Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
Địa điểm nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu
- Thời gian: Từ năm 1970 đến năm 2015.
Đối tượng nghiên cứu
- Du lịch tỉnh Điện Biên
- Biến đổi khí hậu tỉnh Điện Biên.
Nội dung nghiên cứu
3.4.1 Tìm hiểu đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh
- Điều kiện tự nhiên (khí hậu, địa hình, thủy văn, sinh vật)
- Tình hình phát triển kinh tế - xã hội
3.4.2 Đặc điểm ngành du lịch ở tỉnh Điện Biên
- Vai trò ngành du lịch
- Thống kê số lượng các cơ quan/công ty, dịch vụ phục vụ ngành du lịch
- Thống kê số lượng lao động phục vụ ngành du lịch
- Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch
- Các hoạt động du lich
3.4.3 Xu hướng biến đổi khí hậu ở tỉnh Điện Biên
- Xu hướng thay đổi nhiệt độ, độ ẩm
- Xu hướng thay đổi lượng mưa
3.4.4 Ảnh hưởng của BĐKH tới hoạt động du lịch
- Xu hướng thay đổi chỉ số du lịch khí hậu (Tourism Climate Index – TCI)
- Ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết cực đoan tới hoạt động du lịch
- Đánh giá của cán bộ công tác trong ngành du lịch về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến hoạt động du lịch
3.4.5 Các biện pháp thích ứng với BĐKH của ngành du lịch
- Đề xuất giải pháp ứng phó với BĐKH cho ngành du lịch ở Điện Biên
Phương pháp nghiên cứu
3.5.1 Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập tài liệu thứ cấp liên quan đến điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và ngành du lịch của địa phương thông qua các báo cáo địa phương, sách báo, và internet là một bước quan trọng trong việc nghiên cứu và phát triển du lịch.
Tài liệu và số liệu khí tượng trung bình tháng tại Điện Biên từ 1970-2015 đã được thu thập từ Trung tâm Khí tượng Thủy văn Điện Biên và Trung tâm Khí tượng Thủy văn Quốc gia Các yếu tố khí tượng như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa, số giờ nắng và vận tốc gió được sử dụng để đánh giá xu hướng thay đổi khí hậu và tìm hiểu ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đến du lịch thông qua việc tính toán chỉ số khí hậu du lịch (Tourism Climate Index - TCI).
3.5.2 Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
- Sử dụng phiếu hỏi có cấu trúc:
Đối tượng: Người lao động trong ngành du lịch của tỉnh Điện Biên (cơ sở kinh doanh lưu trú và ăn uống)
Địa điểm: Thành phố Điện Biên Phủ và huyện Điện Biên
Nội dung.: Đánh giá của người lao động trong ngành du lịch về BĐKH và ảnh hưởng của BĐKH đến hoạt động du lịch
Theo số liệu thống kê năm 2016 của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên, có 120 cơ sở kinh doanh dịch vụ du lịch Để xác định số lượng phiếu điều tra tối thiểu, chúng ta áp dụng công thức Slovin: n = N / (1 + N * e²), trong đó sai số cho phép được tính toán để đảm bảo độ chính xác của kết quả.
Chọn mức sai số là 10% thì dung lượng mẫu tối thiểu sẽ là: n = 120/ (1+120 * 0,1 2 ) = 55
Tổng cộng, 55 mẫu đã được lựa chọn ngẫu nhiên từ danh sách 120 cơ sở kinh doanh trong tỉnh để thực hiện phỏng vấn Thông tin chi tiết về người tham gia phỏng vấn được thể hiện trong Bảng 3.1.
Bảng 3.1 Thông tin về người tham gia phỏng vấn Đặc điểm Đơn vị Số lượng
Hoạt động liên quan đến du lịch % %
Kinh doanh cơ sở lưu trú 51 28
Thời gian kinh doanh du lịch Năm
Nguồn: Kết quả phỏng vấn có cấu trúc năm 2016, nU
Để hiểu rõ hơn về tác động của các hiện tượng thời tiết cực đoan đối với hoạt động du lịch tại tỉnh Điện Biên, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu hai chuyên gia có kinh nghiệm lâu năm trong ngành, đó là ông Nguyễn Đăng Quang - Phó Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên, và ông Nguyễn Văn Nam - Trưởng phòng nghiệp vụ du lịch thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Điện Biên.
Phương pháp phân tích SWOT
Phân tích SWOT được áp dụng để đánh giá thuận lợi và khó khăn trong việc thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) của ngành du lịch tại địa bàn Để thu thập thông tin, nhóm nghiên cứu đã phỏng vấn bốn cán bộ đại diện từ các cơ quan quản lý du lịch tỉnh ĐB, bao gồm Phòng Nghiệp vụ của Trung tâm Xúc tiến Thương mại & Du lịch và Sở Văn hóa, Thể thao & Du lịch Nhiệt độ và độ ẩm được xác định là hai yếu tố chính ảnh hưởng đến cảm nhận thời tiết của du khách, do đó, xu hướng thay đổi của chúng đã được phân tích Tuy nhiên, do không có dữ liệu về nhiệt độ tối thấp, yếu tố này không được đưa vào nghiên cứu Để phân tích xu hướng khí hậu, phương pháp kiểm định t-Test (hai mẫu với phương sai không bằng nhau) đã được sử dụng để so sánh giá trị trung bình của các yếu tố trong giai đoạn 2000-2015 với giai đoạn trước đó (1970-1999).
Phương pháp tính chỉ số khí hậu du lịch (Tourism Climate Index-TCI)
Chỉ số TCI, được Mieczkowski đề xuất vào năm 1985, là công cụ quan trọng để đánh giá mức độ thuận lợi của khí hậu cho hoạt động du lịch Chỉ số này phản ánh điều kiện khí hậu phù hợp cho các hoạt động ngoài trời, như tham quan danh lam thắng cảnh, và hiện đang được áp dụng rộng rãi trong ngành du lịch toàn cầu TCI xem xét các yếu tố khí hậu như nhiệt độ, mưa, gió và mức độ che phủ bởi mây, được tính toán dựa trên giá trị trung bình tháng của bảy yếu tố khí tượng: nhiệt độ tối cao, nhiệt độ trung bình, độ ẩm tương đối tối thấp, độ ẩm trung bình, lượng mưa, số giờ nắng và tốc độ gió Theo Mieczkowski, các yếu tố này được phân nhóm thành các chỉ số phụ như chỉ số thoải mái ban ngày (CID) và chỉ số thoải mái hàng ngày (CIA), cung cấp cái nhìn sâu sắc về điều kiện nhiệt độ trong suốt cả ngày.
TCI được tính theo công thức TCI = 8CID + 2CIA + 4R + 4S + 2W, trong đó mỗi chỉ số phụ có trọng số từ -3 đến 5, dẫn đến giá trị tối đa của TCI là 100 Mieczkowski đã trình bày mức độ phù hợp của khí hậu cho du lịch trong Bảng 3.2.
Bảng 3.2 Giá trị chỉ số khí hậu du lịch và phân loại mức thoải mái của chỉ số
TCI Đánh giá chỉ số
0 -29 Rất không phù hợp Để tính TCI trong tương lai, giá trị nhiệt độ và lượng mưa trong giai đoạn
Dữ liệu về kịch bản biến đổi khí hậu (BĐKH) của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TN&MT) năm 2010 đã được sử dụng để tính toán các chỉ số cho các năm 2020, 2050, 2080 và 2100 Tuy nhiên, do thiếu các yếu tố khí hậu như độ ẩm, số giờ nắng và tốc độ gió trong cơ sở dữ liệu, các yếu tố này được giả định là không thay đổi trong quá trình tính toán chỉ số TCI.
Mức thay đổi nhiệt độ và lượng mưa trong tương lai được so sánh với giai đoạn 1980-1999, do đó, chỉ số TCI đã được tính toán cho hai giai đoạn là 1980-1999 và 1986-2015.