% Trong đó, yếu tố thanh toán trễ hạn có ảnh hưởng mạnh nhất, tiếp theo là quản lý dòng ngân lưu kém, tính không ổn định của thị trường tài chính và thiếu nguồn tài chính.
Châu Ngô Anh Nhân (2011) đã thực hiện nghiên cứu đối với 165 dự án đầu tư xây dựng sử dụng vốn NSNN tại Khánh Hòa, phát hiện 30 yếu tố được rút gọn thành 8 nhóm nhân tố Kết quả cho thấy 7/8 nhóm yếu tố, trừ nguồn vốn, có mối quan hệ nghịch biến với tiến độ hoàn thành dự án Các nhóm yếu tố này, xếp theo mức độ ảnh hưởng từ mạnh đến yếu, bao gồm: Nhóm yếu tố môi trường bên ngoài, Chính sách, Hệ thống thông tin quản lý, Năng lực nhà thầu chính, Năng lực Chủ đầu tư, Phân cấp thẩm quyền cho Chủ đầu tư và Năng lực nhà tư vấn, với các giả thuyết được xác nhận ở mức ý nghĩa 1%.
Cho đến nay, chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước tại huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
KHUNG PHÂN TÍCH VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
3.1.1 Khung phân tích Để đạt mục tiêu đề ra, tác giả đề xuất khung nghiên cứu như hình 3-1
Hình 3-1: Khung phân tích do tác giả đề xuất Đối với mục tiêu 1 - Đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB
Mục tiêu 1: Đánh giá hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB từ
Mục tiêu 2 của nghiên cứu là đánh giá tác động của đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ ngân sách nhà nước (NSNN) đến hoạt động sản xuất và phúc lợi của hộ gia đình tại huyện Ngọc Hiển Việc phân tích này nhằm hiểu rõ hơn về mối liên hệ giữa đầu tư công và sự cải thiện đời sống của người dân địa phương.
Phúc lợi xã hội của người dân:
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư XDCB từ nguồn NSNN huyện Ngọc Hiển
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ ngân sách nhà nước (NSNN) tại huyện Ngọc Hiển được đánh giá thông qua dữ liệu thứ cấp, nhằm phân tích ảnh hưởng của quản lý đầu tư đến kinh tế - xã hội của huyện Mục tiêu thứ hai là đánh giá tác động của đầu tư XDCB từ NSNN đối với hoạt động sản xuất và phúc lợi của hộ gia đình, sử dụng dữ liệu sơ cấp thu thập từ phỏng vấn để phân tích ảnh hưởng của vốn đầu tư đến thu nhập, sức khỏe, y tế, giáo dục, và các hoạt động vui chơi giải trí của người dân trong khu vực nghiên cứu.
Nghiên cứu về hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ ngân sách nhà nước (NSNN) tại huyện Ngọc Hiển được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng Phương pháp này bao gồm việc phỏng vấn trực tiếp các hộ dân, những người trực tiếp hưởng lợi từ các công trình đầu tư XDCB của huyện.
Hình 3-2: Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu được tiến hành qua các bước sau: (1) Xác định vấn đề nghiên cứu;
(2) Tiến hành thu thập dữ liệu sơ cấp và thứ cấp; (3) Phân tích số liệu; (4) Tiến hành xây dựng các giải pháp
Xây dựng các giải pháp
CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ XDCB TỪ NSNN
3.2.1 Chỉ tiêu tiến độ giải ngân vốn XDCB từ NSNN
Tiến độ giải ngân được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa vốn đã giải ngân và tổng số vốn kế hoạch hàng năm, được tính theo công thức cụ thể.
Tỷ lệ giải ngân vốn XDCB = Tổng số vốn đã giải ngân x 100%
Tổng số vốn kế hoạch năm là chỉ tiêu tổng hợp cho thấy kết quả giải ngân nguồn vốn của một ngành hoặc địa phương tại một thời điểm cụ thể Chỉ số này phản ánh sự kết hợp của nhiều yếu tố, công đoạn và chủ thể liên quan, với kết quả cuối cùng thể hiện qua khối lượng xây dựng cơ bản (XDCB) và sản phẩm XDCB đã hoàn thành và được giải ngân.
Chỉ số này nổi bật với phương pháp thu thập số liệu thống kê đơn giản, dễ thực hiện và kiểm tra, đảm bảo tính chính xác cao Nó cũng có thể được sử dụng để phân tích và so sánh hoạt động kinh tế qua các thời kỳ khác nhau.
3.2.2 Nhóm các tiêu chí xác định thất thoát, lãng phí trong đầu tư XDCB
3.2.2.1 Thất thoát, lãng phí do chủ trương đầu tư
Việc xác định đúng chủ trương đầu tư là yếu tố quan trọng quyết định hiệu quả kinh tế và xã hội trong sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản Sai lầm trong việc xác định chủ trương đầu tư không chỉ dẫn đến hiệu quả thấp mà còn gây ra những hậu quả khó lường, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Những sai sót này có thể dẫn đến lãng phí và thất thoát nghiêm trọng vốn đầu tư, đặc biệt khi đầu tư không tuân thủ quy hoạch, hoặc quy hoạch không phù hợp với đặc điểm kinh tế, điều kiện tự nhiên và tài nguyên của địa phương.
Lựa chọn địa điểm đầu tư sai: Gây ra lãng phí, thất thoát vốn đầu tư
Xác định quy mô dự án, lựa chọn thiết bị, công nghệ không chính xác
Công tác thẩm định dự án trước khi ra quyết định đầu tư chưa đầy đủ
3.2.2.2 Thất thoát, lãng phí trong khâu chuẩn bị xây dựng
Thất thoát và lãng phí trong xây dựng thường xuất phát từ khâu thiết kế không tuân thủ các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật của nhà nước Việc hồ sơ thiết kế không phản ánh đúng tình hình thực tế về điều kiện tự nhiên, địa hình và nguồn nhân lực có thể dẫn đến những sai sót nghiêm trọng, gây ra hậu quả tiêu cực trong quá trình thi công công trình.
Thất thoát trong lập và quản lý dự toán không chỉ gây lãng phí vốn đầu tư mà còn mở ra sơ hở dẫn đến tiêu cực trong hoạt động đầu tư Để đánh giá thất thoát ở khâu này, cần xem xét các tiêu chí như: sử dụng sai định mức kinh tế - kỹ thuật của nhà nước cho từng loại công trình, áp dụng sai giá cả vật tư thiết bị đã thông báo, tính toán sai các loại chi phí theo định mức, và thất thoát, lãng phí trong khâu đền bù, giải phóng mặt bằng.
3.2.2.3 Thất thoát, lãng phí trong khâu lựa chọn nhà thầu
Chuẩn bị tổ chức đấu thầu và thực hiện công tác đấu thầu chất lượng kém sẽ gây ra thất thoát và lãng phí vốn cũng như tài sản trong hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB).
3.2.2.4 Thất thoát, lãng phí trong thi công công trình
Việc thi công công trình không đảm bảo chất lượng dẫn đến thất thoát vốn của nhà nước, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho XDCB
Tỷ lệ thất thoát và lãng phí trong đầu tư xây dựng được tính toán dựa trên tỷ số giữa số tiền thất thoát, lãng phí và tổng số vốn đầu tư đã thực hiện Công thức tính tỷ lệ này thường được biểu thị dưới dạng phần trăm, phản ánh hiệu quả sử dụng vốn trong các giai đoạn như chủ trương đầu tư, chuẩn bị xây dựng, lựa chọn nhà thầu và thi công công trình.
Tỷ lệ thất thoát, lãng phí = Số tiền thất thoát, lãng phí x 100% Tổng số vốn đầu tư đã thực hiện
CÁC CHỈ TIÊU VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VỐN ĐẦU TƯ XDCB
Hiệu quả của đầu tư XDCB từ nguồn NSNN được xác định bởi sự kết hợp giữa hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và bảo vệ môi trường, tất cả đều hướng tới phát triển bền vững và chất lượng phát triển Để đánh giá hiệu quả đầu tư, cần xem xét cả yếu tố định tính và định lượng, từ cấp độ vĩ mô đến vi mô.
Hiệu quả kinh tế của đầu tư XDCB từ nguồn NSNN là tổng hợp các yếu tố lợi ích kinh tế, được xác định bằng cách so sánh giá trị thu được với chi phí đầu tư Các chỉ tiêu kinh tế như ICOR, GDP, GNI phản ánh hiệu quả này, trong đó ICOR là tỷ lệ giữa vốn đầu tư và mức tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội.
Tuy nhiên, do không có dữ liệu về GDP ở cấp huyện, việc tính toán ICOR trở nên không khả thi Vì vậy, nghiên cứu chỉ tập trung phân tích tác động đến hiệu quả kinh tế thông qua tăng trưởng kinh tế và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Hiệu quả xã hội được xác định là sự chênh lệch giữa lợi ích mà xã hội thu nhận và chi phí nguồn lực cần thiết cho đầu tư Đối với đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN), hiệu quả xã hội bao gồm tổng thể các lợi ích xã hội mà các dự án này mang lại Để đạt được sự phát triển bền vững, hiệu quả xã hội cần được xem xét song song với hiệu quả kinh tế, nhằm đảm bảo sự cân đối hài hòa giữa hai yếu tố này, góp phần định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội và phù hợp với bản chất cũng như mô hình của nền kinh tế.
Dự án đầu tư mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, đặc biệt là trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế chung Những lợi ích này có thể được đánh giá thông qua các tiêu chí định tính như việc đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thực hiện chính sách Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội và giảm nghèo bền vững Bên cạnh đó, các chỉ số định lượng như mức tăng thu ngân sách, số lượng việc làm mới, tăng trưởng thu ngoại tệ và vốn đầu tư toàn xã hội so với vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cũng là những yếu tố quan trọng để đo lường hiệu quả của dự án.
Hiệu quả về mặt môi trường
Đầu tư XDCB từ nguồn NSNN không chỉ mang lại hiệu quả về môi trường mà còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững Điều này có nghĩa là cần duy trì các tiêu chuẩn môi trường, đảm bảo rằng các hoạt động đầu tư không gây ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái.
Hiệu quả đầu tư từ nguồn vốn NSNN được xem xét theo ba góc độ:
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) hoặc bất kỳ nguồn vốn nào khác cần phải chú trọng vào việc giảm thiểu ô nhiễm và suy thoái môi trường.
Nhà nước cần ưu tiên vốn đầu tư cho các công trình và dự án về môi trường, vì đây là lĩnh vực công ích với lợi nhuận thấp, khiến các nhà đầu tư tư nhân không mặn mà.
Đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước không chỉ cần đảm bảo hiệu quả về môi trường mà còn có vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ và dẫn dắt toàn xã hội hướng tới một môi trường xanh và sạch hơn.
Hiệu quả về phát triển bền vững
Đầu tư cho phát triển bền vững là yếu tố quan trọng giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường Nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) đóng vai trò quyết định trong việc này, cần gương mẫu và ưu tiên cho các dự án phát triển bền vững Chỉ có Nhà nước mới có khả năng chú trọng đến sự ổn định vĩ mô và khắc phục các khuyết tật của thị trường, trong khi các nhà đầu tư khác thường chỉ tập trung vào lợi ích kinh tế.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư có mức độ và điều kiện tác động khác nhau Sự kết hợp của các yếu tố này có thể tạo ra tác động tích cực hoặc tiêu cực đến hiệu quả đầu tư Do đó, để đánh giá tổng thể hiệu quả của hoạt động đầu tư xây dựng cơ bản từ nguồn ngân sách nhà nước, cần xem xét hiệu quả tổng hợp.
Có nhiều phương pháp để tính toán hiệu quả tổng hợp, bao gồm phương pháp cho điểm, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia, và các phương pháp phức tạp hơn như hồi quy hay số bình quân đa chiều Việc lựa chọn phương pháp nào, hoặc kết hợp các phương pháp, phụ thuộc vào quyết định của người đánh giá trong từng trường hợp cụ thể.
Chỉ tiêu vi mô phản ánh phúc lợi hộ gia đình, bao gồm các lợi ích như cải thiện điều kiện y tế, giáo dục và tăng thu nhập của hộ gia đình sau khi dự án đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) được đưa vào hoạt động.
3.3.2 Đánh giá tác động Đối với nền kinh tế: tăng trưởng kinh tế và dịch chuyển cơ cấu kinh tế Đối với phúc lợi hộ gia đình: Sử dụng thống kê mô tả, phân tích bảng chéo và hệ số tương quan trên 2 khía cạnh: (i) Đánh giá của hộ về lợi ích của công trình và (ii) Chỉ số phúc lợi (thu nhập, tài sản, sức khỏe) Thực hiện kiểm định sự khác biệt trung bình 2 mẫu độc lập và kiểm định Chi bình phương giữa các nhóm hộ có đặc điểm khác nhau.
DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Dữ liệu thứ cấp bao gồm các kết quả nghiên cứu liên quan đến đề tài, số liệu thống kê về đầu tư xây dựng cơ bản từ ngân sách nhà nước của huyện Ngọc Hiển trong giai đoạn 2010 – 2014, cũng như tình hình phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch định hướng phát triển của huyện đến năm 2020.
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ nhiều nguồn, bao gồm sách báo, tạp chí, và các nghiên cứu trong và ngoài nước Ngoài ra, niên giám thống kê và báo cáo từ UBND huyện Ngọc Hiển cùng Phòng Tài chính - Kế hoạch huyện cũng là những nguồn quan trọng.
Ngọc Hiển, huyện thuộc tỉnh Cà Mau, đã chú trọng đầu tư xây dựng nhiều công trình nhằm phát triển kinh tế xã hội và đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong những năm gần đây Tuy nhiên, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, nguồn nhân lực và nguồn vốn ngân sách nhà nước (NSNN) sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý và sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ bản (XDCB) từ NSNN Đề tài này tập trung vào ba xã, gồm thị trấn Rạch Gốc, xã Tam Giang Tây và xã Tân Ân Tây, là những địa phương nhận được nhiều đầu tư XDCB từ NSNN nhất trong giai đoạn 2010 – 2014.
3.4.2.2 Phương pháp thu dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp phản ánh tác động của dự án đầu tư XDCB từ ngân sách nhà nước lên phúc lợi của hộ gia đình Thông tin được thu thập qua phỏng vấn trực tiếp các hộ gia đình hưởng lợi hoặc bị thiệt hại, sử dụng bảng câu hỏi in sẵn Điều tra viên sẽ đến từng nhà và thực hiện phỏng vấn với chủ hộ hoặc người đại diện của hộ gia đình.
Bảng câu hỏi gồm có những thông tin chính như sau:
Thông tin về hộ gia đình: thông tin nhân khẩu, tài sản, thu nhập v.v
Công trình hạ tầng được triển khai vào thời điểm cụ thể, với khoảng cách nhất định đến các hộ gia đình, và việc sử dụng công trình này diễn ra thường xuyên Đánh giá từ các hộ gia đình cho thấy sự thay đổi tích cực trong thu nhập và tình trạng sức khỏe của các thành viên sau khi công trình hoàn thành và đưa vào sử dụng.
Cỡ mẫu được tính theo công thức:
(2) Trong đó: p: tỷ lệ xuất hiện các phần tử trong đơn vị lấy mẫu (0 ≤ p ≤ 1)
MOE: tỷ lệ sai số ước lượng Ở đây tác giả chọn p = 0,70; Zα /2= 1,96 và sai số ước lượng MOE = 0,07 → n
Nghiên cứu đã chọn cỡ mẫu là 165, tuy nhiên để đảm bảo thu thập đủ số lượng quan sát, đề tài đã tiến hành phỏng vấn 220 hộ dân nhằm dự phòng cho việc đạt đủ cỡ mẫu cần thiết.